Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.57 KB, 76 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
KHOA NGÂN HÀNG_TÀI CHÍNH
_ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHỊÊP_

ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VƠÍ KINH TẾ TƯ
NHÂN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH
THANH HOÁ

LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn một năm Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế của đất
nước có nhiều chuyển biến tích cực, thị trường kinh doanh buôn bán được
mở rộng, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài tăng mạnh, thương mại phát
triển đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng _tài chính. Góp phần tích cực vào
sự phát triển đó phải kể đến thành phần kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân ở
Việt Nam hiện nay đang rất phát triển trên nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh
vực khác nhau, và đang được nhận được sự quan tâm rất nhiều của Đảng
và Nhà Nước.
Sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thanh
Hoá đã tạo ra một thi trường lớn đầy tiềm năng cho các Ngân Hàng
Thương Mại trên địa bàn nói chung và cho Ngân Hàng Công Thương nói
riêng. Tuy nhiên hiện nay các ngân hàng chưa thực sự coi kinh tế tư nhân
là những khách hàng quan trọng của mình, tỷ trọng cho vay đối với loại
hình kinh tế tư nhân của ngân hàng công thương còn rất thấp, mà chủ yếu
tập trung, chú trọng cho vay đối với thành phần kinh tế nhànước là chủ
yếu. Trong xu hướng phát triển như hiện nay thì số lượng kinh tế tư nhân
ngày càng nhiều và ngược lại thành phần kinh tế nhà nước ngày càng bị
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
thu hẹp do kết quả của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đó là
xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế. Do đó ngân hàng công


thương cần sớm thích ứng và nắm bắt cơ hội, tích cực mở rộng cho vay đối
với thành phần kinh tế tư nhân trên địa bàn, mở rộng thị trường, đa dạng
hoá loại hình kinh doanh, giảm thiểu rủi ro.
Xuất phát từ lý do trên em đã chọn đề tài:”Giải pháp mở rộng cho
vay đối với kinh tế tư nhân tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương
tỉnh Thanh Hoá” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Những nguyên lý chung về cho vay đối với kinh tế tư nhân tại
Ngân Hàng Thương Mại.
Chương 2 : Thực trạng mở rộng cho vay đối với kinh tế tư nhân tại chi
nhánh Ngân Hàng Công Thương tỉnh Thanh Hoá từ năm 2006 đến nay.
Chương 3 : Các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với
kinh tế tư nhân tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương tỉnh Thanh
Hoá.
Tuy nhiên với thời gian và trình độ, kinh nghiệm có hạn nên chuyên
đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến
góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: PGS_TS Phan Thu Hà đã tận
tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Ch ương 1 :
NHỮNG NGHUYÊN LÝ CHUNG VỀ CHO VAY ĐỐI VƠÍ
KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.
1.1- HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 - KHÁI NIỆM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của

nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng .Trong đó ngân hàng
thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về quy mô tài sản, thị phần
và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với
các hộ gia đình và đơn vị sản xuất kinh doanh…để mua sắm đồ dùng,
trang thiết bị máy móc, nhà xưởng phục vụ sản xuất kinh doanh và đời
sống. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, chính xác ,
tiện lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân khi họ cần thanh toán các khoản
các khoản mua hàng hóa dịch vụ. Mặt khác khi cần thông tin hoặc tư vấn
tài chính các doanh nghiệp, cá nhân thường tìm đến ngân hàng để nhận
được lời tư vấn.
Có thể định nghĩa ngân hàng thương mại thông qua chức năng của
chúng như sau: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục dịch vụ tài chính đa dạng đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch
vụ thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Hiện nay có rất nhiều các tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty
kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và
công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
dịch vụ về bất động sản và môi giới chưng khoán tham gia hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
1.1.2- CÁC HỌAT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1- Huy động vốn:
- Nhận tiền gửi: Tiền gửi là một nguồn quan trọng trong tổng nguồn tại
các ngân hàng thương mại. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được
các khoản tiền gửi từ khách hàng các ngân hàng đã không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ và đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn như rút

thăm trúng thưởng,tăng lãi suất tiền gửi...... Để thu hút tối đa nguồn tiền
đảm bảo nhu cầu vay vốn của mọi khách hàng. Hiện nay giữa các ngân
hàng đang xảy ra tình trạng cạnh tranh rất khốc liệt, đăc biệt lĩnh vực huy
động tiền gửi. Bên cạnh việc cạnh tranh bằng trụ sở sang trọng, lịch sự,
còn phải cạnh tranh qua lãi suất, chính sách khuyến mại và đặc biệt là thái
độ phục vụ của cán bộ ngân hàng.
Các giao dịch viên do một ngày phải phục vụ nhiều khách hàng do áp
dụng cơ chế giao dịch một cửa, nên khi khách hàng gọi điện thoại đến hỏi
thông tin thường không được đáp ứng thoả đáng do vậy thường xuyên tạo
ra sự bực bội cho khách hàng và không ít người đã tìm đến những ngân
hàng khác có phong cách phục vụ tốt hơn. Chính vì vậy các ngân hàng cần
thường xuyên chú trọng công tác chăm sóc khách hàng.
Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Huy động vốn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền
gửi.
- Ngân hàng vay mượn ngân hàng nhà nước hoặc các ngân hàng khác để bù
đắp thiếu hụt vốn tạm thời hoặc bảo đảm khả năng thanh toán.
- Huy động vốn bằng cách tiếp nhận ủy thác hoặc đầu tư tài chính từ các
ngân hàng hay tổ chức tài chính khác...
2- Cho vay: Cho vay là một trong các hoạt động quan trọng nhất tại các
ngân hàng thương mại, lợi nhuận mà ngân hàng thu được chủ yếu là phần
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay là
nguồn chính để bù đắp mọi chi phí trong ngân hàng như chi phí quản lý,
chi phí trả lương, thuế, chi phí bảo quản....
Với sự phát triển của kinh tế thị trường như hiện nay thì các ngân
hàng thương mại không ngừng tăng quy mô cho vay cả về số lượng và
chất lượng. Hầu hết các ngân hàng thương mại cho vay ngắn hạn thường

chiếm tỷ lớn trong tổng danh mục cho vay, tuy nhiên với xu hướng hiện
nay các ngân hàng đang tận dụng một cách tối đa, tăng dần tỷ trọng cho
vay trung và dài hạn trong tổng nguồn.bởi lẽ các khoản cho vay trung và
dài hạn sẽ có lãi suất cao hơn nhiều so với cho vay ngắn hạn, tất nhiên sẽ
có sự đánh đổi giữa rủi ro và lọi nhuận, nên ngân hàng cần thẩm định và
kiểm tra thật kỹ trước khi ra quyết định cho vay.
3- Một số hoạt động khác:
 Bảo quản tài sản hộ: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng giữ hộ những tài
sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của
khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện.
 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Ngân
hàng cung cấp các tài khoản giao dịch cho khách hàng và thực hiện thanh
toán qua tài khoản giao dịch của khách hàng, thanh toán bằng séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, L/C, cao hơn là thanh toán bằng điện...
 Quản lý ngân qũy: Ngân quỹ trong ngân hàng là một yếu tố vô cùng
quan trọng đối với Ngân hàng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Ngân quỹ của ngân hàng là những tài sản có tính thanh
khoản cao nhất, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu
cầu khác của ngân hàng thương mại.
Ngân quỹ vừa đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân
hàng nhà nước vừa bảo đảm nhu cầu chi trả của ngân hàng. Mỗi Ngân
hàng cần duy trì ngân quỹ với tỷ lệ phù hợp với nhu cầu vốn của khách
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
hàng theo từng thời điểm khác nhau sao cho hợp lý, bảo đảm khả năng chi
trả.
 Bảo lãnh : Là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng này không thực hiện đúng như cam kết với bên được hưởng

bảo lãnh.
 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Theo thỏa thuận với khách hàng
Ngân hàng mua tài sản và cho khách hàng mua lại. Trong thời gian thuê
hàng tháng, hàng quý khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản tiền
gọi là tiền thuê tài sản. Khi hết thời hạn thuê đã thỏa thuận trong hợp đồng
thì khách hàng có thể mua hoặc không mua lại tài sản đó. Cho thuê tài sản
trung và dài hạn (Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài
sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được.
 Mua bán ngoại tệ: Các ngân hàng đều có xu hướng đa dạng hoá
hình thức kinh doanh của mình nhằm tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Một trong những danh mục mà các ngân hàng đã lựa chọn đó là mua bán
ngoại tệ, một hình thức kinh doanh đem lại hiệu quả cao. Lợi nhuận mà
ngân hàng thu được từ nghiệp vụ mua bán ngoại tệ là phần chênh lệch giữa
tỷ giá mua vào và bán ra.
 Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Chính Phủ thường có những
khoản chi tiêu lớn,và bất thường nên khả năng vốn nhiều khi không thể
đáp ứng được khi đó không còn sự lựa chọn tối ưu nào khác là phải có sự
hỗ trợ từ phía Ngân hàng. Có nhiều phương thức tài trợ khác nhau như
mua trái phiếu chính phủ hoặc cho vay ưu đãi.
Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, môi
giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
1.1.3-NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.3.1 -Khái niệm về cho vay:
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Cho vay là một nghiệp vụ rất quan trọng trong lĩnh vực hoạt động của
Ngân Hàng , nguồn thu chủ yếu của Ngân Hàng lấy từ hoạt động cho vay,
theo thống kê thì nguồn thu lấy từ hoạt động cho vay chiếm 60%-65% tổng

nguồn thu. Theo Quyết Định số 28/2001/QĐ- NHNN ngày 15/8/2001 của
thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước định nghĩa: cho vay là một hình thức của
cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.3.2 -phân loại cho vay:
 Ta có thể phân loại cho vay theo các tiêu chí sau:
*Căn cứ vào thời hạn cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, mục
đích chính của khoản cho vay này là các doanh nghiệp bù đắp vốn lưu
động hoặc dùng đầu tư vào tài sản lưu động có vòng quay thu hồi vốn
nhanh, hoặc tiêu dùng cá nhân tạm thời.
+ Cho vay trung hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm. Sử dụng mua sắm tài sản cố định, cải tiến trang thiết bị, máy móc,
nhà xưởng hoặc đầu tư vào các dự án có quy mô vừa và nhỏ có khả năng
thu hồi vốn nhanh đảm bảo có thể hoàn trả vốn cho ngân hàng theo hợp
đồng tín dụng.
+ Vay dài hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Nguồn vốn
này các doanh nghiệp dùng để đầu tư tài sản cố định như mua sắm máy
móc, trang thiết bị hiện đại, xây dựng nhà xưởng có quy mô lớn, sử dụng
lâu dài hoặc đầu tư vào các dự án lớn.
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Việc xác định thời hạn
trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác
định trước được chính xác thời hạn. Nhìn chung tỷ trọng tín dụng ngắn hạn
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn:

Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng, mặt
khác tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao
hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ
lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh
khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và đề phòng rủi ro trong tín dụng
trung và dài hạn…
*Căn cứ vào phương thức cho vay:
+ Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay mà mỗi món vay được tách biệt
thành các khế ước nhận nợ khác nhau. Cho vay từng lần là hình thức cho
vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với những khách hàng không có
nhu cầu vay thường xuyên. Đây là khoản cho vay bù đắp thiếu hụt vốn tạm
thời khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt. Với nghiệp vụ
cho vay từng lần ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ từng món vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng
thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được
cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay
vốn của khách hàng, hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ,
đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Ngân hàng ước lượng hạn mức tín
dụng và lập kế hoạch cho vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho
những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường
xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, khi đến vay khách hàng chỉ cần
trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các giấy tờ chứng từ cần thiết,
sau khi kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ ngân hàng sẽ tiến
hành giải ngân cho khách hàng. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn
định trước ngày trả nợ , khi khách hàng có thu nhập ngân hàng sẽ tiến hành
thu hồi nợ, do đó tạo chủ động trong quản lý ngân qũy, tuy nhiên các kỳ
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm

soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
+ Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn
giản phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá
nhân. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về
thời gian và quy mô, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán nhanh, chủ động và kịp thời. Hình
thức này nhìn chung chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy
cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể
cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Đầu
năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển, ngân
hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín
dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá vàkhả năng tiêu thụ. Việc cho vay dựa
trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải
nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong
thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp dụng với các doanh nghiệp
sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên
với ngân hàng.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức cho vay vốn nhằm thực hiện
các dự án đầu tư phát triển kinh tế, xã hội phục vụ đời sống. Khoản cho
vay thực hiện dự án đầu tư thường khá lớn nên khi vay vốn người đi vay
phải trình bày kế hoạch dự án đầu tư, tính khả thi của dự án…sau đó ngân
hàng sẽ tiến hành kiểm tra và thẩm định dự án rồi quyết định cho vay hay
không cho vay.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
+ Cho vay hợp vốn: Là phương thức cho vay mà ngân hàng cùng với một
số tổ chức tín dụng khác hợp tác cùng cho vay một dự án nào đó hoặc một
doanh nghiệp, cá nhân khác có nhu cầu vay vốn.
*Căn cứ vào phương thức giải ngân:
+ Cho vay giải ngân một lần: Là hình thức ngân hàng sẽ giải ngân một lần
duy nhất cho khách hàng. Hình thức này thường áp dụng với những khoản
vay nhỏ, có thời hạn vay ngắn hoặc trung hạn.
+ Cho vay giải ngân nhiều lần: Là hình thức ngân hàng sẽ giải ngân thành
nhiều lần trong thời hạn giải ngân ghi trong hợp đồng ký kết. Hình thức
này chủ yếu áp dụng với những khoản vay dùng đầu tư vào những dự án
có quy mô lớn, thời hạn dài chia thành nhiều giai đoạn thực hiện.
*Căc cứ vào độ tin cậy của bên vay vốn
+ Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba: Là hình
thức cho vay trong đó người đi vay phải bảo đảm bằng tài sản của mình
hoặc được bên thứ ba bảo lãnh. Để phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra
bất cứ lúc nào ngân hàng đòi hỏi người đi vay phải có sự đảm bảo, trong
trường hợp khách hàng mất khả năng chi trả thì ngân hàng còn có cơ sở để
thu hồi lại vốn của mình.
+ Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba:
Là hình thức cho vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần đến tài
sản cầm cố, hế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại hình cho vay này
chủ yếu áp dụng với những khách hàng truyền thống của ngân hàng, và đối
với những khoản vay không lớn.
*Căn cứ vào phương thức trả nợ:
+ Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với những khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền, số tiền trả nợ mỗi lần
phải tính toán phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng

Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất
định, cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hoá mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của
người vay, chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi
suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay phi trả góp: Là hình thức cho vay mà người đi vay phải trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng khi khoản vay đáo hạn.
*Căn cứ vào xuất sứ khoản vay:
+ Cho vay trực tiếp: Là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho vay trực tiếp
đối với người đi vay vốn.
+ Cho vay gián tiếp: Bên cạnh hình thức cho vay trực tiếp ngân hàng cũng
phát triển thêm các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay
thông qua các tổ chức trung gian tổ, đội, hội nhóm như nhóm sản xuất, hội
nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ…Các tổ chức này thường liên
kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn
nhau. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều
món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp
như vậy cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí giảm rủi ro khi cho
vay.
1.1.3.3 -Các quy định trong cho vay
a. Điều kiện cho vay:
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay đối với những khách hàng có đầy đủ
những điều kiện sau:
Thứ nhất là: Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng vốn vay.
Thứ hai là: Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. Ngân hàng chỉ cấp
vốn cho khách hàng sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ được

pháp luật cho phép theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc giấy
phép hành nghề ( nếu có).
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Thứ ba là: Có nguồn thu và phương án vay-trả nợ đảm bảo khả năng trả nợ
gốc, lãi và phí trong thời gian cam kết vay.
Thứ tư là: Có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, đem lại hiệu quả khi
đưa vào thực hiện và không trái với quy định của pháp luật.
Thứ năm là: Phải thực hiện bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của pháp
luật.
b. Đối tượng cho vay:
Những đối tượng được Ngân Hàng xem xét cho vay:
- Các khách hàng Việt Nam: Bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức khác có đủ điều kiện tại Điều
94 của Bộ luật dân sự, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
- Các pháp nhân nước ngoài: Phải có năng lực pháp luật dân sự và năng
lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có
quốc tịch, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật Dân sự nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Vệt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam
quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia
quy định. Việc cho vay các đối tượng này được thực hiện riêng theo quy
định của NHCT VN.
c. Những nhu cầu vốn không được cho vay:
- Thứ nhất là: Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản
mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi.
- Thứ hai là: Để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà
pháp luật cấm.
- Thứ ba là: Để nộp thuế trực tiếp cho ngân sách nhà nước trừ số tiền xuất

khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
- Thứ tư là: Để trả nợ gốc, lãi vốn vay cho NHCT VN hoặc TCTD khác,
trừ trường hợp cho vay số tiền lãi vay trả cho NHCT VN trong thời hạn thi
công, chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
trung và dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản lãi tiền vay được tính
vào giá trị tài sản cố định đó.
- Thứ năm là: Để đáp ứng nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật
cấm.
d. Quy trình cho vay:
Để đảm bảo tính an toàn trong cho vay các ngân hàng muốn cho vay cần
thực hiện theo các bước sau:
Bước một là: Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
+ Đối với khách hàng có quan hệ tín dụng lần đầu cần phải hướng dẫn một
cách chi tiết và cung cấp những thông tin cho khách hàng, tư vấn và thiết
lập hồ sơ theo quy định của ngân hàng nhà nước
+ Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng thì cán bộ tín dụng sẽ hướng
dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ, đối chiếu ,kiểm tra và tiếp nhận hồ sơ.
Bước hai là: Thẩm định các điều kiện vay vốn.
Để thực hiện tốt bước này cần phải làm tốt những yếu tố sau:
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích sử dung vốn.
+ Kiểm tra hồ sơ khách hàng: cần kiểm tra tính xác thực, hợp pháp, hợp lệ
của các giấy tờ văn bản trong danh mục hồ sơ khách hàng.
+ Kiểm tra hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay: Cần kiểm tra tính
xác thực, hợp pháp, hợp lệ của từng loại hồ sơ. Đối với Doanh Nghiệp các
báo cáo tài chính dự tính trong ba năm tới và phương án sản xuất kinh
doanh, dự án đầu tư, khả năng vay trả, nguồn trả, việc kiểm tra và phân
tích phải đảm bảo đúng quy trình. Ngoài ra cần kiểm tra sự phù hợp về

ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện
tại của doanh nghiệp và phù hợp với phương án dự kiến đầu tư, xu hướng
phát triển của ngành nghề trong tương lai.
+ Kiểm tra mục đích vay vốn: Cần kiểm tra xem nhu cầu vay vốn có thuộc
đối tượng cho vay hay không, đồng thời kiểm tra tính hợp pháp của mục
đích vay vốn. Đối với những khoản vay vốn bằng ngoại tệ cần kiểm tra
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
mục đích vay vốn đảm bảo phù hợp với quy định quản lý ngoại hối hiện
hành về các đối tượng vay vốn ngoại tệ.
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản
xuất kinh doanh: Nguồn thông tin phải lấy được từ nhiều chiều, nhiều cách
khác nhau như lấy thông tin từ hồ sơ vay vốn, từ việc đi thực tế tại nơi sản
xuất kinh doanh, qua phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, mạng
máy tính…từ các cơ quan quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, qua
bạn hàng…
- Xác minh và kiểm tra thông tin
- Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư: Ngân
hàng tiến hành phân tích thẩm định nhằm đưa ra kết luận về tính khả thi,
hiệu quả của phương án, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để
phục vụ cho việc quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay, kết quả phân
tích thẩm định tạo tiền đề để đảm bảo hiệu quả cho vay, thu được nợ gốc
đúng hạn, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và là cơ sở để xác định số tiền cho
vay, thời hạn cho vay, dự kiến tiến độ giải ngân, các điều kiện cho vay…
tạo tiền đề cho khách hàng hoạt động có hiệu quả và đảm bảo mục tiêu đầu
tư của Ngân Hàng.
Bước ba là: Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao
nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm:
Ngân Hàng kiểm tra lại toàn bộ các điều khoản hợp đồng tín dụng, hợp

đồng bảo đảm tiền vay theo đúng các nội dung và điều kiện đã được duyệt,
và đảm bảo chắc chắn rằng nội dung của các hợp đồng này tuân thủ các
quy định hiện hành của pháp luật.
Bước bốn là: Giải ngân và kiểm tra giám sát khoản vay.
Sau khi ký kết hợp đồng thì ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân một lần
hoặc nhiều lần cho khách hàng theo đúng hợp đồng thoả thuận giữa hai
bên, đi đôi với việc cấp tín dụng ngân hàng tiến hành kiểm soát tín dụng
như kiểm tra xem việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích hay
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
không, quá trình sản xuất kinh doanh có gặp phải bất lợi hay không, có dấu
hiệu gì của việc lừa đảo hay không… Ngân Hàng có quyền ngừng giải
ngân và thu hồi vốn trước hạn đối với những trường hợp khách hàng vi
phạm hợp đồng tín dụng.
Bước năm là: Thu hồi gốc và lãi khi khoản tín dụng đến hạn trả: Ngân
Hàng tiến hành thu cả gốc và lãi của khách hàng khi khoản vay đáo hạn.
Trường hợp khi đến hạn khách hàng không có khả năng trả nợ Ngân Hàng
sẽ ra thêm hạn nợ (nếu khách hàng yêu cầu), nếu hết thời hạn mà khách
hàng vẫn chưa có khả năng trả nợ thì Ngân Hàng sẽ thanh lý tài sản bảo
đảm thu hồi lại vốn và tiếp tục quay vòng tín dụng.
1.2- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
1.2.1- KINH TẾ TƯ NHÂN LÀ GÌ?
- Khái niệm :
kinh tế tư nhân là toàn bộ các cá nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh
hoặc dịch vụ dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Về cơ bản bất kỳ
ngành nghề kinh tế nào không thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu tập thể
đều thuộc kinh tế tư nhân. Nhìn chung kinh tế tư nhân có nội dung rất
rộng cả về ngành nghề lẫn loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Kinh tế
tư nhân hoạt đông trên nhiều lĩnh vực: từ công nghiệp,nông nghiệp đến

dịch vụ...dưới nhiều hình thức tổ chức khác nhau có thể là doanh nghiệp
hoặc hộ gia đình.
Chúng ta đang chứng kiến một thời đại các rào cản đầu tư, thương mại
hàng hóa và dịch vụ dần bị dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều
kiện dễ dàng cho kinh tế tư nhân lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình
phát triển, kinh tế tư nhân đã tồn tại dưới nhiều dạng như kinh tế cá thể,
Công ty và ngày nay là những Công ty đa quốc gia. Sự lớn mạnh của các
Công ty đa quốc gia trong những năm cuối của thế kỷ XX cho thấy kinh tế
tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi về chất. Các Công
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
ty đa quốc gia chính là biểu hiện của kinh tế tư nhân được quốc tế hóa, nó
trở thành lực lượng hùng mạnh nhất của kinh tế tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham
gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thì
quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh tranh. Dựa trên bối cảnh và xu
thế phát triển này, mỗi quốc gia cần phải có chính sách phát triển kinh tế tư
nhân thích hợp của mình, trong đó, phải đặc biệt chú ý đến sự hợp tác của
kinh tế tư nhân trong nước với các công ty đa quốc gia cũng như trực tiếp
tham gia vào các công ty đa quốc gia.
kinh tế tư nhân là hình thức kinh tế tự nhiên của quá trình phát triển xã
hội, tồn tại và phát triển ngoài ý muốn chủ quan của những nhà chính trị,
cho dù họ đại diện cho bất kỳ lực lượng xã hội nào, hoặc nhân danh ai,
hoặc với mục đích nhân đạo hay cao cả đến đâu chăng nữa. Chừng nào con
người còn cần đến kinh tế tư nhân như là một phương tiện hữu hiệu để xây
dựng và kiến tạo cuộc sống của mình và đồng loại, thì kinh tế tư nhân còn
tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trình đi tới tương lai.
1.2.2- CÁC LOẠI HÌNH KINH TẾ TƯ NHÂN.
 Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ

và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh
nghiệp tư nhân.
 Hộ gia đình: Mà các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh
tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp
luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó. Những hộ gia đình
mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan
đến đất ở đó.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Đại diện của hộ gia đình là người được các thành viên trong hộ gia đình đủ
18 tuổi trở lên uỷ quyền để ký và thực hiện các hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm và các giấy tờ có liên quan khác với ngân hàng cho vay và
cam kết cùng chủ hộ thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
 Cá nhân: Là một cá thể có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự.
1.2.3-NGUỒN VỐN VÀ CÁC KÊNH HUY ĐỘNG VỐN CHỦ YẾU CỦA
KINH TẾ TƯ NHÂN
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đã đánh dấu vai trò to lớn của
khu vực kinh tế này trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân
nói chung và những doanh nghiệp tư nhân nói riêng phải đối mặt với nhiều
khó khăn lớn khi muốn phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, trong đó khó khăn nhất là về vốn.
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, đã đóng góp tới 60% giá
trị của GDP và tạo ra hàng triệu việc làm chỉ trong vài năm. Các doanh
nghiệp tư nhân vừa và nhỏ sẽ có vai trò chủ đạo cho nền kinh tế trong
tương lai của Việt Nam. Nhưng việc thiếu vốn trong dài hạn đã kìm hãm

sự phát triển của các doanh nghiệp này. Sau đây ta nghiên cứu các kênh
huy động vốn chủ yếu của kinh tế tư nhân:
 Vốn chủ sở hữu (vốn tự có): Theo định nghĩa thì : Vốn chủ sở hữu
là giá trị vốn của Doanh nghiệp, được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị
tài sản trừ(-) Nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu được phản ánh trong Bảng cân
đối kế toán gồm vốn của các nhà đầu tư, thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận
giữ lại, các quỹ, lợi nhuận chưa phân phối, chênh lệch tỷ giá và chênh lệch
đánh giá lại tài sản
Như ta đã biết thì vốn chủ sở hữu bao gồm vốn tự có ban đầu và vốn bổ
xung thêm trong quá trình hoạt động, kinh doanh. Vốn tự có ban đầu của
kinh tế tư nhân được hình thành từ phần vốn góp của các chủ sở hữu và
các nhà đầu tư tham gia góp vốn. Trong quá trình hoạt động, kinh doanh
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
các đơn vị kinh tế tư nhân muốn tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu thì họ
giữ lại một phần lợi nhuận không chia hoặc trích từ các qũy bổ sung vào
ngồn vốn chủ của mình, việc tự bổ sung vốn chủ sở hữu bằng nguồn vốn
nội bộ của mình là một cách thức rất an toàn và giảm đáng kể chi phí, đồng
thời chủ động được vốn không phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Ngoài
ra các đơn vị kinh tế tư nhân còn có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách
phát hành cổ phiếu (nếu được phép) thông qua thị trường chứng khoán,
kêu gọi sự đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Vốn đi vay (vốn nợ): Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, để có vốn mở
rộng sản xuất kinh doanh, các đơn vị kinh tế tư nhân còn huy động vốn
bằng cách vay của Nhà nước thông qua Quỹ Hỗ trợ phát triển hay nay là
Ngân hàng Phát triển Việt Nam, vay NHTM Nhà nước, vay các ngân hàng
và tổ chức tín dụng khác, kể cả vay hoặc chiếm dụng vốn của các tổ chức,
cá nhân trong quá trình hoạt động; huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu qua thị trường chứng khoán (TTCK), thuê tài chính… Về phía Nhà

nước cũng đã thành lập “Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa” vay
vốn ngân hàng. Tuy nhiên các đơn vị kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay
chưa phát triển, phần lớn các đơn vị có quy mô vừa và nhỏ khả năng tiếp
cận vốn từ phía ngân hàng gặp nhiều khó khăn do không đủ tài sản thế
chấp, sổ sách, báo cáo tài chính chưa rõ ràng, minh bạch; năng lực quản lý,
xây dựng chiến lược và lập phương án kinh doanh có tính khả thi còn thấp;
uy tín thương hiệu chưa cao; chưa quan tâm sử dụng các dịch vụ tư vấn
pháp luật vay vốn hoặc dịch vụ thuê tài chính mà chủ yếu tự làm nên việc
nắm bắt quy trình và thực hiện các thủ tục còn thiếu, không chính xác và
chưa đầy đủ; một bộ phận doanh nghiệp tư nhân lừa đảo làm mất niềm tin
của ngân hàng. Mặt khác, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường nên hệ thống chính sách, pháp luật có nhiều thay đổi,
chưa ổn định và đầy đủ… cũng khiến cho các đơn vị kinh tế tư nhân khó
khăn trong việc huy động vốn.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Theo Bộ Tài chính, mức độ tiếp cận thành công các nguồn vốn Nhà
nước của các DNTN là không cao. Chỉ có 48,6% có khả năng, 30,43%
khó, và 20% số DNTN không tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng Nhà
nước. Trong cơ cấu các khoản vay tín dụng của DNTN, khoản vay ngắn
hạn chiếm đa số, những khoản vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu sản
xuất, kinh doanh lớn có thời gian dài thì DNTN hầu như chưa tiếp cận
được. Huy động vốn qua kênh TTCK chưa được là bao vì rất ít DNTN đáp
ứng đủ các điều kiện khắt khe của luật chứng khoán nhà nước.
Theo tin mới nhất thì sau năm 2010 thì kinh tế tư nhân sẽ có thêm
nguồn vốn mới đó là nguồn vốn ODA từ nước ngoài: Đây là một nội dung
quan trọng của Đề án "định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức thời kỳ 2006 - 2010", vừa được ban hành kèm theo Quyết
định số 290/2006 của Thủ tướng chính phủ.

Chính phủ dự báo, tổng vốn ODA được ký kết thời kỳ 2006 - 2010 sẽ
đạt khoảng từ 20,35 - 23,75 tỷ USD. Chính phủ xác định đây là giai đoạn
cần triển khai công tác nghiên cứu việc sử dụng các khoản vay mới có điều
kiện kém ưu đãi hơn như: điều chỉnh hướng sử dụng vốn ODA, tập trung
chủ yếu cho các lĩnh vực ưu tiên có khả năng thu hồi vốn nhanh và bảo
đảm trả nợ vốn vay một cách bền vững. Đặc biệt, sẽ mở rộng các đối tượng
thụ hưởng ODA, kể cả các thành phần kinh tế tư nhân.
1.3 -MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1- NHỮNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
KINH TẾ TƯ NHÂN TAỊ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
 Tốc độ tăng dư nợ: Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng trong việc
đánh giá tình hình hoạt động của một ngân hàng thương mại. Một ngân
hàng hoạt động có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào chỉ tiêu dư nợ
và khả năng quản lý dư nợ của ngân hàng. Tốc độ dư nợ tăng hàng năm
cũng có nghĩa là ngân hàng đã và đang mở rộng cho vay trên thị trường.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Trong đó không thể không kể tới kinh tế tư nhân, loại hình này ngày càng
được các ngân hàng để ý và hướng tới, dư nợ kinh tế tư nhân kỳ này so với
kỳ trước tăng cho biết tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đối với kinh tế tư nhân
theo thời gian. Với tốc độ phát triển như hiên nay thì loại hình kinh tế tư
nhân sẽ trở thành những nguồn cho vay chủ đạo của các ngân hàng thương
mại.
 Dư nợ cho vay kinh tế tư nhân/tổng dư nơ: Đây là một chỉ tiêu
phản ánh một cách chi tiết tình hình cho vay đối với loại hình kinh tế tư
nhân trong tổng doanh số cho vay đối với nền kinh tế. Dư nợ cho vay kinh
tế tư nhân / tổng dư nợ tăng đồng nghĩa với việc ngân hàng đang mở rộng
cho vay, hay đang tăng tỷ trọng cho vay đối với kinh tế tư nhân.

 Nợ quá hạn cho vay kinh tế tư nhân/tổng dư nợ kinh tế tư nhân:
Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng đối với việc cho vay loại hình
kinh tế tư nhân, việc mở rộng cho vay kinh tế tư nhân tại các ngân hàng
đang là vấn đề cần bàn bởi lẽ loại hình kinh tế tư nhân ở việt nam hiện nay
chưa thực sự phát triển, việc cho vay còn gặp rất nhiều khó khăn như: việc
bảo đảm khoản vay, khả năng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh còn
nhiều hạn chế…Vấn đề giảm nợ quá hạn một cách triệt để thì ngân hàng
mới có cơ sở, và niềm tin để mở rộng cho vay đối với loại hình này.
 Số lượng khách hàng vay: Đây cũng là chỉ tiêu phản ánh quy mô
của việc mở rộng cho vay. Mở rộng cho vay không chỉ phản ánh ở tiêu chí
tăng dư nợ cho vay mà còn phản ánh ở mức độ lượng khách hàng đến vay
qua các thời kỳ.
 Doanh số cho vay kinh tế tư nhân/số lượt vay: Đây là chỉ tiêu phản
ánh khối lượng tín dụng mà ngân hàng quyết định cho vay trên mỗi lượt
vay hay là doanh số cho vay trung bình qua các lần vay. Nếu tỷ lên này
càng lớn cũng có nghĩa là doanh số cho vay trung bình tăng, đồng nghĩa
với việc ngân hàng đang mở rộng quy mô cho vay đối với loại hình kinh tế
tư nhân.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
1.3.2-NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỞ RỘNG CHO VAY ĐÔÍ
VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
 Nhân tố thuộc về phía ngân hàng thương mại:
- Quy trình cho vay: Với các ngân hàng thương mại quy trình cho vay
là một yếu tố rất quan trọng đảm bảo tính an toàn tín dụng trong quá trình
cho vay. Quy trình tín dụng bao gồm các bước do ngân hàng đặt ra buộc
các chi nhánh của mình phải thực hiện nhằm hạn chế rủi ro.Một ngân hàng
có quy trình cho vay đơn giản, gọn nhẹ sẽ thu hút được nhiều khách hàng,
nhờ đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng cho vay đối với nền kinh

tế nói chung và đối với kinh tế tư nhân nói riêng.
- Chính sách tín dụng: Đây là một yếu tố rất quan trọng, quyết định
trực tiếp đến việc cho vay, đến khả năng tiếp cận tín dụng của khách hàng.
Chính sách tín dụng bao gồm các điều kiện về cho vay như: tài sản bảo
đảm, lãi suất, phương thức cho vay, thời hạn tín dụng… Đây là yếu tố
nhạy cảm, một ngân hàng có chính sách tín dụng hợp lý, lãi suất linh hoạt,
các gói dịch vụ đa dạng chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng của
mọi thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân.
- Chính sách khách hàng: Hiện nay các ngân hàng đang cạnh tranh
với nhau để thu hút khách hàng về phía mình thể hiện rất rõ trong các cuộc
chạy đua lãi suất, các chính sách tín dụng, các chương trình khuyến mại…
một ngân hàng muốn thành công ngoài việc cung cấp dịch vụ đa dạng, hợp
lý còn phải có chính sách khách hàng thực sự tốt, một chính sách khách
hàng công bằng không phân biệt loại hình kinh tế nhà nước hay tư nhân sẽ
tạo điều kiện tích cực cho việc thu hút và đa dạng hoá khách hàng, mở
rộng cho vay đối với tất cả các loại hình kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân.
- Tình hình huy động vốn của ngân hàng: Khối lượng vốn trong ngân
hàng càng nhiều thì ngân hàng càng có thể chủ động đa dạng hoá hình thức
kinh doanh của mình, giảm thiểu rủi ro. Ngân hàng nhiều vốn cũng có
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
nghĩa là việc mở rộng cho vay trong nền kinh tế nói chung và đối với kinh
tế tư nhân nói riêng trở nên đơn giản hơn.
 Nhân tố thuộc về phía kinh tế tư nhân:
- Tính khả thi của phương án sử dụng vốn vay: Mọi khách hàng
doanh nghiệp hay cá nhân muốn vay vốn đều phải trình ngân hàng phương
án sử dụng vốn của mình, nếu phương án sử dụng vốn thực sự hiệu quả thì
việc tiếp cận vốn của ngân hàng trở nên rất đơn giản
- Độ uy tín của khách hàng đối với ngân hàng: Mọi ngân hàng đều

tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn, trong đó khách hàng
truyền thống của ngân hàng có phần ưu ái hơn rất nhiều. Một khách hàng
đã có uy tín với ngân hàng thì việc vay vốn trở nên đơn giản.Tuy nhiên
hiện nay còn tồn tại một bộ phận khách hàng hộ gia đình, doanh nghiệp tư
nhân lợi dụng việc vay vốn ngân hàng sử dụng sai mục đích, làm ăn phi
pháp, trây ì trả nợ làm mất lòng tin từ ngân hàng nên việc mở rộng cho vay
đối với kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn.
 Một số nhân tố khác:
- Chủ trương chính sách của đảng và nhà nước: Mọi hoạt động của
ngân hàng đều phải tuân theo luật ngân hàng thông qua chủ trương chính
sách của nhà nước. Một cơ chế, chính sách thông thoáng sẽ tạo điều kiện
rất lớn trong hoạt động của ngân hàng. Nếu chính phủ có những chính
sách khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân thì việc mở
rộng cho vay kinh tế tư nhân của các ngân hàng thương mại trở nên dễ
dàng hơn.
- Môi trường kinh tế-chính trị: Một nước mà có nền kinh tế phát
triển, môi trường chính trị ổn định, các doanh nghiệp có thị trường tiêu thụ
rộng lớn sẽ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đa dạng hoá loại
hình kinh doanh, khi đó nhu cầu vốn của doanh nghiệp tăng, sẽ trở thành
những khách hàng lớn của ngân hàng. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
quả khuyến khích ngân hàng mở rộng cho vay, tăng nguồn thu cho ngân
hàng, tạo đà cho ngân hàng ngày càng phát triển.
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính
Chương 2:
THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI KINH TẾ

TƯ NHÂN TAỊ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG TỈNH THANH HÓA TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NAY.
2.1-GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG TỈNH THANH HOÁ
2.1.1-LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH THANH HÓA
 Sự hình thành:
Thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ 3 của ban chấp hành trung ương đảng
cộng sản Việt Nam khóa VI và nghị định số 53 HĐBT ngày 26/3/1988 của
hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) về việc chuyển hoạt động ngân hàng
sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN, hình thành hệ thống ngân
hàng 2 cấp.
Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động
ngân hàng và các chức năng ngân hàng thương mại thực hiện chức năng
kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng. Đây là mốc son lịch sử
của hệ thống ngân hàng được tách bạch rõ rang giữa chức năng quản lý
nhà nước và chức năng kinh doanh. Đánh dấu sự ra đời của các NHTM với
sự vươn lên và phát triển mạnh mẽ góp phần xứng đáng vào quá trình hội
nhập và công cuộc đổi mới đất nước.
Trong xu thế thời đại đó ngày 1/7/1988 Ngân Hàng Công Thương Việt
Nam ra đời và đi vào hoạt động. Hai tháng sau ngày 1/9/1988 chi nhánh
NHCT Tỉnh Thanh Hóa cũng được thành lập trên cơ sở NHNN thị xã
Thanh Hóa cùng các phòng tín dụng công nghiệp, tín dụng thương nghiệp
của NHNN tỉnh để hợp thành chi nhánh NHCT tỉnh Thanh Hóa, đơn vị
thành viên của NHCT VN. Cùng thời gian đó các chi nhánh NHNN thị xã
Bỉm Sơn, thị xã Sầm Sơn chuyển thành chi nhánh NHCT cấp II thuộc chi
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng-Tài chính

nhánh NHCT Thanh Hóa. Cùng với quá trình đổi mới đất nước và toàn
ngành, từ ngày thành lập đến nay NHCT TH luôn khẳng định được vai trò
vị trí của một đơn vị đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, góp phần tích
cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tỉnh nhà.
 Những giai đoạn phát triển:
Quá trình hình thành và tổ chức bộ máy hoạt động NHCT VN nói chung
và chi nhánh NHCT Thanh Hóa nói riêng có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ ngày thành lập đến hết năm 1990.
Hệ thống NHCT VN có 32 chi nhánh tỉnh thành phố với 63 đơn vị
trực thuộc được tổ chức theo cơ chế NHCT TW chỉ thực hiện nhiệm vụ
quản lý chỉ đạo như một liên hiệp xí nghiệp đặc biệt các chi nhánh thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập. Giai đoạn này chi nhánh NHCT TH
có 2 chi nhánh trực thuộc là chi nhánh NHCT Bỉm Sơn và Sầm Sơn, chi
nhánh tỉnh có 6 phòng ban, chưa có phòng giao dịch. Nguồn vốn huy động
khi mới thành lập (1988) là 13.400 triệu đồng, dư nợ cho vay nền kinh tế là
10.326 triệu đồng, chưa có cho vay ngoại tệ và huy động tiết kiệm ngoại
tệ, các sản phẩm dịch vụ còn đơn giản, tin học chưa được áp dụng, tổng số
cán bộ công nhân viên có 325 người.
Giai đoạn 2: Từ tháng 1 năm 1991 đến năm 1995.
Là giai đoạn hệ thống NHCT VN được thành lập theo Quyết Định
420-CT ngày 14/11/1990 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng, từ đây hệ thống
NH chuyên doanh đã thực sự trở thành NHTM hoạt động theo pháp lệnh
ngân hàng có hiệu lực từ tháng 10/1990. NHCT VN là một pháp nhân hạch
toán kinh tế độc lập có các chi nhánh hạch toán phụ thuộc. Đây cũng là
giai đoạn bung ra nền kinh tế nhiều thành phần, là giai đoạn mà hệ thống
NHCT mở rộng cho vay đối mặt trực tiếp với nền kinh tế thị trường nên
chứa đựng mất an toàn và khủng hoảng. Chi nhánh NHCT TH cũng bắt
đầu mở rộng hàng loạt các phòng giao dịch được thành lập mới như NHCT
Bỉm Sơn phát triển thêm 3 phòng giao dịch, hội sở NHCT tỉnh, 7 phòng
Mai Hoàng Tiến Lớp: Ngân Hàng 46C


×