Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Vấn đề chất lượng và quản trị chất lượng sản phẩm tại các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây việt nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.91 KB, 30 trang )

CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

PHẦN I:PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do lựa chọn đề tài:
Việt nam là một nước được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều về khí hậu và điều
kiện tự nhiên,rất thuận lợi cho việc trồng và phát triển các loại cây ăn quả.Việt
Nam hiện nay có diện tích cây ăn trái khoảng 450.000 ha với mức sản lượng
hàng năm khoảng 5,1 triệu tấn trái cây.nhưng chỉ xuất khẩu được khoảng 1520% số này, phần còn lại được tiêu thụ tại thị trường nội địa.Trong khi trái cây
tươi phần lớn được xuất đi Trung Quốc thì các loại trái cây khơ và đóng hộp lại
được xuất khẩu đi châu Âu và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Trái cây Việt
Nam, thời gian gần đây kim ngạch xuất khẩu trái cây không tăng và có xu hướng
giảm dần.Thời kỳ hồng kim - năm 2001 giá trị xuất khẩu đạt 330 triệuUSD,
năm 2002 còn 220 triệu USD, đến 2003 là 182,5 triệu USD và doanh số xuất
khẩu trong năm 2004 là 178,8 triệu USD, năm 2005 là 235,5 triệu USD,2006
tăng lên 259 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2007 là 249.472.417 USD, trong
khi đó thị trường trong nước cũng đang có khuynh hướng giảm sút nhu cầu.Tại
sao lại có sự sút giảm về năng lực xuất khẩu trong khi việt nam vừa gia nhập
WTO mà WTO là một thị trường lớn với 5 tỷ người tiêu dùng, chiếm 95% giá trị
thương mại thế giới, kim ngạch nhập khẩu nông sản trị giá 635 tỷ USD/năm.Sự
giảm sút này đặt ra yêu cầu cấp bách đòi hỏi những người nông dân ,các doanh
nghiệp xuất khẩu cũng như các cơ quan chức năng phải đi tìm nguyên nhân cho
vấn đề.và chúng ta dễ dàng nhận thấy một nguyên nhân rất quan trọng và cũng
không kém phần cấp bách hiện nay làm giảm năng lực cạnh tranh của trái cây
Việt Nam so với trái cây của các nươc trong khu vực có cùng diều kiện nhiệt đới
đó là do chất lượng trái cây việt nam thấp và vấn đề quản lý chất lượng trái cây
thì yếu kém.Với mong muốn tìm được giải pháp để nâng cao chất lựợng cho trái

1


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688



cây cũng như giải pháp để đẩy mạnh quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
xuất khẩu trái cây nên em chọn viết đề án môn học là: ”Vấn đề chất lượng và
quản trị chất lượng sản phẩm tại các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây việt
nam”.
2.Mục đích nghiên cứu:
Đề tài sẽ nêu ra ý nghĩa,tầm quan trọng của quản trị chất lượng trong các
doanh nghiệp xuất khẩu trái cây cũng như thực trạng về quản trị chất lượng trong
các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây,và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất
lựợng cho trái cây cũng như giải pháp để đẩy mạnh quản lý chất lượng trong các
doanh nghiệp xuất khẩu trái cây nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của trái cây
Việt Nam trong môi trường hội nhập với một thị trường rất rộng lớn,đầy cơ hội
nhưng cũng rất nhiều khó khăn và thử thách nhất là với một nước đang phát triển
như Việt Nam.
3.Lời cảm ơn:
Do kiến thức còn hạn chế cũng như kinh nghiệm chưa có nhiều nên đề tài
của em cịn có rất nhiều thiếu sót.Và em xin chân thành cảm ơn Tiến Sỹ Trần
Viết Lâm đã có những ý kiến đóng góp và hướng dẫn cần thiết giúp em hoàn
thành đề tài này.

2


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

PHẦN II: NỘI DUNG.
I.Lý luận chung về quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp:
1.Khái niệm:



khái niệm chất lượng:

Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ
thống hay qúa trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên
quan.


khái niệm quản lý chất lượng:

Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lý chất lượng nhưng
quản lý chất lượng không thẻ tách rời khỏi chức năng quản lý nói chung.Quản lý
là những hoạt động liên quan đến tổ chức, kiểm soát và điều phối các nguồn lực
để đạt mục tiêu. Do đó, quản lý chất lượng là hoạt động tổ chức, kiểm soát và
phân bổ các nguồn lực để đạt được những mục tiêu chất lượng. Quản lý chất
lượng được hình thành dựa trên nhu cầu ngăn chặn, loại trừ những lỗi hay thiếu
xót trong chế biến, sản xuất sản phẩm. Trước kia, nhà sản xuất thường thử và
kiểm tra thông số chất lượng sản phẩm ở công đoạn cuối cùng. Kỹ thuật này đã
làm tăng chi phí, đặc biệt khi mở rộng quy mơ sản xuất, và vẫn khơng tránh
được những lỗi, thiếu xót trong sản xuất. Do vậy, những cách thức mới đã được
hình thành như kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng, quản lý chát lượng và
quản lý chất lượng tổng hợp.
Trong các doanh nghiệp hiện nay đã hình thành một hệ thống khái niệm
về quản lý chất lượng trong doanh nghiệp hết sức đa dạng mà chúng ta có thể
tìm hiểu để hiểu rõ hơn về hoat động quản lý chất lượng.
Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 được thông qua lần đầu tiên vào năm
1987 (ISO 9000:1987), đến năm 2000 bộ tiêu chuẩn này đã được sửa đổi bổ

3



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

xung lần thứ ba với ký hiệu ISO 9000:2000. Đây là sự thay đổi về chất đối với
bộ tiêu chuẩn này, đó chính là sự thay đổi khái niệm "đảm bảo chất lượng" bằng
"quản lý chất lượng". Khái niệm "quản lý chất lượng" không chỉ dành cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà cịn cho tất cả các tổ
chức khác như tổ chức sự nghiệp: Nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu…và
cả các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị. Nghĩa là có thể áp
dụng cho tất cả những tổ chức nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình
nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng khi sử dụng sản
phẩm của mình. Khái niệm sản phẩm ở đây theo đó cũng hết sức rộng: Kết quả
của một quá trình hoạt động của con người. Đây cũng là hệ quả tất yếu quá trình
quản lý chất lượng của thế giới trước tác động của q trình tồn cầu hóa nói
chung và tự do hóa thương mại đang ngày càng sâu rộng. Các phương thức và
cơng cụ quản lý chất lượng cơ bản bao gồm:
• Kiểm tra chất lượng (Quality Inspection) với mục tiêu để sàng lọc các
sản phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi các
sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có sản
phẩm đảm bảo u cầu đến tay khách hàng.
• Kiểm sốt chất lượng (Quality Control - QC) với mục tiêu ngăn ngừa
việc tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải
kiểm soát các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm (như
dây truyền công nghệ), các đầu vào (như 3 nguyên, nhiên vật liệu…), công cụ
sản xuất (như trang thiết bị công nghệ) và yếu tố mơi trường (như địa điểm sản
xuất).
• Kiểm sốt chất lượng tồn diện (Total Quality Control - TQC) với mục
tiêu kiểm sốt tất cả các q trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình

4



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

xảy ra trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường, nghiên
cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận chuyển, phân
phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng.
• Quản lý chất lượng tồn diện (Total Quality Management - TQM) với
mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở
mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho hoạt
động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động
sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục tiêu chất
lượng đã đặt ra.
Sự liệt kê các phương pháp quản lý chất lượng nêu trên cũng phản ảnh sự
phát triển của hoạt động quản lý chất lượng trên phạm vi thế giới diễn ra trong
hàng thế kỷ qua, thông qua sự thay đổi tư duy của các nhà quản lý chất lượng
trong tiến trình phát triển kinh tế, thương mại, khoa học và cơng nghệ của thế
giới.
Ngồi các bộ tiêu chuẩn của ISO về hệ thống quản lý chất lượng (ISO
9001), nhiều các hệ thống khác cũng đang được các doanh nghiệp Việt Nam xem
xét áp dụng, như ISO 14001 - hệ thống quản lý mơi trường, HACCP - Hệ thống
Phân tích các nguy cơ và Kiểm soát các điểm trọng yếu trong lĩnh vực nông sản
thực phẩm, GMP - Quy chế thực hành sản xuất tốt trong lĩnh vực dược và thực
phẩm, OHSAS 18001 - Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, SA
8000 Hệ thống trách nhiệm xã hội,và GAP -quy trình nơng nghiệp an tồn là
chìa khóa thành cơng cho xuất khẩu nơng sản và cho cả thị trường trong nước để
nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nội với hàng ngoại sau khi thực hiện các
cam kết về nông sản với WTO

5



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

2.Ý nghĩa và tầm quan trọng của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp xuất
khẩu trái cây:
Vậy là Việt Nam đã được tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
làm quốc gia thành viên thứ 150 của tổ chức kinh tế lớn nhất hoàn vũ này. WTO
là một thị trường lớn với 5 tỷ người tiêu dùng, chiếm 95% giá trị thương mại thế
giới, kim ngạch nhập khẩu nông sản trị giá 635 tỷ USD/năm, đây là một thị
trường xuất khẩu lớn đối với Việt Nam. Trong những mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam,hoa quả là mặt hàng lớn nhất của sân chơi WTO, trị
giá gần 103 tỷ USD/năm. Tuy nhiên hễ có chơi là có sân chơi, luật chơi và người
chơi. Luật chơi của WTO do những tay chơi lớn và giàu đặt ra nên luật này bao
giờ cũng có lợi cho họ.và những nước tham gia sau như Việt Nam thường gặp
rất nhiều khó khăn.cho nên khi gia nhập WTO nơng nghiệp Việt Nam phải biết
rằng chúng ta đã bước vào một cuộc chiến đầy gian khổ và thử thách. Nhận thức
của người tiêu dùng lại mỗi ngày một cao nên yêu cầu của thị trường về chất
lượng trái cây cũng ngày càng khắt khe.Tại Singapore hiện nay thì các thủ tục về
nhập hàng vào Singapore khá đơn giản và không tốn kém nhiều thời gian cho
những nhà nhập khẩu.,nhưng muốn nhập khấu đựợc rau,hoa quả vào nước này
thì nhà xuất khẩu phải có được chứng chỉ Certificates do cơ quan Cơ quan Nông
sản thực phẩm và Thú y Singapore (The Agri-Food and Veterinary Authority AVA)cung cấp. Ngay cả thị trường từ trước đến nay vẫn được các doanh nghiệp
Việt Nam đánh giá là rất dễ tính như Trung Quốc cũng đã chuyển từ việc thích
hàng rẻ dù chất lượng kém sang việc lựa chọn các sản phẩm hàng hiệu,mẫu mã
đẹp,chất lượng cao và đặc biệt là an tồn,chứ chưa nói đến những thị trường khó
tính và rất khắt khe về vấn đề chất lượng như EU và Mỹ,qua đó có thể thấy rằng
yêu cầu về chất lượng là vấn đề vô cùng quan trọng mà tất cả các quốc gia trên

6



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

thế giới đều rất quan tâm,theo đánh giá của tổ chức FAO vào năm 2005 giá trị
thị trường nhập khẩu hoa quả của thế giới là 102.900.226.000 USD,trong khi đó
xuất khẩu của Việt Nam chỉ là 186.778.000 chiếm 0,2% thị phần,quá thấp so với
năng lực của nông nghiệp Việt Nam.Điều này địi hỏi Việt Nam phải có một
chính sách đúng đắn về vấn đề quản trị chất lượng cũng như việc có một phương
pháp quản lý chất lượng hiệu quả để tạo nên những sản phẩm có chất lựợng là
vấn đề sống còn đối với xuất khẩu trái cây của Việt Nam hiện nay.VIETGAP là
điều mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thực hiện và đảm bảo. Nếu không
xây dựng ngay một VietGAP, xuất khẩu nông sản Việt Nam sẽ không bền vững,
kể cả việc cạnh tranh với hàng ngoại nhập ngay trên sân nhà, . Đây là một
chương trình kiểm tra an tồn thực phẩm xun suốt từ A đến Z của dây chuyền
sản xuất, bắt đầu từ khâu sửa soạn nông trại, canh tác đến khâu thu hoạch, sau
thu hoạch, tồn trữ, kể cả những yếu tố liên quan đến sản xuất như mơi trường,
các chất hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc
và phúc lợi của người làm việc trong nông trại.
Cao hơn nữa việc đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm chung chung
chưa đủ mà phải phù hợp với yêu cầu chất lượng thương mại của sản phẩm ở thị
trường mà Việt Nam muốn thâm nhập, và vì vậy mới có cơ hội vượt qua các
hàng rào kỹ thuật của nước ngồi để có một thị trường,Việt Nam phải đối mặt
khi đã hội nhập WTO.chính quản trị chất lượng sẽ giúp cho các doanh nghiệp
đảm bảo được chất lượng của trái cây ngay tại nguồn gốc sản phẩm. Quản lý
chất lượng ở giai đoạn thu hoạch và sau thu hoạch luôn được quan tâm cụ thể để
quản lý ở mọi khâu, như: thu hoạch, nhập kho và đóng gói, rửa trái, xử lý thuốc,
bọc sáp, làm khơ, phân loại, đóng gói, dán nhãn, phân bổ và tồn trữ. Đảm bảo
được hệ thống chuỗi như vậy sẽ góp phần giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch,và

7



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

đảm bảo trái cây luôn đủ tiêu chuẩn cho đến lúc xuất khẩu và vượt qua được các
hàng rào kĩ thuật của các thị trường nước ngồi khó tính.
Qua những phân tich trên chúng ta đã nhận thấy vấn đề quản trị chất
lượng trái cây xuất khẩu là một vấn đề rất cấp thiết hiện nay mà các doanh
nghiệp xuất khẩu cần phải tiến hành và thực hiện một cách nghiêm túc. Ý nghĩa
và tầm quan trọng của nó liên quan đến vấn đề tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp xuất khẩu cũng như cả ngành nông nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.Nó đảm bảo cho Việt Nam có một chỗ đứng trên thị trường xuất
khẩu, đảm bảo một vị thế xứng đáng với tiềm năng nông nghiệp của nước
ta.Nâng cao giá trị thị phần của trái cây xuất khẩu của Việt Nam trong nghành.
II. Thực trạng về quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp xuất khẩu trái
cây
1. Giới thiệu khái quát về các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây tại Việt Nam
Thị trường xuất khẩu trái cây Việt Nam đang ngày càng suy giảm,các
doanh nghiệp đang kinh doanh thực sự đang rất khó khăn.Tính đến tháng
10/2007 cả nước hiện có hơn 300 doanh nghiệp tham gia v ào thị trường xuất
khẩu. Trong số đó, có tới 5 doanh nghiệp xuất khẩu rau quả đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 500 nghìn USD, tăng so với 3 doanh nghiệp trong tháng 9/2007 và
tăng so với 2 doanh nghiệp trong tháng 8/2007. Do phụ thuộc khá nhiều vào
nguồn cung cũng như tính thời vụ của các chủng loại rau quả nên thứ tự kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp thay đổi mạnh trong từng tháng. Theo số
liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả cả nước trong tháng 10/2007
đạt 24.380.496 USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả trong 10 tháng đầu
năm 2007 lên 249.472.417 USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng

8



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

15,7% so với tháng 9/2007.Chúng ta có thể tham khảo giá trị xuất khẩu theo
bảng số liệu: (nguồn: vinanet.vn)
Phần lớn mặt hàng rau quả nước ta được xuất khẩu chủ yếu vào các nước
như: Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên bang Nga…
Tên nước

Kim
khẩu

Achentina
CH Ailen
Ấn Độ
Anh
Ả rập Xê út
Ba Lan
Bỉ
Braxin
Tiểu Vương quốc
Ả Rập thống nhất
Campuchia
Canada
Đài Loan
CHLB Đức
Hà Lan
Hàn Quốc
Hồng Kông

Hungary
Hy Lạp
Indonesia
Italia
Lítva

ngạch

tháng

(USD)
24.735
84.474
333.414
81.016
166.725
58.592
52.520
317.148
86.013
477.781
3.626.360
314.690
634.883
531.072
848.559
50.000
40.913
65.411
337.086

69.967

9

xuất

Kim

ngạch

xuất

10/2007khẩu 10 tháng đầu năm
2007 (USD)
203.302
377.786
1.893.147
3.203.066
489.100
682.071
1.934.826
507.500
3.416.715
1.299.754
3.698.942
23.603.644
4.487.799
8.169.866
9.116.455
6.673.175

288.999
652.114
1.846.976
4.196.042
321.313


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Malaysia
Mỹ
Na Uy
CH Nam Phi
Niu zi lân
Liên Bang Nga
Nhật Bản
Ôxtrâylia
Pháp
Philippines
CH Séc
Singapore
Tây Ban Nha
Thái Lan
Thổ Nhĩ Kỳ
Thuỵ Điển
Thuỵ Sĩ
Trung Quốc
Ucraina
Tổng


335.788
1.603.890
81.123

1.775.813
2.160.790
240.424
438.082
109.369
85.040
820.391
65.535
865.856
35.449
29.700
112.598
2.550.654
244.515
24.380.496

4.208.363
15.451.185
605.175
337.479
288.316
18.732.213
21.903.784
3.409.736
3.667.008
394.587

876.278
8.219.097
1.294.723
5.936.990
457.006
839.160
553.752
22.414.053
1.802.377
249.472.417

Qua những số liệu trên chúng ta cũng đã biết sơ lược về tình hình các
doanh nghiệp xuất khẩu trái cây hiện nay.và thấy được tình hình kinh doanh của
họ qua các chỉ tiêu về kim ngạch.
2. Thực trạng quản trị chất lượng trong các doanh xuất khẩu trái cây tại Việt
Nam:
2.1. Theo tiến sĩ Roger H.Ford, một chuyên gia nghiên cứu về trái cây Việt Nam
đã nhận xét: “Cái yếu nhất của ngành sản xuất Việt Nam nói chung là thiếu sự
liên kết”. Người sản xuất không liên kết với người bán, và ngay cả những thành

10


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

viên trong hiệp hội cũng không liên kết với nhau. Lợi thế cạnh tranh bắt đầu với
một chiến lược rõ ràng được chia sẻ trong chính liên kết ngành. Tấm gương
những quốc gia phát triển cho thấy tầm quan trọng của liên kết
2.2. Điểm khó khăn quan trọng của ngành sản xuất trái cây Việt Nam là công
nghệ sau thu hoạch lạc hậu, thiếu tổ chức liên kết ngành, quy hoạch chung yếu

kém, chất lượng sản phẩm thấp, không đồng bộ, thiếu kiến thức thị trường, kỹ
thuật trồng trọt thấp, thiếu vốn vay, năng suất lao động không cao…
Như chúng ta đã biết, để nâng cao chất lượng xuất khẩu trái cây ra thị
trường quốc tế chúng ta rất cân thiết chú trọng dến vấn đề chất lượng và quản trị
chất lượng trong các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây Việt Nam.
Hiện nay, ở nước ta chỉ có một số doanh nghiệp lớn và các siêu thị có
phương thức tồn trữ trái cây ở nhiệt độ lạnh. Còn lại, đa số các vựa thu mua trái
cây cũng như nông dân đều thu hoạch và bán trái cây theo tập quán, khơng có
qui trình bảo quản sau thu hoạch. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Sản phẩm trái cây của nước ta, đặc biệt trái
cây của các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long có nhiều lợi thế về chủng loại, sản
lượng và chất lượng của trái cây miền nhiệt đới nhưng việc bảo quản để xuất
khẩu vào các thị trường lớn như Nhật, Mỹ, EU… chưa ngang tầm với sản lượng
thu hoạch hàng năm. Có nhiều nguyên nhân trong vấn đề này, trong đó việc bảo
quản chưa được đầu tư về công nghệ và hệ thống thiết bị bảo quản một cách
tương xứng với doanh nghiệp có thương hiệu trái cây xuất khẩu. Tại thị trường
trong nước từ nhiều năm nay giá bán trái cây vào thời điểm thu hoạch rộ thường
bấp bênh, do sản phẩm cùng chủng loại nhiều vào thời điểm thu hoạch, bình
quân khoảng 2 tháng / vụ, làm cho việc điều tiết tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó
khăn, sản phẩm trái cây được tiêu thụ ở dạng tươi là chủ yếu ở tại địa phương và

11


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

trong nước, nên thường gây ứ đọng, sản phẩm thường bị hư hỏng. Trong thực tế
sản phẩm trái cây thường được thu hoạch thậm chí khi chưa đến thời điểm thu
hoạch, đa số trái cây thường không qua khâu kiểm tra chất lượng và vệ sinh an
tồn thực phẩm…Trong đó chỉ một số lượng trái tươi đủ tiêu chuẩn phẩm cấp

được phân loại bảo quả ở kho lạnh có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho từng loại
trái. Đáng chú ý, hiện do nước ta có rất ít các kho bảo quản nên chí phí bảo quản
trong các khâu thu hái, bao gói và vận chuyển lạnh để xuất khẩu rất cao. Đây
cũng là nguyên nhân hạn chế việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản
phẩm ở các trung tâm phát triển cây ăn quả trong cả nước. Thời gian gần đây
vấn đề này được các nhà vườn rất quan tâm và đặc biệt các cơng trình nghiên
cứu bảo quản trái cây sau thu hoạch cũng đang cho những kết quả khả quan…
Qui trình nghiên cứu bảo quản xồi được Sở Khoa học và Cơng nghệ TP Cần
Thơ nghiệm thu đầu năm 2007. Nông trường Sơng Hậu – nơi nghiên cứu hiện có
150.000 cây xồi cát Hịa Lộc, trung bình, mỗi hộ có 80-100 cây. Với sản lượng
hàng năm lên đến cả hàng nghìn tấn xồi sản phẩm… Để hướng tới qui trình thu
hoạch và bảo quản xồi có qui mơ của một phân xưởng phân loại, đóng gói, bảo
quản trái cây tươi chính qui, Nông trường đã hợp tác với Viện Nghiên cứu và
Phát triển Công nghệ Sinh học và Bộ môn Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại
học Cần Thơ cùng Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam nghiên cứu thành
cơng qui trình bảo quản xồi sau thu hoạch bằng cơng nghệ hiện đại, đảm bảo
chất lượng tốt, giúp kéo dài thời gian tồn trữ, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu
dùng trong nước. Theo đánh giá của các nhà khoa học, những nghiên cứu bảo
quản trái cây sau thu hoạch có thể ứng dụng rộng rãi trong các siêu thị vì nơi đây
có phịng lạnh và các điều kiện cần thiết để bảo quản trái cây lâu dài. Ngoài ra,
khi trái cây Việt Nam hướng đến thị trường xuất khẩu thì việc bảo quản trái sau

12


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

thu hoạch để kéo dài thời gian tồn trữ trong quá trình vận chuyển là một yêu cầu
bắt buộc. Do đó, những cơng trình nghiên cứu về bảo quản trái cây sau thu hoạch
hiện nay là rất cần thiết, góp phần nâng cao giá trị thương phẩm cho trái cây trên

thị trường trong và ngoài nước.
Việc tổ chức hoạt động xuất khẩu của hầu hết các doanh nghiệp trong lĩnh
vực rau, hoa, quả cịn thiếu tính chun nghiệp. Chưa có đơn vị nào tổ chức kinh
doanh sản xuất, xuất khẩu bài bản, chính qui theo các qui trình tiên tiến từ canh
tác đến thu hái, chọn lựa, phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho bảo quản lạnh,
dưỡng sinh, vận chuyển, giao hàng đến tay người mua nước ngoài đảm bảo chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm như Công ty liên doanh của Hà LanIndonesia HATSFARM ở Đà Lạt hiện nay.
Có thể nói, quản lý chất lượng, cơng nghệ sau quy hoạch và quy trình
cơng nghiệp an tồn (GAP). Có thể nói hiện nay, xuất khẩu trái cây Việt Nam
đang đối mặt với 4 thách thức lớn, đó là: số lượng lơn, ngon, rẻ và phải sạch.
Đây cũng được xem là 4 thách thức lớn nhất cho các doanh nghiệp xuất khẩu trái
cây khi Việt Nam gia nhập WTO. Lấy ví dụ từ kim ngạch xuất khẩu trái cây của
Việt Nam sang Trung Quốc, thị trường xuất khẩu trái cây chính của Việt Nam
nhiều năm qua, để khẳng định rằng các nhà xuất khẩu trái cây của Việt Nam cứ
xem Trung Quốc là thị trường dễ tính, thích hàng rẻ, chất lượng thấp là sai lầm.
Từ thị trường xuất khẩu trái cây với 142 triệu đô la Mỹ vào năm 2001, sau đó
giảm dần và tới năm 2005, Việt Nam chỉ xuất khẩu có 35 triệu đơ la Mỹ trái cây
sang Trung Quốc. Sở dĩ kim ngạch giảm do nhiều nguyên nhân. Nhưng cần phải
nhận định rằng cái quan trọng là thị trường Trung Quốc bây giờ thích hàng hiệu,
mẫu mã đẹp, chất lượng cao và nhất là an tồn vệ sinh. Là thành viên WTO,
nơng nghiệp Việt Nam, đang đứng trước bốn thách thức lớn. Đó là xây dựng quy

13


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

trình sản xuất nơng nghiệp an tồn GAP (Good Agricultural Practices) để cho ra
nông sản sạch, hợp với các tiêu chuẩn, thơng lệ quốc tế về vệ sinh an tồn thực
phẩm, kiểm sốt dư lượng kháng sinh, hóa chất; hai là tập trung sản xuất hàng

hóa lớn; ba là đảm bảo chất lượng cao và bổ dưỡng; và bốn là giá rẻ để nâng cao
tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. GAP là chiếc chìa khóa thành cơng cho
sản xuất nông nghiệp Việt Nam, bởi sản xuất theo quy trình GAP đã là hội tụ đủ
ba thách thức cịn lại. Trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam, rau hoa quả là mặt hàng lớn nhất của sân chơi WTO với thị trường
tiêu thụ thế giới khoảng 103 tỉ đô la Mỹ hàng năm nhưng Việt Nam mới chỉ
chiếm 0,2% thị phần, một tỷ lệ quá nhỏ bé. Thị trường lúa gạo, cà phê, cao su
nhỏ hơn với mỗi mặt hàng không quá 10 tỉ đô la Mỹ và Việt Nam đang chiếm
10-15% thị phần. Các loại nông sản khác như hạt điều, hồ tiêu càng nhỏ hơn.
Nghịch lý ở chỗ, 74% diện tích canh tác và gần như phần lớn vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước vào nông nghiệp chỉ để cho cây lúa, trong khi trái cây có thị
trường rộng gấp 10 lần hạt gạo thì ít được đầu tư, diện tích chỉ chiếm chưa tới
15%, điều này đồng nghĩa nông nghiệp Việt Nam vẫn được đánh giá là độc canh
cây lúa. GAP thực ra không phải là khái niệm mới với các chun gia nơng
nghiệp Việt Nam. Có thể hiểu đơn giản GAP là chương trình kiểm tra an tồn
thực phẩm xuyên suốt từ A tới Z của cả quy trình sản xuất, bắt đầu từ khâu
giống, cày cấy, canh tác, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tới khâu thu hoạch, bảo
quản và tồn trữ và kể cả các chi tiết liên quan tới môi trường. Một số quốc gia
Asean như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia hiện đã biên soạn quy trình
GAP cho lĩnh vực sản xuất trái cây của riêng mình nhưng các quy trình này vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của các quốc gia nhập khẩu thuộc vùng ơn đới và có
thị hiếu cũng như văn hóa ẩm thực khác với khu vực Asean. Do vậy mà Asean

14


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

đã u cầu Chính phủ Úc biên soạn quy trình GAP cho các nước Asean, hay còn
gọi là Asean GAP được cơng bố vào tháng 11 năm ngối, trở thành quy trình

GAP chính thức cho các thành viên Asean, trong đó có Việt Nam . Mặc dù ở Việt
Nam hiện nay đã có một số chương trình, dự án được nước ngồi tài trợ để thực
hiện quy trình GAP như “GAP cho cây thanh long” chẳng hạn, nhưng đó là
những chương trình nhỏ lẻ cho từng nơng sản riêng biệt mà chưa có một quy
trình GAP có quy mơ tồn ngành nông nghiệp được biên soạn.
2.3. Các doanh nghiệp xuất khẩu trái cây Việt Nam có sự thua thiệt khi khơng có

thương hiệu:
Những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu nói chung và hàng trái cây nói riêng
được thị trường thế giới ngày càng đánh giá cao về chất lượng.Tuy nhiên, trên
thị trường quốc tế, hầu như người tiêu dùng chưa có khái niệm hàng hóa mang
thương hiệu Việt Nam. Người trực tiếp sản xuất kinh doanh nông sản, trái cây
nước ta phải chịu bán giá thấp, trong khi người tiêu dùng lại phải chịu giá cao.
Nước ta có chủng loại trái cây rất phong phú, có chất lượng cao và hương vị đặc
biệt: thanh long, dừa, chuối, mãng cầu, nho, ổi, cheri, vú sữa, hồng, mít, chơm
chơm, bưởi… nhưng chưa xuất khẩu được bằng con đường chính ngạch và vì
vậy khơng có thương hiệu riêng cho từng chủng loại trái cây trên thị trường thế
giới (trừ duy nhất thương hiệu bưởi Năm Roi do Cty Hoàng Gia của Vĩnh Long
đăng ký) nên các quốc gia lân cận đã chiếm ưu thế một số loại trái cây mà nguồn
cung ứng của nước ta rất dồi dào. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu rau, hoa,
quả không gắn được thương hiệu của doanh nghiệp vào sản phẩm. Khơng có
thương hiệu riêng cũng khiến rau quả Việt Nam không tạo được chỗ đứng trên
thị trường. Vì vậy, dù đã có mặt ở thị trường 50 nước nhưng kim ngạch xuất

15


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

khẩu rau quả của chúng ta không được như mong đợi mà là sự trồi sụt thất

thường theo diễn biến thị trường.
III.Một số kiến nghị nhằm đẩy mạnh quản trị chất lượng trong các doanh
nghiệp xuất khẩu trái cây:
1. Liên kết sản xuất trái cây xuất khẩu
Theo Tổ chức lương nông LHQ (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế
giới tăng bình quân 3,6%/ năm, nhưng mức cung chỉ tăng 2,8%/ năm. Điều này
cho thấy thị trường xuất khẩu rau quả có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, trong
nhiều năm qua thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã giảm mạnh. Nếu
năm 2001, xuất khẩu đến 42 nước và vùng lãnh thổ, thì năm 2004, chỉ cịn lại 39
và năm 2005 cịn lại 36. Có nhiều ngun nhân của sự suy giảm này, trong đó
chủ yếu vẫn là do sản xuất manh mún, chất lượng, quy cách không đồng nhất, số
lượng khơng tập trung, giá cao. Cịn một nguyên nhân mà các nước nhập khẩu
trái cây luôn đề cập đến là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật luôn vượt mức cho
phép chiếm tỷ trọng lớn. Để ngành rau - quả nước nhà nâng cao năng lực cạnh
tranh trong xu thế hội nhập, ngày 18/11/2004, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn đã ra Quyết định số 4146 QĐ/BNN-TCCB về việc thành lập Ban chỉ
đạo Dự án liên kết sản xuất, tiêu thụ trái cây an toàn khu vực sông Tiền, nhằm
sản xuất và kinh doanh trái cây được xác nhận theo qui trình GAP thống nhất.
Liên kết GAP (Good Agricultural Practices) sông Tiền gồm 6 tỉnh thuộc khu vực
sông Tiền: Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và Tp. HCM.
Liên kết GAP ra đời để liên kết giữa sản xuất và kinh doanh trái cây để tạo ra sản
phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong cũng như ngoài
nước và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Sáu tỉnh này được Liên kết
GAP sông Tiền chọn đưa vào làm mơ hinh liên kết thí điểm đầu tiên của Việt

16


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688


Nam do có thế mạnh về diện tích vườn cây ăn trái (CAT), chiếm 2/3 tổng diện
tích CAT của cả vùng ĐBSCL. Đất đai mầu mỡ, giao thông thuận tiện, có Trung
tâm thương mại trái cây quốc gia Hồ Khánh -Tiền Giang, gần cảng và sân bay
quốc tế, gần Tp.HCM - trung tâm thương mại, giao dịch và là khu vực nối giữa
miền Tây và miền Đơng Nam Bộ, có Viện nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam, có
nhiều giống cây ăn trái đặc sản có thế mạnh cạnh tranh trên thị trường trong
nước, xuất khẩu và chế biến, đồng thời là trung tâm sản xuất và cung cấp giống
cây ăn trái trên toàn quốc. Mục tiêu đề ra là GAP phải tạo được mối liên kết bền
vững trong nguyên tắc tự nguyện chịu sự chỉ đạo của Ban điều hành giữa 4 nhà:
nhà sản xuất cây ăn trái gồm có nhà vườn, hợp tác xã, nơng trường, doanh
nghiệp, nhà kinh doanh trái cây: thu mua, đóng gói, bảo quản, xuất nhập khẩu,
vận chuyển, ngân hàng, hợp tác xã tiêu thụ, cơ quan khoa học ngành nông
nghiệp và đại diện nhà nước ngành nông nghiệp. Đã từ nhiều năm nay nhà vườn
ở ĐBSCL nhận thức được tầm quan trọng của sự liên kết để tạo ra sản phẩm chất
lượng cao, giá thành hạ là con đường duy nhất để tồn tại trong nền kinh tế hội
nhập, trước sự cạnh tranh hết sức gây gắt về chất lượng và giá cả của thị trường
trái cây trong khu vực và thế giới. Vì vậy Liên kết GAP ra đời đã nhanh chóng
tạo được mối liên kết vững giữa 4 nhà, thực hiện đầy đủ các chức năng để cùng
nhau xây dựng và thực hiện qui trình sản xuất, hệ thống xác nhận chất lượng
thống nhất để sản xuất trái cây chất lượng cao cho thị trường trong nước và xuất
khẩu theo tiêu chuẩn EU (EUREGAP). Để mối liên kết bền vững, GAP gắn các
thành viên với nhau bởi nhiệm vụ của họ. Nhà sản xuất: tiếp nhận kỹ thuật mới,
sáng tạo và đi đầu trong sản xuất sản phẩm chất lượng cao và an toàn theo yêu
cầu thị trường. Nhà kinh doanh: cung cấp yêu cầu của khách hàng cho nhà sản
xuất, nhà khoa học, nhà nước để sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu khách hàng,

17


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688


góp phần cải tiến, nâng cao giá trị sản phẩm, chủ động sáng tạo phát triển và mở
rộng thị trường. Nhà nước có trách nhiệm đề ra chính sách thích hợp hỗ trợ kinh
tế tập thể, tổ chức liên kết tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn đủ sức cạnh
tranh. Nhà khoa học: cung cấp kỹ năng, hướng dẫn nghiên cứu & phát triển và
hỗ trợ huấn luyện, đào tạo, góp phần phát triển nền nơng nghiệp bền vững. Với
phương châm mọi thành viên trong Liên kết đều hiểu, tham gia thực hiện và tin
tưởng lẫn nhau dưới sự lãnh đạo của ban điều hành, chiến lược thực hiện sản
xuất sản phẩm chất lượng cao mà GAP đề ra có 4 u cầu: Một là, tiêu chuẩn
hố GAP cho trái cây vùng sơng Tiền. Hai là, phải có sự phối hợp giữa các tỉnh
thành viên và các cơ quan chức năng, tổ chức huấn luyện và hội thảo thực hiện
GAP. Ba là, soạn tài liệu dễ hiểu để huấn luyện tại vườn. Bốn là, xây dựng hệ
thống ghi chép, kiểm tra chất lượng và đánh giá cuối cùng để cấp mã hiệu GAP
của Liên kết.

18


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

2. Xây dựng thương hiệu cho trái cây Việt Nam:
Với nhiều đặc sản nổi tiếng, mỗi năm, ngành nông nghiệp Đồng bằng
sơng Cửu Long (ĐBSCL) đóng góp hơn 1/2 sản lượng lương thực quốc gia, đưa
Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Xuất khẩu nơng
sản đã trở thành nhân tố tăng trưởng chính của các tỉnh trong khu vực. Tổng kim
ngạch xuất khẩu nơng sản tồn vùng hàng năm đạt bình qn 1,5 tỷ USD, chiếm
30 – 45% kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước. Tuy nhiên, sản xuất nông
sản của ĐBSCL vẫn chưa theo kịp xu hướng tiêu dùng của thị trường trong nước
và thế giới. Chúng ta chưa có thương hiệu mạnh tương xứng với thế mạnh sản
xuất. Công nghiệp thu hoạch, bảo quản, chế biến chưa theo kịp tốc độ phát triển

nông nghiệp của khu vực, thiếu hệ thống đồng bộ, thông suốt từ khâu sản xuất,
thu mua đến khâu chế biến, bảo quản, tiêu thụ. Công nghệ và thiết bị cịn lạc
hậu, quy mơ nhỏ, phân tán, chủ yếu là chế biến thô, nên chỉ tạo ra giá trị tăng
thêm nhỏ, lợi nhuận thấp. Chất lượng nông sản (kể cả nơng sản ngun liệu) cịn
nhiều hạn chế, giá thành cao, mẫu mã đơn điệu, độ đồng đều thấp, chưa theo sát
nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Công tác quản lý chất lượng hàng nông sản
chưa thực hiện tốt, gây tâm lý bất an cho người tiêu dùng đối với một số nông
sản sản xuất trong nước. Quá trình đổi mới các hình thức tổ chức trong sản xuất,
tiêu thụ trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển biến chậm, chưa hình thành được
hệ thống phân phối, kênh tiêu thụ đáp ứng mục tiêu sản xuất nông sản hàng hóa
hiện đại và yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Từ khi thành lập “Liên kết sản
xuất, tiêu thụ trái cây an tồn khu vực Sơng Tiền”, với nhiệm vụ trước mắt là tập
trung củng cố các hợp tác xã trái cây, hỗ trợ kỹ thuật sản xuất trái cây an toàn,
biện pháp nâng cao chất lượng chế biến và bảo quản sau thu hoạch, hạ giá thành
sản phẩm, xây dựng thương hiệu, tìm thị trường xuất khẩu… đã phần nào tháo

19


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

gỡ khó khăn cho đặc sản vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, trên thực tế, liên kết “4 nhà”
chỉ mới vừa khởi đầu, mà vấn đề xây dựng thương hiệu là một bất cập làm đau
đầu nhiều giới khoa học, chuyên môn từ nhiều năm qua, đến nay, vẫn đang trong
giai đoạn tháo gỡ. Theo Hiệp hội Trái cây Việt Nam, trái cây ở ĐBSCL có
thương hiệu chỉ đếm trên đầu ngón tay đã khiến cho trái cây Việt Nam chưa
đứng vững trên thị trường nội địa, cũng như xuất khẩu, trong khi trái cây Thái
Lan tràn ngập thị trường, với giá rất cạnh tranh. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu
trái cây giảm mạnh, chỉ còn hơn 178 triệu USD so với mức 330 triệu USD xuất
trong năm 2001 và dự báo tiếp tục giảm trong năm 2005. Để có định hướng mới,

đồng thời thực hiện tốt mục tiêu đến năm 2010 (diện tích rau quả 6 tỉnh đạt
283.790 ha, tập trung vào 11 loại trái cây thế mạnh), trước mắt, nên tập trung
vào khâu nguyên liệu và xây dựng thương hiệu. ĐBSCL có nhiều loại trái cây
cần xây dựng thương hiệu. Thế nhưng, trước mắt chỉ có trái thanh long là đủ
điều kiện về chất lượng, an tồn và có vùng ngun liệu lớn. Cịn dứa thì có
vùng ngun liệu lớn, nhưng chất lượng khơng đồng đều. Một số loại có thương
hiệu như xồi cát Hịa Lộc, nhưng diện tích rất ít (chưa tới 1.000 ha). Phải thấy
rằng, chỗ dựa của thương hiệu là vùng nguyên liệu đã khó, nhưng bảo vệ thương
hiệu càng khó hơn
Một đề xuất gần đây cho rằng Việt Nam cần xác định hai loại hình sản
phẩm có thể xây dựng hai loại thương hiệu: loại “nổi tiếng” mang thương hiệu
quốc gia, loại kém nổi tiếng hơn mang thương hiệu hiệp hội… Hơn thế nữa, nhà
nước cần có chính sách khuyến khích cũng như hỗ trợ hội viên Vinafruit và các
doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp đăng ký bảo hộ thương hiệu và mở
Website quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước, hỗ trợ các doanh nghiệp có sản
phẩm độc đáo và đủ sức cạnh tranh đăng ký bảo hộ thương hiệu ở các thị trường

20



×