Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở trường trung học phổ thông nọi trú đồ sơn, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

Phạm Thị Khanh

Biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở Trường Trung học phổ thơng nọi
trú Đồ Sơn, thành phố Hải Phịng

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số:

60 14 05

HÀ NỘI – 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát điểm lý luận
Những năm đầu của thế kỷ XXI đã được đánh dấu bằng sự phát triển
mới về chất lượng với những thành tựu to lớn của khoa học công nghệ, song
con người cũng đang đứng trước nhiều vấn đề sống cịn của xã hội cơng
nghiệp và nền kinh tế tri thức đặt ra. Đảng và nhà nước ta đã coi sự nghiệp
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Để đảm bảo thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì phải: "Ưu tiên hàng đầu cho việc
nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ
sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy
nghĩ của học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên
khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp
của bản thân với tương lai cộng đồng, dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh


viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại.
Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất
lượng giáo dục đào tạo"[6].
Để hoàn thành sứ mệnh lớn lao của sự nghiệp giáo dục, Bộ Giáo dục và
đào tạo đang tiến hành cuộc vận động: "Chống tiêu cực và bệnh thành tích
trong giáo dục", “chống ngồi nhầm lớp” nhằm đưa học sinh được đào tạo có
chất lượng thực sự. Đồng thời giáo dục phải không ngừng đổi mới, đổi mới cả
về nội dung chương trình, về phương pháp giảng dạy...
Một trong nhiều phương pháp giáo dục được áp dụng, trong đó có tổ chức
hoạt động ngoại khoá trong nhà trường. Hoạt động ngoại khoá là một hoạt
động quan trọng trong quá trình nhận thức của con người nhằm chiếm lĩnh tri
thức, khám phá ra các quy luật khoa học. Hoạt động ngoại khố cịn là hoạt
động quan trọng của người học sinh nhằm bổ sung, ôn luyện, củng cố, khắc

-1-


sâu, mở rộng kiến thức, vốn sống cho người học, chính vì vậy hoạt động ngoại
khố phải được định hướng, tổ chức, quản lý có phương pháp đối với học
sinh.
Hoạt động ngoại khố là hình thức để phát huy nội lực vươn lên trong
quá trình cập nhật kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của xã hội là một đòi hỏi tất yếu trong thời đại : "Kinh tế tri thức"
của chúng ta ngày nay.
Đặc biệt hoạt động ngoại khoá là một bộ phận quan trọng trong hoạt
động giáo dục ở trường phổ thông, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu giáo dục của nhà trường. Hoạt động này là sự tiếp nối các hoạt động dạy
học ở trên lớp, nhằm giáo dục học sinh một cách tồn diện, góp phần hình
thành nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh.
Hiện nay hoạt động ngoại khố tại các trường THPT cịn yếu thường là

tự phát chưa được quản lý chặt chẽ, chưa xây dựng được nề nếp, chưa có hiệu
quả trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Vấn đề đặt ra là cần phải hình thành ý thức tham gia các hoạt động
ngoại khố của học sinh một cách có mục đích, nội dung rõ ràng và được quản
lý chặt chẽ, đưa vào nề nếp, đầy đủ, mạnh mẽ, góp phần củng cố, nâng cao
kiến thức, làm rõ thêm nội dung của môn học.
Từ đó học sinh có ý thức tham gia một cách tự giác các hoạt động ngoại
khoá của nhà trường.
1.2. Xuất phát điểm thực tiễn
Trường THPT Nội trú Đồ Sơn có 450 học sinh nội trú với 13 lớp (4 lớp
THCS, 9 lớp THPT) với 28 giáo viên, 20 CB-CNV, trong đó có 3 cán bộ quản
lý. Học sinh của trường là học sinh của các huyện đảo, vùng sâu, vùng xa có
hồn cảnh đặc biệt khó khăn khơng nơi nương tựa. Phần lớn các em ngoan,
chăm học nhưng cũng có một số lượng khơng nhỏ học yếu, thiếu ý thức tự
giác, thiếu sự dạy bảo, kèm cặp của người lớn như học sinh các huyện: Bạch
Long Vỹ, Cát Hải, các em quen sống tự do. Đặc biệt học sinh nội trú ăn, nghỉ,
-2-


sinh hoạt, học tập tại trường, ngoài thời gian học chính khố, các em cịn
nhiều thời gian rảnh rỗi, nếu khơng được định hướng vào những hoạt động có
mục đích dễ dẫn đến hành vi tự phát ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của
nhà trường. Mặt khác do trình độ, khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh
không đồng đều, việc giảng dạy trong chương trình chính khố sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Vì vậy hoạt động ngoại khoá là hết sức cần thiết, phải được
xác lập các biện pháp quản lý kịp thời trong việc hướng dẫn, tổ chức hoạt
động ngoại khoá và nâng cao khả năng tự nhận thức, tự rèn luyện của học
sinh.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi lựa chọn đề tài: "Biện
pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở trường Trung học phổ thông Nội trú

Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng" để nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp
khoá đào tạo thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở Trường THPT
Nội trú Đồ Sơn, thành phố Hải Phịng nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục trong trường Trung học phổ thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở Trường THPT Nội trú Đồ
Sơn, thành phố Hải Phòng.
3.3. Đối tượng được khảo sát
- 200 em học sinh nội trú của Trường THPT Nội trú Đồ Sơn, thành phố
Hải Phòng
- Các tổ chức, đoàn thể trong trường THPT Nội trú Đồ Sơn: BGH, Chi
bộ, Cơng đồn, Đồn thanh niên, Quản sinh, Tổ, nhóm chun mơn, cán bộ
lớp, GVCN
4. Giả thuyết khoa học

-3-


Trong trường THPT Nội trú Đồ Sơn có nhiều cán bộ giáo viên còn yếu về
biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá và chưa thống nhất về mặt yêu cầu sư
phạm. Thực hiện mục đích nghiên cứu trên sẽ nâng cao năng lực tổ chức và
quản lý hoạt động ngoại khóa của ban giám hiệu và các đồn thể trong trường,
đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện học sinh, tạo cho
các em tính chủ động, sáng tạo, có phương pháp tự học, tự rèn luyện suốt đời.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về các biện pháp quản lý hoạt động ngoaị
khoá đối với học sinh bậc trung học, các yếu tố ảnh hưởng chi phối nếu xây
dựng các biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá đối với học sinh trung
học phổ thơng
5.2. Khảo sát và phân tích thực trạng cơng tác quản lý hoạt động ngoại
khố của trường trung học phổ thông nội trú Đồ Sơn, thành phố Hải
Phòng
5.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động ngoại
khoá đảm bảo cho bộ máy quản lý của trườngôtrung học phổ thông Nội trú
Đồ Sơn, thành phố Hải Phịng hồn thành được mục tiêu của ngành, của
trường. Khảo nghiệm nhận thức về tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp đã nêu
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ nghiên cứu khảo sát thực trạng các biện pháp quản lý
hoạt động ngoại khoá của đội ngũ BGH trong trường THPT Nội trú Đồ Sơn từ
năm học 2006-2007, 2007 -2008; đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
ngoại khóa cho những năm học tiếp theo.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

-4-


7.2.1. Phương pháp quan sát
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Thực hiện phương pháp này với thầy cô giáo, cán bộ quản lý để tìm ra
cơ sở lý luận, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngoại khoá, xu thế phát
triển tâm sinh lý của học sinh THPT về tính khả thi của các biện pháp đề xuất.


7.2.3. Phương pháp trò chuyện
Tổ chức trao đổi học tập kinh nghiệm với một số trường nội trú đã làm
tốt công tác này như trường Dân tộc Nội trú vùng cao Việt Bắc, trường THPT
dân tộc Nội trú Hồ Bình, trường THPT dân tộc Nội trú Phú Thọ …
7.2.4. Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi
- Các biện pháp quản lý HĐNK của BGH và các tổ chức.
- Những suy nghĩ, nhận thức của học sinh trước các biện pháp quản lý
HĐNK của BGH và các tổ chức trong trường.
7.2.5. Phương pháp mơ hình hóa
Phương pháp này được dùng trong việc xây dựng mơ hình hiện trạng và
mơ hình hệ thống quản lý HĐNK.
7.2.6. Phương pháp điều tra kiểm chứng
Điều tra kiểm chứng nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về mức độ
cần thiết và tính khả thi các biện pháp quản lý HĐNK ở trường THPT Nội trú
Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
7.2.7. Phương pháp thử nghiệm
Với một số biện pháp thực hiện quản lý HĐNK ở trường THPT Nội trú Đồ
Sơn, thành phố Hải Phịng.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu nghiên cứu: sử dụng thống kê toán học
Phương pháp này dùng trong việc thống kê tổng hợp các phiếu điều tra
cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh.
8. Cấu trúc luận văn

-5-


Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, phụ lục, luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của các biện pháp quản lý hoạt động ngoại
khố ở trường Trung học phổ thơng.

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động ngoại khoá ở trường trung học
phổ thơng Nội trú Đồ Sơn, thành phố Hải Phịng
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động ngoại khoá ở trườngôTrung
học phổ thông Nội trú Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Hoạt động ngoại khoá là một phần quan trọng trong chương trình giáo
dục ở hầu hết tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động này được chú trọng
nghiên cứu và thực hiện như là một cơng cụ hữu ích để giúp học sinh học tập
có kết quả hơn và phát triển tồn diện hơn nhân cách của các em.
J.A.Cơmenxki - ông tổ của nền sư phạm cận đại trong thời gian làm cố
vấn giáo dục tại Hung ga ri đã rất coi trọng hoạt động ngoại khố.
Ở thời đó ơng đã áp dụng phương pháp dạy học mới, đặc biệt là việc mở
rộng các hình thức học tập ngồi lớp, nhằm khơi dậy và phát huy những khả
năng tiềm ẩn, nhằm rèn luyện cá tính cho học sinh, đã chứng minh cho quan
điểm giáo dục mới đầy tính thuyết phục [15].
Nhà sư phạm người Nga T.VSmiêcnôva cũng cho rằng: Ngoại khoá để
thu hút học sinh, làm cho họ hứng thú và đi đến kết luận rằng ngoại khoá cần
được suy nghĩ kỹ và tiến hành ở tất cả các lớp trong hệ thống giáo dục mà
khơng được mang tính chất thất thường.[5].
Nhà sư phạm A.T. Côpchiêva xem hoạt động ngoại khoá là để nâng cao
đạo đức và năng khiếu mọi mặt của học sinh. “Công việc chuẩn bị dạ hội

-6-


chuyên đề đã làm cho thầy trò gần gũi nhau. Thầy nắm vững được yêu cầu xu
hướng của học sinh, xác định thái độ đạo đức cho mỗi em”. Từ thực tiễn trải

nghiệm, nhà sư phạm A.T.Côpchiêva kết luận: “Công việc ngoại khố nếu
được tiến hành có hệ thống khơng những nâng cao trình độ chung về sự tiến
bộ của học sinh mà cịn cả về trình độ ngơn ngữ, kiến thức của các em”.[5].
Cai Rôp– Nhà giáo dục học người Nga đã viết: “Khi đặt kế hoạch công
tác giảng dạy chung cho cả năm học mới, người hiệu trưởng phải xét kết quả
hoạt động ngoài lớp năm học trước và nhằm mục đích nâng cao thành tích của
học sinh, củng cố kỷ luật và nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường,
mà định nhiệm vụ hoạt động ngoài lớp cho năm học sắp tới. Trong kế hoạch
công tác của nhà trường có dành một mục riêng cho hoạt động ngồi lớp. Mục
đích đó gồm mấy yếu tố sau: Xây dựng điều kiện và cơ sở vật chất cho hoạt
động ngoài lớp năm tới, các hoạt động ngoài lớp của nhà trường và của lớp,
phân phối lực lượng và định kỳ hạn cho kế hoạch. Về kế hoạch tỷ mỉ, cụ thể
về cách tổ chức các hoạt động quần chúng đặc biệt, hoặc các ngày nghỉ… thì
người phụ trách tổ chức và người chỉ đạo sẽ quyết định riêng và bổ sung cho
kế hoạch toàn năm. Những người phụ trách tổ chức và người chỉ đạo ấy chính
là những người được uỷ nhiệm thi hành những điều khoản bổ sung kia”[5]
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu này đã làm nổi rõ tầm quan trọng
của các hoạt động ngoại khoá và chỉ ra một số biện pháp cần thiết cho nhà
quản lý phải làm gì để tổ chức và quản lí tốt các hoạt động này nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục.
1.1.2. Trong nước
Trong nước, từ những năm 60 của thế kỷ XX, khi xây dựng chương
trình giáo dục, Bộ Giáo dục đã xác định rõ: “Muốn thực hiện giáo dục và giáo
dưỡng trong các môn học đạt kết quả đầy đủ thì ở nhà trường cần tổ chức
ngoại khố. Hồn cảnh kháng chiến trước đây chưa cho phép chúng ta thực
hiện đầy đủ công tác này cho nên trong chương trình cũng chưa ghi phần

-7-



ngoại khố. Từ lúc hồ bình được lập lại, vấn đề này được nêu ra và được các
địa phương thực hiện lẻ tẻ. Trong chương trình mới cơng tác ngoại khố trở
thành một phần quan trọng, khăng khít với nội khố. Cơng tác ngoại khố
khơng nên vì cái tên ngoại khóa của nó mà bị đặt vào một vị trí quá ư thấp
kém như một số trường vẫn làm như vậy. Cơng tác ngoại khố khơng hề mâu
thuẫn gì với nội dung giáo dục, giáo dưỡng của nhà trường XHCN mà trái lại
bổ sung và nâng cao chất lượng của nội khoá lên một bước”.[2].
Tác giả Nguyễn Văn Thiềm trong bài “ Mấy biện pháp giáo dục học
sinh ngoài giờ lên lớp theo địa bàn dân cư” cho rằng: chất lượng giáo dục học
sinh ở nhà trường giảm sút có nguyên nhân từ việc tổ chức các hoạt động giáo
dục ngồi giờ lên lớp bị bng lỏng [24].
Tác giả Đinh Xn Huy với cơng trình nghiên cứu các biện pháp quản
lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của người hiệu trưởng trong trường
phổ thông Dân Tộc Nội Trú – Tỉnh Lai Châu đã khẳng định vai trò quan trọng
của tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đối với việc nâng cao
chất lượng giáo dục của trường phổ thông Dân Tộc Nội Trú, xây dựng các
biện pháp quản lý hoạt động này của người hiệu trưởng, trong đó có hoạt động
ngoại khố [14]
Các tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn giáo dục học cũng
nhấn mạnh vai trò và tác dụng của hình thức họat động ngọai khố, coi đây là
một trong những hình thức dạy học có khả năng tạo hứng thú cho học sinh,
giúp các em mở rộng, nâng cao, khắc sâu kiến thức được tốt hơn [13].
Nhìn chung các tác giả trên thế giới và trong nước đều đề cao vai trị và
tác dụng của hoạt động ngoại khố trong quá trình giáo dục học sinh, xem
hoạt động ngoại khố là một trong những hình thức tổ chức dạy học quan
trọng, khơng thể thiếu trong q trình dạy học và giáo dục học sinh.
Tuy nhiên bên cạnh việc khẳng định tính cần thiết của tổ chức hoạt
động ngoại khố, những cơng trình nghiên cứu này chưa chỉ ra một cách cụ

-8-



thể việc cần tổ chức và quản lý hoạt động ngoại khoá ra sao? Làm thế nào để
hoạt động ngoại khố trong nhà trường trung học phổ thơng thực sự là một
họat động thường xuyên có kết quả tốt? Cách thức cho nhà quản lý khi tổ chức
hướng dẫn thực hiện các tổ nhóm chun mơn đưa hoạt động ngoại khoá vào
trong kế hoạch năm học? … Điều này khiến cho khơng ít trường phổ thơng
vẫn cảm thấy hoạt động ngoại khố cịn là việc làm có tính hình thức, ép
buộc…
Vì thế việc xây dựng cơ sở lý luận cho quản lý hoạt động ngoại khố
giúp nhà quản lý có cơ sở điều hành công tác chuyên môn của nhà trường nói
chung, hoạt động ngoại khố nói riêng đạt kết quả tốt hơn.

1.2. Lí luận chung về quản lý quá trình giáo dục - đào tạo
1.2.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một thuộc tính lịch sử, nội tại của mọi q trình lao động. Nó
là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm, như C.Mac đã nói: "Bất cứ lao
động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối
lớn, đều cần ở một chừng mực nhất định đến sự quản lý."
Quản lý là một quá trình lựa chọn các tác động, nhà quản lý phải biết
sắp xếp và thể hiện hợp lý các tác động lên đối tượng bị quản lý sao cho
đảm bảo sự cân đối cả hai mặt ổn định và phát triển của bộ máy. Nếu chỉ có
ổn định mà khơng phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thối và ngược lại nếu
phát triển mà khơng ổn định thì sẽ có nguy cơ rối ren. Quản lý còn là việc
đặt ra mục tiêu, lựa chọn các phương tiện, điều kiện và tác động vào từng
thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt mục tiêu
quản lý. Về phương diện nhà quản lý thì quản lý là sự tác động của nhà
quản lý trong việc chỉ huy, điều khiển, tổ chức quản lý hướng vào các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của từng con người trong quá trình quản
lý nhằm đưa đến sự phát triển, biến đổi phù hợp với quy luật khách quan,


-9-


đạt mục tiêu quản lý. Để quản lí người quản lí phải lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, chỉ đạo và kiểm sốt cơng việc.
Cụ thể:
- Lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và
phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó.
Lập kế hoạch là một phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt được các mục
tiêu định trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó
gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai.
Căn cứ chủ thể của kế hoạch, có thể chia kế hoạch làm hai loại: kế
hoạch tập thể và kế hoạch cá nhân. Căn cứ phạm vi kế hoạch, cũng có thể chia
kế hoạch làm hai loại: kế hoạch tổng quát và kế hoạch chi tiết.
- Tổ chức:
Chức năng tổ chức là chức năng hình thành cơ cấu tổ chức quản lý cùng
các mối quan hệ giữa chúng. Đây là chức năng quan trọng thứ hai của các nhà
lãnh đạo hệ thống sau chức năng lập kế hoạch.
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các
nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể đạt được các mục tiêu
của tổ chức một cách có hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau, đòi hỏi
cấu trúc của hệ thống cũng khác nhau. Nhờ tổ chức có hiệu quả mà người
quản lý có thể điều phối tốt hơn nguồn nhân lực và các nguồn lực khác. Một tổ
chức được cấu trúc phù hợp sẽ phát huy được năng lực nội sinh và có ý nghĩa
quyết định đối với việc chuyển hố kế hoạch thành hiện thực.
- Lãnh đạo (chỉ đạo):
Các chức năng lập kế hoạch và tổ chức dù đã được thực hiện tốt nhưng
nếu nó khơng được vận hành trong thực tiễn quản lý thì cũng khơng có giá trị

gì.

-10-


Lãnh đạo là điều khiển/điều hành, tác động, huy động và giúp đỡ con
người và tổ chức trong hệ thống thực hiện nhiệm lãnh đạo là quá trình tác
động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động viên họ tham gia
xây dựng kế hoạch, giám sát thực hiện kế hoạch và kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện kế hoạch, hồn thành những cơng việc nhất định để đạt được mục
tiêu của tổ chức.
- Kiểm tra:
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, người lãnh đạo hệ thống cần thiết và
phải thực hiện chức năng kiểm tra của quản lý, lãnh đạo mà khơng kiểm tra thì
coi như khơng lãnh đạo.
Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống là thiết lập mối liên hệ ngược trong
quản lý. Có ba yếu tố cơ bản trong công tác kiểm tra:
+ Xây dựng chuẩn thực hiện.
+ Đánh giá việc thực hiện trên cơ sở so sánh chuẩn.
+ Nếu có sự chênh lệch thì cần điều chỉnh hoạt động.
Trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh mục tiêu.
Quan hệ giữa các chức năng của hoạt động quản lý thể hiện trong sơ đồ:
KẾ HOẠCH

KIỂM TRA

THÔNG TIN

TỔ CHỨC


CHỈ ĐẠO

Sơ đồ 1.1: Các chức năng quản lý
Như vậy quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tính chất
lựa chọn các tác động phù hợp dựa trên các thơng tin về tình trạng của đối
tượng và môi trường nhằm tạo cho đối tượng vừa vận hành trong thế ổn định,
vừa tạo sự phát triển theo mục đích đề ra được thực hiện thông qua các hoạt
động lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá.
-11-


1.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Nhà giáo dục học người Nga P. V Khu đô min xki cho rằng: “Quản lý
giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích
của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo
dục nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện và hài hoà cho thế hệ trẻ.” [18].
Khoa học quản lý giáo dục là một bộ phận chuyên biệt của khoa học
quản lý nói chung, nhưng là một khoa học tương đối độc lập, đồng thời nó
cũng là bộ phận của khoa học giáo dục.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, quản lý giáo dục là một hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ giáo dục vận hành theo đường lối, nguyên lý giáo dục của
Đảng, thể hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam
mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục
đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. Cũng theo Nguyễn Ngọc
Quang, khái niệm quản lý giáo dục là khái niệm quản lý đa cấp, nghĩa là có sự
phân cấp quản lý giáo dục từ cấp trung ương đến cấp tỉnh, huyện, thị. Quản lý
giáo dục bao hàm cả quản lý hệ thống giáo dục quốc dân và quản lý các phân
hệ của nó, đặc biệt quản lý trường học [21].
Quản lý giáo dục là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Đó

là loại hình hoạt động chuyên biệt nhưng lại ảnh hưởng tới toàn xã hội nói
chung, tới mỗi bộ phận cấu thành của nó nói riêng. Do tính đa cấp, quản lý
giáo dục là loại hình quản lý được đơng đảo thành viên tham gia và hơn
nữa, bản thân nó là hoạt động mang tính xã hội - nhân văn, vì vậy phải đặc
biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa người dạy và người học, giữa cán bộ
quản lý giáo dục với người dạy và người học và rộng hơn nữa là mối quan
hệ nhà trường - gia đình - xã hội.

-12-


Quản lý giáo dục khơng chỉ có ý nghĩa là loại hình quản lý có tính xã hội
mà điều cơ bản là nó phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với toàn
bộ hệ thống giáo dục.
Giáo sư Phạm Viết Vượng cho rằng: Mục đích cuối cùng của quản lý
giáo dục là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo lớp thanh niên
thơng minh sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc
của bản thân và xã hội.
Như vậy, có thể nói, quản lí giáo dục về thực chất là quản lí có hiệu
quả chất lượng giáo dục (bao gồm dạy học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được
thực hiện thơng qua các tác động có mục đích, có kế hoạch, qua các chức
năng tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá để đào tạo thế hệ trẻ thông minh
sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân
và xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Trường học là tổ chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước và xã hội,
trực tiếp làm công tác giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, trực tiếp tham gia vào quá
trình thực hiện mục tiêu bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đào tạo nhân lực,
nâng cao dân trí. Nhà trường là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ thống quản lý
giáo dục nào từ trung ương đến địa phương.

Vì vậy, trường học nói chung là khách thể cơ bản của tất cả các cấp
quản lý vì xét đến cùng, việc quản lý trong các hệ thống giáo dục ở tất cả các
cấp đều nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi tối ưu cho việc đạt mục đích,
mục tiêu, chất lượng, hiệu quả của nhà trường.
Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục." [12].
Quản lý nhà trường bao gồm nhiều mặt: quản lý trình độ phát triển của
đội ngũ, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết quả đào tạo, quản lý các tổ chức sư phạm,

-13-


chính trị - xã hội trong nhà trường ... Song, tiêu điểm của quản lý nhà trường
là quản lý quá trình đào tạo, mà thực chất là quản lý quá trình dạy học và giáo
dục trong sự thống nhất, nhằm mục đích cuối cùng là thực hiện thắng lợi mục
tiêu cơ bản của giáo dục.
Vì vậy, yêu cầu đối với việc quản lý nhà trường là phải tập hợp và tổ
chức hợp lý, khoa học các hoạt động giáo dục, đạt hiệu quả tối ưu, đảm bảo
cho tất cả các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục đạt hiệu quả, chất
lượng mong muốn. Đồng thời, thông qua công tác quản lý, chủ thể giáo dục
(nhà trường, các tập thể sư phạm và từng giáo viên ...) phải khai thác, tận dụng
được các nguồn đầu tư của Nhà nước, gia đình và của các tổ chức, cá nhân
khác trong và ngồi nước. Phải thực hịên tốt nhất, có hiệu quả nhất các yêu
cầu đặt ra trong mục tiêu giáo dục chung mà điểm hội tụ là đảm bảo chất
lượng của quá trình đào tạo, cung cấp cho xã hội, cho cuộc sống nguồn nhân
lực, những nhân tài đáp ứng nhu cầu phát triển, thơng qua q trình hoạt động,
đưa nhà trường phát triển, đạt tới hiệu quả, chất lượng mới, đạt tới trạng thái
vận động phát triển mới.
Bản chất của việc quản lý nhà trường là: Quản lý hoạt động dạy, quản lý

hoạt động học và các hoạt động giáo dục, trong đó có HĐNK. Q trình quản
lý ấy làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
dần đạt mục tiêu. Các hoạt động trong nhà trường bản thân nó đã có tính giáo
dục song cần có sự quản lý, tổ chức chặt chẽ mới phát huy được hiệu quả của
bộ máy.
Mục tiêu quản lý của nhà trường được cụ thể hoá trong kế hoạch, nhiệm
vụ năm học, tập trung vào việc phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Để
thực hiện mục tiêu này người hiệu trưởng phải tiến hành các hoạt động quản
lí: xây dựng mơi trường giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất nhà trường và các
điều kiện phục vụ cho dạy và học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tạo

-14-


lập và duy trì tốt mối quan hệ nhà trường –gia đình –xã hội, thực hiện dân chủ
hố trong quản lý nhà trường và các hoạt động khác.
Như vậy, quản lí nhà trường là việc người hiệu trưởng xây dựng mục
tiêu, kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá các kết quả đạt
được so với yêu cầu và chuẩn mực đề ra trong chương trình giáo dục và
nhiệm vụ năm học về chất lưọng phát triển tồn diện nhân cách của học sinh.
Quản lí nhà trường tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục mà
trọng tâm là quản lí các hoạt động dạy học và giáo dục diễn ra trong nhà
trường, trên lớp học và các hoạt động ngồi nhà trường.
1.2.4. Quản lí quá trình đào tạo
Nội dung của quản lý quá trình đào tạo với tư cách là một hệ thống khá
phức tạp và toàn vẹn. Gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Quản lý mục tiêu đào tạo:
Đó là quản lý việc xây dựng và thực hiện mục tiêu đào tạo trong quá
trình đào tạo. Quản lý mục tiêu đào tạo là quản lý một hệ thống những yêu cầu
lâu dài và trước mắt của xã hội đối với sự phát triển "nhân cách người lao

động mới, nhân cách người công dân mới, nhân cách người chủ gia đình mới"
[PGS.TS Nguyễn Hữu Long, 2007], nhân cách của người học, đối với những
phẩm chất, năng lực cần phải có của người học sau từng giai đoạn học tập.
- Quản lý nội dung chương trình đào tạo:
Là quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung đào tạo theo mục tiêu
yêu cầu đặt ra. Quản lý nội dung chương trình đào tạo bao hàm cả việc quản lý
nội dung truyền đạt của người dạy và cách tổ chức cho người học lĩnh hội nội
dung, đảm bảo các yêu cầu cơ bản về tỷ lệ giữa các khối kiến thức, tính hợp lý
của cấu trúc chương trình, tính khoa học, tính tư tưởng, tính thực tiễn của nội
dung và sự đảm bảo tính cân đối, phù hợp giữa lý thuyết với thực hành, giữa
cơ bản và chuyên sâu, giữa truyền thống và hiện đại ...

-15-


- Quản lý phương pháp đào tạo:
Là quản lý phương pháp dạy, học và các phương pháp giáo dục, rèn
luyện người học về phẩm chất chính trị, đạo đức để làm chuyển biến nhân
cách của người học theo mục tiêu, nội dung đã xác định.
- Quản lý hình thức tổ chức đào tạo:
Đó là quản lý hình thức tổ chức kết hợp các hoạt động của giáo viên,
cán bộ quản lý và học sinh nhằm thực hiện nội dung đào tạo như: lên lớp, tự
học, thực hành, thực tập, tham quan, thi tốt nghiệp.
- Quản lý kết quả đào tạo:
Đó là quản lý kết quả hoạt động dạy, học và giáo dục. Những kết quả
đào tạo được kiểm tra, đánh giá một cách kịp thời và chính xác, được đối
chiếu thường xuyên với hệ thống các mục đích và nhiệm vụ giáo dục sẽ trở
thành yếu tố kích thích, điều chỉnh quá trình đào tạo.
- Quản lý các điều kiện đảm bảo:
Đó là quản lý các phương tiện vật chất kỹ thuật (trường sở, trang thiết bị

dạy học) và các yếu tố về chính trị, tinh thần (sự đồn kết thân ái, tương trợ
giúp đỡ của tập thể, dư luận lành mạnh, sự quan tâm của nhà trường đối với
thầy và trị ...) đảm bảo cho q trình đào tạo. Những điều kiện đó tác động
thường xuyên tạm thời đến q trình đào tạo, do vậy địi hỏi nhà quản lý phải
tổ chức, quản lý, khai thác sử dụng chúng có hiệu quả để đảm bảo cho hoạt
động dạy học và giáo dục được tiến hành thuận lợi và đạt chất lượng tốt.
1.3. Quản lý các hoạt động ngoại khoá
1.3.1. Hoạt động ngoại khóa
Đến nay khái niệm ngoại khố cũng chưa được lý giải cặn kẽ, thấu đáo
và nhất quán. Ngoại khố là hình thức học tập hay vui chơi? Theo các tác giả
Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Duật:
“Ngoại khố khơng nên hiểu là cơng việc ngồi giờ học, ngồi chương
trình, thực hiện tuỳ tiện được sao hay vậy. Ngoại khố chỉ có nghĩa là không
-16-


đặt sự giảng dạy của giáo viên bộ môn lên hàng đầu mà xem trọng hoạt động
tự giác vận dụng sáng tạo của học sinh. Đó cũng là việc học đích thực, do học
sinh tự nguyện, tự chọn, tự làm ra mà học’’.[20].
Vì vậy, có thể nói, ngoại khố là một hình thức tổ chức học tập ngồi
giờ lên lớp có kế hoạch có phương hướng xác định được học sinh tiến hành
theo nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ lên lớp chính khố, dưới sự điều khiển,
hướng dẫn của giáo viên, nhằm bổ sung, củng cố, mở rộng và nâng cao kiến
thức, kỹ năng bộ môn đã được học trong chương trình chính khố, đồng thời
góp phần giáo dục học sinh một cách toàn diện.
Với cách hiểu như trên, ngoại khố được xem là một hình thức tổ
chức dạy học quan trọng, là một trong những con đường để thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học theo định hướng: phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến

thức đó vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh [17].
1.3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động ngoại khoá với các hoạt động giáo dục
Việc tổ chức hoạt động trên lớp và tổ chức ngoài giờ lên lớp là hai bộ
phận hữu cơ hợp thành một thể thống nhất trong quá trình giáo dục học sinh
nhằm đạt mục tiêu đào tạo của nhà trường THPT. Những đặc điểm cơ bản của
hai dạng hoạt động này có ý nghĩa làm cơ sở để tổ chức thực hiện các biện
pháp sư phạm thích hợp. Do vậy các biện pháp tổ chức học tập ngoài giờ lên
lớp phải được đặt trong mối quan hệ học tập chính khố và học tập ngoại
khố. Trong nhà trường muốn hồn thành tốt nhiệm vụ của việc giảng dạy
môn học, người giáo viên cần phải phối hợp một cách khéo léo các mặt hoạt
động chính khố và ngoại khố.
1.3.3. Vai trị của hoạt động ngoại khoá đối với hoạt động giáo dục học sinh
Trung học phổ thông ở trường nội trú
Hoạt động ngoại khố có một tầm quan trọng đặc biệt, đem lại nhiều tác
dụng to lớn, góp phần đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, nâng
cao chất lượng giáo dục.

-17-


Theo quan niệm của nhiều nhà giáo dục, chất lượng giáo dục phổ thơng
là sự phát triển tồn diện nhân cách học sinh về tất cả các mặt: trí tuệ, thể chất,
tâm hồn, thể hiện ở việc học sinh có được những kiến thức và kĩ năng cơ bản
trong các lĩnh vực đọc, viết, làm toán, khoa học, các kĩ năng ứng xử, giao tiếp
xã hội.., được đo bằng các chuẩn nhằm xem xét mức độ đạt được các nhiệm
vụ, mục tiêu giáo dục. Các chuẩn này được xây dựng trên cơ sở thống nhất
giữa nhà trường và cộng đồng, được công chúng chấp nhận, đáp ứng nhu cầu
phát triển của mỗi cá nhân học sinh và yêu cầu của cộng đồng đối với nhân
cách được đào tạo.

Hoạt động ngoại khố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vì nó có
các vai trị sau đây:
1.3.4.1. Hoạt động ngoại khố giúp học sinh mở rộng, nâng cao kiến thức
Khối lượng tri thức nhân loại ngày càng tăng lên nhanh chóng. Các dự
báo khoa học cho thấy vào thập niên đầu của thế kỷ 21, cứ khoảng 5 năm tri
thức nhân loại lại tăng gấp đôi. Nhà trường không thể cung cấp tất cả nguồn tri
thức đó mà chỉ có thể trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản của các môn học.
Ngay trong những bài học trên lớp, học sinh cũng chỉ có thể học được những
kiến thúc cơ bản nhất, những khái niệm những quy tắc chung nhất mà thơi.
Cịn rất nhiều kiến thức khác cần phải nắm, phải hiểu, phải vận dụng được vào
trong thực tế cuộc sống của mình nhưng lại chưa được đưa và cũng khơng thể
đưa hết vào trong chương trình. Vì thế ngoại khoá là một trong những cách
thức, những con đường tốt nhất giúp học sinh bổ sung, mở rộng, tích luỹ thêm
những kiến thức cần thiết cho mình, hiểu biết, vận dụng vào trong cuộc sống
hàng ngày của bản thân. Mặt khác mỗi học sinh là một chủ thể của quá trình
học tập của mình, mang trong mình những tiềm năng to lớn về trí nhớ, lập
luận, quan sát, giao tiếp. HĐNK tạo cho các em khả năng phát huy, đa dạng
hố tất cả những tiềm năng đó. Nó tạo điều kiện để các em tham gia, có dịp
thể hiện những hiểu biết của mình, bổ sung, phát triển những tri thức cần thiết.
Cụ thể hơn HĐNK nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được những tác dụng chủ
yếu về mặt cung cấp tri thức sau đây:
- Mở rộng kiến thức các môn học

-18-


- Bổ sung, cập nhật những kiến thức cần thiết.
- Là điều kiện rèn luyện, củng cố và nâng cao các kỹ năng giao tiếp, tìm
tịi, phát hiện và hệ thống hoá thêm những kiến thức khác để làm giàu
vốn tri thức cho mình.

- Nâng cao hiểu biết các giá trị truyền thống dân tộc, khơi dậy tình yêu
với khoa học, những ham muốn tìm tịi sáng tạo, giải thích những hiện
tượng tự nhiên – xã hội có cơ sở khoa học.
1.3.4.2. Hoạt động ngoại khoá giúp việc phát hiện năng khiếu của học sinh
Trong HĐNK học sinh tham gia có dịp trổ tài bộc lộ những hiểu biết
của mình, đó là lúc để người giáo viên nhìn nhận để phát hiện ra những học
sinh có năng khiếu, từ đó có kế hoạch bồi dưỡng. Trong HĐNK, tính độc lập
và sự sáng tạo của học sinh rất được tôn trọng. Các kỹ năng nghe nói của các
em được hình thành và phát triển một cách tự giác, chủ động, tạo cơ sở thuận
lợi cho việc giáo viên thực hiện việc đổi mới các phương pháp dạy học trong
nhà trường trung học phổ thơng theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học đặc biệt là rèn
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế.
1.3.4.3. Hoạt động ngoại khoá hướng hứng thú vào các hoạt động bổ ích, làm
giảm thiểu tình trạng yếu kém về đạo đức của học sinh
Hoạt động này hướng các em sử dụng thời gian rảnh rỗi vào những việc
có ích, hợp lý trong q trình học tập của mình . Một sân chơi thú vị với
nhiều hình thức phong phú giúp các em giảm bớt việc tham gia những hoạt
động không lành mạnh. Thông qua HĐNK giáo viên có thể phát huy được tính
tích cực từ chính những đặc điểm tâm lý của những học sinh yếu kém về đạo
đức. Qua hoạt động ngoại khố nếu giáo viên tin tưởng, giao việc, khích lệ sẽ
có thể làm thay đổi cách nhìn, cách sống của chính những học sinh đó. Các em
sẽ hồn thành nhiệm vụ một cách vui vẻ, tự nguyện. Mỗi lần như vậy các em
sẽ xích lại gần nhau hơn. Dần dần giáo viên tạo ra được thói quen và cách ứng
xử tốt cho các em. Hoạt động ngoại khoá với nhiều hình thức phong phú, lại
diễn ra ở nhiều thời điểm, hồn cảnh khác nhau địi hỏi cách thức hoạt động
khác nhau, sẽ rèn luyện cho học sinh đức tính thích nghi chủ động, năng động,

-19-



bước đầu làm quen với việc sưu tầm tài liệu, tập dượt hoạt động và kỹ năng
nghiên cứu, giáo dục thói quen quan sát, phán xét, suy luận. Từ đó góp phần
tăng cường hứng thú học tập cho học sinh với các mơn học.
1.3.4.4. Hoạt động ngoại khố tạo sự gắn bó đồn kết trong tập thể
Để thực hiện tốt HĐNK địi hỏi các tập thể học sinh phải có sự đoàn kết
hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ. HĐNK còn rèn luyện
tinh thần trách nhiệm ý thức gắn bó với tập thể của học sinh. Qua đó học sinh
vừa khẳng định được bản ngã, vừa xác định được vai trò, trách nhiệm của mỗi
cá nhân trước cộng đồng. Học sinh sẽ hoà nhập vào cuộc sống tập thể một
cách vui vẻ. Đặc biệt đối với học sinh nội trú vấn đề ý thức trách nhiệm trong
cuộc sống tập thể là hết sức cần thiết. Đó là những tiền đề quan trọng để rèn
luyện học sinh trưởng thành, phát triển một cách toàn diện và trở thành những
con người lao động mới, đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thơng
1.3.4.5. Hoạt động ngoại khố là con đường quan trọng để hình thành, phát
triển nhân cách cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp
ứng yêu cầu đổi mới để Việt Nam có thể hội nhập với giáo dục khu vực và thế
giới
Qua HĐNK giáo viên giúp học sinh hình thành được một số năng lực
như năng lực tổ chức quản lý, năng lực tự hoàn thiện, năng lực giao tiếp, năng
lực hoạt động chính trị – xã hội. Nó cũng giúp cho học sinh khả năng làm việc
độc lâp, khả năng diễn đạt trước đám đơng, khả năng phản xạ nhanh… các em
hình thành cho mình một cách sống đúng đắn, phù hợp với những chuẩn mực
của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất
nước, biết hoà đồng với tự nhiên xã hội và cộng đồng, biết đấu tranh với
những biểu hiện sai trái của bản thân và của người khác.
1.3.4.6. Hoạt động ngoại khoá huy động các lực lượng xã hội tham gia vào
việc giáo dục học sinh
Sở dĩ các HĐNK phần đắc lực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
của nhà trường vì qua các hoạt động này nhà trường gắn kết các lực lượng xã

hội và tạo điều kiện cho họ tham gia tích cực vào cơng tác giáo dục thế hệ trẻ.

-20-


Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động tích cực của
các yếu tố mơi trường khác nhau như mơi trường gia đình- mơi trường nhà
trường và xã hội. HĐNK là dịp để từng gia đình học sinh có thêm ý thức đóng
góp trong điều kiện có thể để xây dựng phong trào giáo dục ở địa phương.
HĐNK trong chừng mực nhất định còn tạo được sự phối hợp của liên
ngành chức năng trong xã hội. Tuỳ từng lĩnh vực một mà các ngành có phần
việc tham gia với giáo dục đào tạo nhà trường. Những ngành cần phối hợp để
làm tốt hoạt động này như: Hội cựu chiến binh (ngoại khoá về anh bộ đội Cụ
Hồ trong văn học và trong thực tế sống chiến đấu), các trung tâm văn hoá
(ngoại khoá về lịch sử - địa lý) Tồ án, Viện kiểm sát (ngoại khố về giáo dục
công dân); Các trung tâm nghiên cứu vật nuôi, cây trồng (ngoại khoá về sinh
học); Trung tâm y tế (ngoại khoá về giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên)… Sự phối hợp này không đơn thuần là một hành động nhất thời mà
phải được xác định trong một chương trình, kế hoạch dài hạn, được xây dựng
trên cơ sở chiến lược giáo dục nói chung của trường. Sự huy động các lực
lượng tham gia vào hoạt động ngoại khố trong nhà trường sẽ tạo ra được mơi
trường cần thiết để thúc đẩy chất lượng giáo dục.
1.3.4. Quản lý hoạt động ngoại khóa đối với học sinh Trung học phổ thông
trường nội trú
1.3.4.1. Cơ sở tâm lý học– giáo dục học của việc tổ chức hoạt động ngoại
khoá
 Cơ sở tâm lí:
+) HĐNK phải dựa trên sự hứng thú, tự nguyện của học sinh
Để thực hiện có chất lượng giáo dục, mọi hoạt động trong nhà trường
phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, song cũng cần dựa trên yêu cầu chính đáng

về sở thích, sở trường của học sinh.
Khác biệt căn bản của cơng tác ngoại khố với việc học chính khố là ở
chỗ học chính khố mang tính chất học bắt buộc đối với học sinh, cịn việc
tham gia các HĐNK địi hỏi có tinh thần tự nguyện. Khi tham gia HĐNK, trên
cơ sở sở thích và hứng thú học tập, học sinh sẽ thể hiện được nhiều nhất tính
năng động và tính sáng tạo của mình. Các em tham gia HĐNK theo nguyên

-21-


tắc tự nguyện, được tự do lựa chọn những hoạt động mình thích và lấy tinh
thần tự giác, tinh thần xung phong làm cơ sở .Tuy nhiên là giáo viên có thể và
cần góp ý kiến hướng dẫn các em nhưng khơng nên bó buộc học sinh theo ý
kiến riêng của mình. Theo ý kiến của Xa mu cốp: “… sự tự nguyện của học
sinh là một sự tự nguyện có hướng dẫn” [27].
Để đảm bảo được tính chất tự nguyện có ý thức khơng phải cảm
tính, tuỳ hứng, giáo viên cần làm cho học sinh thấy được ý nghĩa của cơng
tác ngoại khố.
Tuỳ theo tính chất của lứa tuổi, cơng tác ngoại khố cần được nghiên
cứu một cách hợp lý. Bậc trung học phổ thơng, giáo viên có thể dành một số
thời gian cho công tác tranh luận, báo cáo, thuyết trình về một vấn đề nào đó
của mơn học… trình độ tư duy và tính ổn định về tâm lý của học sinh trung
học phổ thơng có thể thực hiện được cơng việc ấy. Các em sẽ có được sự hứng
thú, niềm tin khi tham gia, các em muốn đựơc thể hiện mình trước tập thể.
Xuất phát từ điều kiện tâm sinh lý của học sinh mà công tác ngoại khoá
cần phải được tổ chức sinh động với nhiều hình thức phong phú. Sự nghèo nàn
về hình thức tổ chức sẽ làm các em ở lứa tuổi trung học phổ thơng có tâm lý
chán chường, thiếu hứng thú. Giáo viên khi làm cơng tác ngoại khố cần phải
có sự tìm tịi, sáng tạo nhiều cách tổ chức mới.
Cố nhiên khi những hình thức tổ chức càng phong phú bao nhiêu thì

tính kế hoạch lại càng phải được đề cao bấy nhiêu. Cần phân phối HĐNK cho
cả năm, từng học kỳ, từng tháng. Khi tổ chức, giáo viên là người hướng dẫn
cho các em vận dụng hiểu biết vào việc làm cụ thể. Một khi tính tự lập của các
em được đề cao, các em có thể phát biểu ý kiến chủ quan về một vấn đề cụ
thể. Khi đó trình độ tư duy, khả năng vận dụng kiến thức của các em sẽ được
nâng cao một bước.
HĐNK nếu được tiến hành như vậy sẽ làm cho việc học tập nội khố
được sâu sắc, trình độ suy nghĩ, tính tự lập của học sinh được nâng cao và
ngay bản thân các em sẽ thấy hứng thú, tích cực hưởng ứng HĐNK của
trường.
+) Phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh THPT nội trú:
-22-


Hơn nữa việc tổ chức HĐNK còn phải dựa trên cơ sở là việc hình thành
và phát triển nhân cách của người học sinh bậc trung học phổ thông.
Đặc biệt đối với học sinh ở các trường THPT nội trú, hoạt động này là
quá trình các em thực hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên,
với xã hội, với người khác, với chính mình, và bao giờ cũng nhằm vào những
đối tượng nhất định. Dưới sự hướng dẫn của thầy cô, học sinh THPT ở nội trú
sẽ thực hiện những hoạt động cụ thể. Bằng hoạt động các em sẽ lĩnh hội đựơc
những kinh nghiệm quý báu, khơng phải trả giá cho những mị mẫm, thử
nghiệm đúng, sai không cần thiết. Cũng bằng hoạt động giao tiếp trong ngoại
khoá, các em lĩnh hội nội dung của mối quan hệ xã hội, chứa đựng những giá
trị những chuẩn mực do xã hội quyết định.
 Cơ sở giáo dục học
Hoạt động ngoại khoá trong nhà trường trung học phổ thông phải
xuất phát từ mục tiêu giáo dục của nhà trường: đào tạo học sinh thành con
người phát triển tồn diện, có khả năng thích ứng nhanh với hồn cảnh xã
hội hiện nay.

Nhà giáo dục học người Nga- Cairốp đã viết: “Bất cứ hoạt động ngoài
lớp, hoạt động ngoài trường nào, bất cứ hoạt động nào của các tiểu tổ, bất cứ
hoạt động văn hoá quần chúng nào cũng đều phải hồn tồn phù hợp với mục
đích và nhiệm vụ của giáo dục”.[5].
Để có kiến thức sâu rộng, học sinh khơng chỉ học tập trên lớp mà có thể
học ở nhiều hình thức khác nhau. Trên lớp, đó chỉ là kiến thức phổ thông cơ
bản, do điều kiện thời gian hạn chế thầy cô không thể đi sâu. Muốn hiểu biết
tường tận, học sinh phải có ý thức tự giác, phải có hứng thú tìm tịi. Ngoại
khố sẽ giúp học sinh làm được điều này.
Thái độ của các em cũng vậy, tham gia các HĐNK, các em được giao
lưu, được học tập kinh nghiệm thực tế. Nhờ đó các em tự rút ra cho mình kinh
nghiệm ứng xử, giao tiếp sẽ thấy tự tin.

-23-


Để hình thành nhân cách con người một cách tồn diện, học sinh phải
được tham gia các hoạt động.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học phổ thơng
nói chung và học sinh nội trú nói riêng chịu sự tác động của nhiều nhân tố:
nhân tố sinh học, môi trường, giáo dục và các hoạt động của bản thân các em,
trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo và việc tham gia các hoạt động giáo dục
là yếu tố quyết định sự hình thành nhân cách của các em. Những hoạt động
này bao gồm: hoạt động lao động, hoạt động vui chơi giải trí, tham quan học
tập, các hoạt động thể dục, thể thao, giao lưu, giao tiếp, các hoạt động xã hội...
Để phát triển, con người khơng ngừng hoạt động. Hoạt động, nó là
phương thức tồn tại cũng như con đường hình thành, phát triển nhân cách.
Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách phát triển như thế ấy. Hoạt
động tích cực đó là con đường để tiến thân, để thành đạt.
Học sinh tham gia tích cực vào các HĐNK với các mối quan hệ đa dạng

sẽ giúp các phẩm chất, tính cách, năng lực của các em được hình thành. Tham
gia tổ ngoại khố sẽ giúp trí tuệ các em phát triển được tốt, tình u với mơn
học, với tri thức lồi người sẽ khiến các em có ý thức tự giác vươn lên để tiếp
thu sáng tạo.
Tham gia các hình thức ngoại khố có tính quần chúng, các em được
giao lưu tình cảm. Tính đa dạng của hoạt động tạo nên tính đa dạng của giao
lưu, mục đích và phương thức tiến hành. Trong giao lưu các em hiểu hơn giá
trị đích thực của cuộc sống. Từ đó có thái độ và hành động đúng trước cuộc
sống. HĐNK giúp các em có dịp thể hiện rõ sự hiểu biết và thái độ ứng xử của
mình. Nhờ hoạt động này sự phát triển về mặt thể chất, tâm lý, xã hội – biểu
hiện của sự phát triển nhân cách của các em được tốt hơn.

1.3.4.2. Quản lý các hoạt động ngoại khóa

-24-


×