TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀ GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY Ở TỈNH SÓC TRĂNG
Chuyên ngành Sƣ Phạm Giáo Dục Công Dân
Mã nghành: 52140204
Giáo viên hƣớng dẫn
Sinh viên thực hiện:
ThS. GVC. Nguyễn Đại Thắng
Nguyễn Thị Bích Hẹn
MSSV: 6106612
CầnThơ, tháng 11 năm
2013
Mục lục
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………………… 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài……………………………….. 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………. 3
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………... 3
5. Kết cấu của đề tài…………………………………………………………... … 4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới…………… 5
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống………………………………………………. 5
1.1.2. Giá trị đạo đức mới……………………………………………………….. 12
1.2. Ảnh hƣởng của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với đạo đức cho
thanh niên hiện nay………………………………………………………………. 18
1.3. Vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống và giá trị đạo đức mới cho thanh niên hiện nay…………………. 23
CHƢƠNG 2. KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN TRONG THỜI
KÌ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY Ở TỈNH SÓC TRĂNG
2.1. Giáo dục đạo đức truyền thống của dân tộc cho thanh niên trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay………………………………………… 27
2.1.1. Tính tất yếu và sự cần thiết phải giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh
niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay………………………… 27
2.1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống cần giáo dục cho thanh niên trong thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay…………………………………………..29
2.2. Một số vấn đề giáo dục đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay………………………………………………...38
2.2.1. Thang giá trị đạo đức truyền thống và sự biến đổi của thang giá trị đạo đức
hiện nay……………………………………………………………………………...38
2.2.2. Một số chuẩn mực cơ bản của đạo đức mới cần giáo dục trong lối sống
thanh niên hiện nay………………………………………………………………….42
2.2.3. Đạo đức mới là sản phẩm được hình thành một cách tự giác (là kết quả của
giáo dục và tự giáo dục)……………………………………………………………..50
2.3. Thực trạng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống và giáo dục giá
trị đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay ở tỉnh Sóc Trăng………………………………………………………………52
2.3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, truyền thống lịch sử, văn hóa và kinh tế - xã
hội ở tỉnh Sóc Trăng………………………………………………………………...52
2.3.1. Thực trạng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức
mới cho thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay………….57
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀ
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN TRONG THỜI KÌ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY Ở TỈNH SÓC TRĂNG
3.1. Phƣơng hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống và giá trị đạo đức mới cho thanh niên hiện nay trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay ở Sóc Trăng…………………………………………..66
3.1.1. Quán triệt những quan điểm của Đảng, đổi mới nhận thức đối với việc
giáo dục đạo đức truyền thống và đạo đức mới cho thanh niên hiện nay…………...66
3.1.2. Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống kết hợp với tiếp thu các
giá trị đạo đức nhân loại trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên………...69
3.1.3. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống và đạo
đức mới cho thanh niên……………………………………………………………...72
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống và giá trị đạo đức mới cho thanh niên hiện nay trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở Sóc Trăng………………………………….75
3.2.1. Phát huy tính tự giác và tích cực chủ động học tập, rèn luyện giá trị đạo
đức của thanh niên…………………………………………………………………..75
3.2.2. Tạo môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội lành mạnh cho thanh niên…..77
3.2.3. Kết hợp giữa giáo dục gia đình, nhà trường, đoàn thể với xã hội……….81
3.2.4. Đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức giáo dục đạo đức cho thanh
niên…………………………………………………………………………………..86
3.2.5. Tổ chức các phong trào, hoạt động phù hợp gắn liền với từng đối
tượng……………………………………………………………………………… 88
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua biết bao sự kiện biến
động lớn lao. Sinh sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt lại luôn phải chống lại
những kẻ ngoại xâm hung bạo và lớn mạnh, muốn tồn tại và phát triển, dân tộc ta
không còn cách nào khác là phải khơi dậy và phát huy sức mạnh nội lực của chính
mình. Trong những thử thách gay go, ác liệt của lịch sử, những giá trị đạo đức truyền
thống vừa là kết quả, vừa là động lực của quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài và
quật cường của dân tộc ta chống lại thiên tai và địch hoạ. Những giá trị ấy đã làm
nên cốt cách, tinh thần và sức mạnh Việt Nam được bạn bè thế giới khâm phục.
Những giá trị đạo đức truyền thống tuy mang tính ổn định, bền vững nhưng không
phải là nhất thành, bất biến mà cũng vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến
đổi của lịch sử. Khi lịch sử bước sang một thời kỳ mới thì những giá trị đạo đức
truyền thống cũ lại được thẩm định, chắt lọc và đổi mới cho phù hợp. Đồng thời,
những giá trị mới dần được hình thành làm cho hệ thống giá trị truyền thống của dân
tộc ngày càng phong phú.
Công nghiệp hóa, hiện đại hoá là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông
nghiệp trở thành xã hội công nghiệp, đồng thời đó cũng là cuộc cải biến cách mạng
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện
thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết, và một trong
những tiền đề cần thiết nhất, chính là nguồn nhân lực khẳng định vai trò quan trọng
của nguồn nhân lực. Thanh niên là một bộ phận rất quan trọng của xã hội, giữ vị trí
và vai trò hàng đầu trong dựng nước và giữ nước. Bởi họ là những chủ nhân tương
lại của đất nước, họ là đội ngũ tri thức trẻ có khả năng tiếp thu nhanh nhạy nhất,
những tiến bộ của thời đại, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ.
Sóc Trăng là một vùng đất có số dân cư tương đối lớn, trong đó thanh niên
chiếm số lượng đông, đây là lực lượng nòng cốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội cho
tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói chung. Theo suốt chiều dài của lịch sử và truyền
thống văn hóa dân tộc thì vùng đất Sóc Trăng là vùng với những tên người, tên đất
lẫy lừng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
lớp lớp các thế hệ thanh niên Sóc Trăng đã góp phần đấu tranh giành độc lập, thống
nhất Tổ quốc và xây dựng quê hương Sóc Trăng anh hùng. Trong thời kì đổi mới, thế
1
hệ thanh niên Sóc Trăng đã có những cống hiến to lớn với những tấm gương anh
hùng trong chiến đấu, học tập, lao động sản xuất. Điều đó đã có tác dụng lôi cuốn,
giáo dục thanh niên nói chung và thanh niên trong tỉnh nói riêng. Trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, sự chuyển biến mạnh mẽ của điều kiện kinh tế - xã hội đã và đang
ảnh hưởng trực tiếp đến lớp người trẻ tuổi nói chung và thanh niên Sóc Trăng nói
riêng. Và thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất
lớn vào thế hệ trẻ nói chung, thanh niên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ
gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước,
chúng ta đã chuẩn bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó
là "truyền thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát
triển mà không bị "mất gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều
đó đã và đang giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung và thanh niên Sóc Trăng nói
riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc
nghiệt của cuộc sống hiện đại. Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc và giá trị đạo đức mới cho thanh niên ở Sóc Trăng phù hợp với nhu
cầu của thời đại và gắn với những nét đặc thù của địa phương là vấn đề hết sức cấp
bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn vấn đề:
“Giáo giục giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới cho thanh niên trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở tỉnh Sóc Trăng” nhằm góp phần tìm
ra nguyên nhân, phương hướng và những giải pháp nhằm khắc phục hiện trạng trên
trong xã hội.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Mục đích của đề tài là làm rõ thực trạng việc kế thừa và phát huy giá trị đạo
đức truyền thống và việc định hướng xây dựng đạo đức mới trong thanh niên dưới
tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, từ đó đề xuất một số
phương hướng, giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống cũng như việc giáo dục giá trị đạo đức mới cho thanh niên hiện nay.
- Từ mục đích trên, nhiệm vụ chính của đề tài là:
+ Vạch rõ vai trò của đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới trong việc
giáo dục thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
2
+ Vạch rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
+ Làm nổi bật lên thực trạng và sự cần thiết phải kế thừa phát huy giá trị đạo
đức truyền thống, đẩy mạnh giáo dục đạo đức mới cho thanh niên trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Sóc Trăng.
+ Đề ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu trong việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay ở Sóc Trăng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống và giá trị
đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở
tỉnh Sóc Trăng.
Tập trung đi sâu và làm rõ một số nội dung quan trọng của đề tài nghiên cứu:
+ Những quan điểm của các nhà triết học Mác – Lênin, quan điểm của Đảng,
nhà nước, chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức truyền thống, đạo đức mới và việc giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống, giá trị đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
+ Làm rõ vai trò của đạo đức truyền thống và đạo đức mới đối với việc hình
thành nhân cách của thanh niên cũng như vai trò, trách nhiệm của thanh niên trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới
cho thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở tỉnh Sóc
Trăng.
+ Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo đạo đức truyền
thống và đạo đức mới cho thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay ở tỉnh Sóc Trăng.
- Phạm vi nghiên cứu: Đạo đức và vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
và giá trị đạo đức mới cho thanh niên ở Sóc Trăng trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: luận văn này dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức mới. Ngoài
3
ra, có tham khảo, kế thừa các một số bài viết được viết trong sách hoặc được đăng
lên tạp chí để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và
tổng hợp, quy nạp và diễn dịch nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt
ra
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia
làm 3 chương, 8 tiết gồm 92 trang.
4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm giá trị đạo đức truyền thống và đạo đức mới.
1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống.
Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, dù có ý thức
hay không có thì trong quá trình tồn tại và phát triển cũng hình thành truyền thống
đạo đức. Để hiểu được đạo đức truyền thống là gì thì trước tiên phải hiểu được
những nét cơ bản về đạo đức. Với tư cách là một bộ phận tri thức triết học, những tư
tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26 thế kỉ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hi Lạp cổ đại.
Ở phương Đông, các học thuyết đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất
hiện sớm, được thể hiện trong quan niệm về đạo đức của họ. Đạo đức là một trong
những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là
con đường, đường đi; về sao khái niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con
đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim vân đời nhà Chu và từ đó trở đi nó
được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức
tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý.
Như vậy, có thể nói, đạo đức - theo quan niệm của người Trung Quốc cổ đại - chính
là những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tư
tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469 - 399 trước công Nguyên) là người
đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Arixtốt (384 - 322 trước công
Nguyên) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đặc biệt quan tâm
đến phẩm hạnh con người nội dung của phẩm hạnh chính là ở chổ biết định hướng
đúng biết làm việc thiện. Ông nói: chúng ta bàn về đạo đức không phải chỉ biết đức
hạnh là gì, mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Những nhà triết học duy vật trước Mác, tiêu biểu là Phoiơbắc, đã nhìn thấy đạo
đức trong quan hệ giữa con người với con người. Nhưng, với ông, con người chỉ là
một thực thể trừu tượng, bất biến; con người nhân bản, nghĩa là con người ở bên
ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
5
Những người theo quan điểm Đácuyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy
vật bằng việc cho rằng, những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất với
bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức - về thực chất - cũng chỉ là năng
lực được đem lại từ bên ngoài con người, ngoài xã hội. Như vậy, nét chung của lý
thuyết này là coi đạo đức không phải là cái phản ánh cơ sở xã hội hiện thực khách
quan.
Khác với tất cả các quan niệm trước đó, C. Mác và Ph.Ănghen đã chứng minh
rằng: “trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc, bao gồm cả triết học và lý
luận học, con người đã hoạt động, tức là sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho
đời sống”. Trong sự sản xuất, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không
tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và hình thái
ý thức xã hội nhất định, tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[2, tr.14-15]. Tư tưởng
chính trị và pháp luật, đạo đức, tôn giáo, triết học… đều là những hình thái ý thức xã
hội riêng biệt, hính thái trong lịch sử và phản ánh các lĩnh vực khác nhau của tồn tại
xã hội; chúng có sự khác nhau tùy theo phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác
dụng riêng biệt đối với đời sống xã hội. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong các hình thái
ý thức xã hội của một thời đại điều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, từ tồn tại xã hội của con người trong thời đại đó, ý thức xã hội của con người là
sự phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các quan điểm đạo đức chẳng qua là sản
phẩm của chế độ kinh tế mà thôi.
Sự đánh giá hành vi của con người theo khuôn phép và quy tắc đạo đức biểu
hiện thành những khái niệm thiện ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Khái
niệm về thiện và ác, khuôn phép và quy tắc hành vi của con người thay đổi từ thế kỉ
này sang thế kỉ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác và trong xã hội có giai cấp thì
bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Khuôn phép và quy tắc
đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi
của mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ quốc,
nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch…) và đối với người khác. Những chuẩn
mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp,
dân tộc thừa nhận. Ở đây, quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã
6
hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Đã là một thành
viên của xã hội, con người phải chịu một sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức,
một sự đánh giá đối với hành vi của mình và trong những hoàn cảnh nào đó chịu sự
khiển trách của lương tâm… Cá nhân phải có trách nhiệm chuyển những đòi hỏi của
xã hội và những thể hiện của chúng thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt
động của mình. Biểu hiện của sự chuyển hóa này là hành vi của cá nhân tuân thủ
những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn mực cho phù hợp với những đòi
hỏi của xã hội…. Do vậy, sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện - xét về bản
chất - đạo đức là sự tự lựa chọn của con người.
Đạo đức có những đặc trưng sau:
+ Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người đã
sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi: phong tục, tập quán, tôn giáo,
pháp luật, đạo đức… Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn
phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm thiện và ác,
vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
+ Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị là đối tượng của giá trị học (giá trị
học phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng nên theo
truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội: các giá trị vật chất và tinh thần, các
giá trị sản xuất, tiêu dùng, các giá trị xã hội - chính trị, nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ,
tôn giáo). Đạo đức là hiện tượng xã hội, mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá
rõ rệt.
Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời
sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ
thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống ấy có tính tích
cực, mang tính nhân đạo; ngược lại, hệ thống ấy mang tính tiêu cực, phản động, phản
nhân đạo. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
Triết học Mác - Lênin không phủ nhận tính phổ biến toàn nhân loại của đạo
đức, nhưng khẳng định rằng, trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì không
thể có một nền đạo đức chung thống nhất cho mọi giai cấp. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Con
người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của
mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là
những quan hệ kinh tế, trong đó người ta sản xuất và trao đổi”[3, tr.136]. Vì vậy,
7
trong xã hội có đối kháng giai cấp, tương ứng với mỗi giai cấp nhất định là một hệ
thống đạo đức nhất định biện hộ cho lợi ích của giai cấp đó.
Sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng làm cho đạo đức mất đi tính thống
nhất ban đầu của nó. Truyền thống đạo đức của xã hội nguyên thủy được tiếp tục
trong đạo đức của những người lao động, những người bị bóc lột. Trong giai cấp
thống trị xuất hiện thái độ coi thường lao động và người lao động. Điều đó được
phản ánh vào trong đạo đức học. Các học thuyết đạo đức chính thống - tức là những
học thuyết đạo đức biện hộ cho địa vị, sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị đều cho rằng, những phẩm chất, đức tính như: sự công minh, lòng dũng cảm, tính
hào hiệp… là thuộc về những người ở tầng lớp trên của xã hội, còn những thói xấu
về mặt đạo đức, sự phục tùng… là bản chất của những người ở tầng lớp dưới. Chẳng
hạn, Platôn cho rằng, chỉ có một số ít người ưu tú mới có năng lực đạo đức, còn đại
bộ phận dân chúng không có năng lực đạo đức, chỉ có năng lực đạt đến sự khuất
phục. Khổng Tử khẳng định, người quân tử cầu nghĩa, kẻ tiểu nhân cầu lợi… Trong
xã hội có giai cấp, ngoài những giai cấp đối kháng thường tồn tại những giai cấp và
tầng lớp trung gian: những người bình dân, tiểu tư hữu. Đạo đức của các giai cấp,
tầng lớp này thường đang xen những chuẩn mực của giai cấp thống trị lẫn giai cấp bị
trị. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức chính thống là đạo đức của giai cấp thống trị.
Đạo đức này không chỉ tác động trong giai cấp thống trị, mà còn có những ảnh
hưởng nhất định đến những giai cấp khác. Chẳng hạn, thái độ coi thường lao động,
trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng… vốn là đạo đức của giai cấp phong kiến,
nhưng trong một chừng mực nhất định đã ảnh hưởng tới nhân dân lao động. Ngày
nay, tính dân tộc của văn hóa nói chung của đạo đức nói riêng không chỉ là một thực
tế, mà còn là một thực tế được tự giác xây dựng. Các quốc gia, đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển, rất có ý thức trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của văn hóa
và đạo đức. Nhiều quốc gia đã xây dựng bảng giá trị tinh thần - đạo đức với những
nguyên tắc nền tảng làm cơ sở định hướng giá trị trong hoạt động của cả cộng đồng
cũng như cho từng người dân.
Giá trị, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu nó là cái mà do nó đã làm
cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi
người thừa nhận. Người ta có thể phân chia giá trị thành: giá trị vật chất, giá trị tinh
thần, giá trị riêng, giá trị chung, giá trị xã hội. Như vậy, giá trị đạo đức được xác định
bởi mức độ phù hợp của chúng đối với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Song lợi ích xã
8
hội và yêu cầu của tiến bộ xã hội lại có tính lịch sử, nghĩa là mỗi giai đoạn phát triển
xã hội lại có những yêu cầu về lợi ích và sự tiến bộ của nó, chính vì vậy mà giá trị
đạo đức cũng có tính lịch sử.
Giá trị đạo đức được thể hiện thông qua việc thực hiện các chức năng của đạo
đức. Song, ở giai đoạn nào của sự phát triển xã hội thì đạo đức có những chức năng
cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện
bằng hai hình thức chủ yếu. Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích
cái thiện, cái tốt, lên án, phê phán cái ác, cái xấu. Trong trường hợp này, giá trị đạo
đức phụ thuộc vào sức mạnh và tính đúng đắn của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội
được củng cố và phát triển, được mọi người đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức
mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức. Dân tộc ta có câu ca: "Trăm năm bia đá
thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Quả thật, cái "bia miệng" (dư luận xã
hội) hàng ngàn năm vẫn lưu truyền, nó lâu bền hơn cả sắt đá nó trở thành công cụ lợi
hại trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được
hướng dẫn bởi những học thuyết đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều chỉnh hành vi
đạo đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến bộ xã hội, tạo nên nhưng giá trị đạo đức
đích thực. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo
những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách thức điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo
dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức
vừa tham gia vào hành vi ứng xử, vừa là người phán xét hành vi ứng xử của chính
mình. Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực được
hình thành trong bản thân họ (chuẩn mực này đã tiếp thu chuẩn mực đạo đức xã hội
và do điều kiện sinh sống và các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân chủ thể tạo
thành). Nếu các chuẩn mực đó phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở
thành cơ sở khách quan làm cho hành vi đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã
hội, được dư luận đồng tình ủng hộ. Ngược lại, mỗi khi chuẩn mực cá nhân sai lệch
chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo đức cá nhân không phù hợp với lợi
ích xã hội. Trong trường hợp này, dư luận xã hội sẽ lên án, phê phán.
Thứ hai, chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục được thực hiện thông qua sự
giáo dục của xã hội và sự tự giáo dục của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là quá trình
tuyên truyền những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước
9
đo đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa
hành vi cá nhân với lợi ích xã hội.
Trong quá trình hoạt động sinh sống, mỗi cá nhân không chỉ mưu cầu lợi ích
vật chất, lợi ích tinh thần, mà còn mưu cầu sự tiến bộ của bản thân và đều muốn
được dư luận xã hội ca ngợi, biểu đương. Do đó, những tư tưởng và những chuẩn
mực đạo đức xã hội trở thành mục tiêu, thành những định hướng cho hoạt động cá
nhân của nó. Những hành vi đạo đức có tính chất lặp đi lặp lại, tạo nên các quan hệ
đạo đức tương đối ổn định và nó thường xuyên được duy trì, củng cố bằng dư luận
xã hội sẽ trở thành thói quen, tập quán, truyền thống đạo đức trở thành nhân tố trực
tiếp tác động đến sự hình thành đạo đức của thế hệ người tiếp theo. Như vậy, giá trị
đạo đức trong trường hợp này được hình thành, phát triển ra sao luôn phụ thuộc vào
tính đúng đắn, khoa học của những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức được
tuyên truyền, giáo dục trong xã hội.
Thứ ba, chức năng nhận thức. Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức
xã hội có trở thành các quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay không, điều đó
không chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn, tư tưởng đạo đức, của các chuẩn đạo đức,
vào việc tuyên truyền, giáo dục trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng
tiếp nhận và chuyển hoá nó trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ
thể đạo đức. Thông qua sự lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tư
tưởng, chuẩn mực đạo đức, trong bản thân họ hình thành niềm tin, lý tưởng đạo đức
và các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ.
Hoạt động nhận thức đạo đức cũng bao gồm hai trình độ: tình cảm và tư tưởng
đạo đức, kinh nghiệm và lý luận đạo đức.
Nhận thức đạo đức ở trình độ kinh nghiệm hoặc tình cảm đạo đức gắn liền với
hoạt động thực tiễn, với các quan hệ đạo đức của xã hội và luôn chịu ảnh hưởng của
dư luận, tập quán, truyền thống đạo đức. Quá trình này hình thành nên ở chủ thể đạo
đức những hình ảnh, những “thần tượng” được coi là chuẩn mực trực tiếp cho việc
đánh giá, điều chỉnh hành vi đạo đức của họ. Chẳng hạn, một đứa trẻ thường thông
qua việc quan sát những hành vi ứng xử của bố mẹ nó với bạn bè, với những người
thân trong gia đình, với công việc... nó cũng sẽ làm như bố mẹ đã làm trước đây.
Nhận thức đạo đức ở trình độ tư tưởng hoặc lý luận là nhận thức có tính nguyên
tắc được chỉ đạo bới những lợi ích căn bản của giai cấp, của xã hội.
10
Thông qua quá trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, chủ thể đạo đức
phân tích, đánh giá, lựa chọn các tư tưởng đạo đức và các chuẩn mực đạo đức trong
xã hội để trên cơ sở đó, chứng minh, lý giải các tư tưởng đạo đức và các chuẩn mực
đạo đức được hình thành trong bản thân nó là đúng đắn và hợp lý, để tiếp thu cái
đúng, cái hợp lý và phê phán những sai trái trong các tư tưởng và chuẩn mực đạo đức
khác.
Như vậy, có thể nói, giá trị đạo đức được hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ
thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp nhận những tư tưởng và các
chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội.
Truyền thống là những giá trị tinh thần của con người được hình thành trong
quá trình hoạt động, quan hệ ứng xử và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
được mọi người nhận thức, thừa nhận, tự giác thực hiện, và tự điều chỉnh nhờ dư
luận của cộng đồng, xã hội. Truyền thống thì có cái tốt cái xấu; nhưng khi chúng ta
nói “giá trị truyền thống” thì ở đây chỉ có cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những cái gì
tốt mới được gọi là giá trị; thậm chí, phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều
tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và
hướng dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống.
Giá trị đạo đức truyền thống được tồn tại thông qua các phong tục tập quán, đạo
đức và được biểu hiện tập chung nhất ở nhân cách. Chúng có tính ổn định cao.
Mặc dù truyền thống là những gì ổn định, nhưng với tư cách là yếu tố thuộc
kiến trúc thượng tầng, khi điều kiện kinh tế xã hội biến đổi, thì nó có những biến đổi
nhất định, trong đó có sự biến đổi của giá trị đạo đức truyền thống. Tuy vậy, các giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình vận động của mình, chúng vẫn giữ được “lõi
bất biến”. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa
được cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc.
Cho nên giá trị truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất của cốt lõi
văn hóa dân tộc tạo nên sức mạnh tiềm tàng và bền vững.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không phải là những gì sẵn có khi dân
tộc đó xuất hiện, mà do các thế hệ người nói tiếp nhau tạo thành. Tuy nhiên, mỗi dân
tộc cũng không thể tự lựa chọn cho mình những giá trị truyền thống như mong
muốn, mà những giá trị truyền thống được hình thành dựa trên cơ sở những điều kiện
kinh tế, lịch sử của mình.
11
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng không phải là giá trị vĩnh cửu, nó
có lõi bất biến đồng thời có phần biến động để có thể bổ xung, đổi mới ngày càng
phong phú và phù hợp với đặc trưng tính chất của thời đại.
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc được cô đúc trong quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển, nó gắn liền với đời sống, với những thăng trầm của dân
tộc. Toàn bộ giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc
đáo nhất, rõ nét nhất bản chất của dân tộc. Đồng thời nó cũng chính là sức mạnh nội
sinh để một dân tộc, một đất nước phồn vinh và phát triển.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việc Nam, giá trị đạo đức truyến thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.
Chính vì vậy, khi nói đến giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến những
phẩm chất tốt đẹp, quý báo đã được hình thành và bảo lưu trong chiều dài lịch sử của
dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, được cô đúc, được thử
thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử,
nó chứa đựng một tìm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có
của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo
đức của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng
nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo nên
một bản chất hết sức độc đáo.
1.1.2. Giá trị đạo đức mới
Cho đến nay, xã hội loài người đã phát triển như một quá trình lịch sử - tự
nhiên, từ thấp đến cao qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Phù hợp với mổi
hình thái kinh tế - xã hội cụ thể có những quan điểm đạo đức tương ứng như đạo đức
của cộng sản nguyên thủy, đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức xã hội
phong kiến, đạo đức của xã hội tư bản và đạo đức của cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn đầu là đạo đức xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trả lời các câu hỏi: Có đạo đức cộng sản hay không? Có luân lý cộng sản hay
không?, V. I. Lênin khẳng định rằng: “Tất nhiên là có. Người ta thường bảo chúng ta
không có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội những người cộng sản
chúng ta là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách lộn sòng các khái niệm làm công
nhân và nông dân bị lầm lạc”[32, tr.366]
V.I. Lênin nêu rõ rằng: đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu
tranh giai cấp vô sản; đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh
12
giai cấp của giai cấp vô sản mà ra. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu
tranh ấy, là đạo đức đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lộc, chống
mọi chế độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá nhân thành quả lao
động do toàn xã hội sáng tạo ra. Ruộng đất đối với chúng ta là tài sản chung” [32,
tr.369]. Vì vậy, “đối với một người cộng sản, tất cả đạo đức là nằm trong cái kỉ luật
đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu tranh tự giác của quần chúng chống bọn bóc
lột…. Đạo đức giúp xã hội loài người tiến lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao
động”[32, tr.371].
Đồng thời với việc khẳng định đạo đức mới, chủ nghĩa Mác – Lênin phủ định
học thuyết đạo đức nhất thành bất biến, phủ định tính chất tiên thiên, bẩm sinh của
đạo đức, phủ định khả năng tồn tại của một nền đạo đức chung, thống nhất trong xã
hội có giai cấp đối kháng. Bác bỏ cái gọi là “đạo đức do một bề trên nào đó xác lập ở
ngoài xã hội loài người”, V. I. Lênin chỉ ra rằng: “Tất cả những thứ đạo đức, xuất
phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài các giai cấp, chúng ta điều bác
bỏ. Chúng ta nói rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi sọ công nhân và nông dân để
mưu lợi ích riêng cho bọn địa chủ và bọn tư sản”[32, tr.367].
Chủ nghĩa Mác – Lênin thừa nhận tính giai cấp của đạo đức, khẳng định những
chuẩn mực của đạo đức phát sinh và phát triển từ những điều kiện sinh hoạt vật chất
và đời sống vật chất biến đổi thì những chuẩn mực của đạo đức cũng biến đổi theo.
Chủ nghĩa Mác – Lênin một mặt thừa nhận tính biến đổi lịch sử của đạo đức, mặc
khác chứng minh rằng đạo đức của chủ nghĩa xã hội không xây dựng trên mảnh đất
trống không mà nó phải kế thừa những thành tựu của đạo đức của các xã hội trước và
khắc phục những hạn chế đạo đức của các xã hội đó. Chính nền đạo đức xã hội chủ
nghĩa đã kế thừa, lĩnh hội và phát triển được tất cả mọi nét đặc sắc của đạo đức,
những gì ưu tú đã được sáng tạo trong lịch sử hàng ngàn năm của những người lao
động. Đạo đức mới bao hàm những chuẩn mực đạo đức cơ bản, là sự tổng kết lịch sử
phát triển đạo đức của những người lao động. Vì vậy, đạo đức mới là đỉnh cao của
đạo đức xã hội.
C. Mác và Ph. Ăngghen, trong lý thuyết về chủ nghĩa xã hội, đã giải thích một
cách khoa học về mục tiêu đạo đức của chủ nghĩa xã hội là tạo tiền đề hiện thực để
con người phát triển hoài hòa và phong phú. Xã hội thực sự có đạo đức là kết quả
hợp quy luật của lịch sử vừa kế thừa, vừa phát triển, vừa khắc phục những hạn hẹp,
phiến diện đạo đức của các xã hội trước đó. Vì thế, nhiệm vụ lịch sử đầu tiên trong
13
mục tiêu đạo đức của chủ nghĩa xã hội là khắc phục những hạn chế về đạo đức của
các xã hội trước đây.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là đưa đông đảo quần chúng nhân dân lao động
tham gia vào đời sống chính trị - xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần phải
thay đổi các quan hệ đạo đức, các thành kiến đạo đức, các lề thói lạc hậu. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn
nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến
một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh
phúc”[22, tr.493-494].
Như vậy, mục tiêu xây dựng nền đạo đức mới của chủ nghĩa xã hội là phải mở
rộng, tiếp tục hoàn thành ba cuộc giải phóng: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội đã được tiến hành và phát động từ đầu của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Việc cải tạo lại các quan hệ đạo đức cũ phải gắn chặt với ba cuộc giải
phóng đó. Việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống đã tồn tại hàng
ngàn năm trong đời sống mỗi dân tộc cho phù hợp với thực tiễn và thời đại là yêu
cầu cơ bản và cấp bách.
Khái niệm đạo đức cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử xã hội, nó đối lập
với đạo đức của giai cấp tư sản và giai cấp bóc lộc khác. Đạo đức cộng sản cũng
khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ. Theo V. I. Lênin, xét về bản chất,
đạo đức mới “là những gì góp phần xóa bỏ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần
đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra
xã hội mới của những người cộng sản”[32, tr.369]. Đạo đức mới là những chuẩn mực
của những người cộng sản về chân, thiện, mỹ nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của
những người cộng sản với nhau, với tổ chức và với nhân dân lao động.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về đạo đức nói
riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà lý luận lỗi
lạc, là tấm gương sáng ngời soi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngay từ khi bước vào con đường cách mạng, Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng
và sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Theo Người,
“đạo đức cách mạng không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ
14
đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người”[24, tr.252]. Đạo đức đó được hình thành và phát triển cùng với quá
trình vận động, phát triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Đồng thời, nó kế thừa
và phát triển những tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại. Người
đã xác định đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với nhân dân”, “ra sức phấn
đấu mục tiêu của Đảng”, “quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch”, “đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết”, luôn hòa mình với quần chúng.
Đạo đức mới được thể hiện ở tinh thần chiến đấu dũng cảm chống kẻ thù
chung, trong lao động sáng tạo xây dựng đất nước, trong tình hữu ái của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, trong chủ nghĩa quốc tế vô sản và trong sự nghiệp
xây dựng những con người kiểu mới phát triển toàn diện.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh khởi xướng và cùng Đảng
ta xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng và cho nhân dân ta, xét về tính giai
cấp và mục đích, nó thống nhất với đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản mà C.Mác và
Ph. Ăngghen là những người đặt nền móng và Lênin là người kế thừa, phát triển.
Đạo đức mới là đạo đức gắn liền với lợi ích của giai cấp công nhân nói riêng và của
quần chúng nhân dân lao động nói chung. Đó là đạo đức chiến đấu vì sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, vì sự tiến bộ của nhân loại, vì tự do, hạnh phúc của mỗi người,
mục đích cuối cùng là góp phần giải phóng triệt để con người, trước hết là giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi áp bức bất công của xã hội.
Do vậy, đạo đức mới là đạo đức trong hành động cải tạo xã hội, khẳng định
phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình.
Đạo đức mới ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của đạo đức cộng sản chủ
nghĩa, tính đặc thù của nó được quy định bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam, truyền
thống đạo đức dân tộc và dấu ấn sắc thái Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh coi đạo đức mới, đạo đức cách mạng là “gốc”, là “nền tảng” của
người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”[20, tr.252-153]. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức cách mạng là cái phải được
chuyển hóa thành phẩm chất nhân cách của người cách mạng, và yếu tố cốt lõi của
15
nhân cách, và chỉ như vậy, đạo đức cách mạng mới thể hiện vai trò cải tạo xã hội
thông qua các hoạt động con người - chủ thể cách mạng.
Sự khác biệt của đạo đức mới, so với đạo đức cũ không phải ở hình thức ngôn
ngữ mà là ở nội dung của nó. Nội dung của đạo đức mới thể hiện: chủ nghĩa tập thể,
lao động cần cù, tự giác, sáng tạo, ý thức học tập, rèn luyện, chủ nghĩa yêu nước kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa… Đạo đức mới
khác với đạo đức cũ ở chỗ, hệ giá trị của nó là hệ giá trị tiên tiến, phù hợp với sự
phát triển, sự tiến bộ của con người và xã hội. Tiêu chí quan trọng để phân biệt đạo
đức mới với các kiểu đạo đức trước đây là ở tính cách và tính khoa của nó.
Tính cách mạng và khoa học của đạo đức mới được thể hiện ở con đường và
giải pháp hiện thực hóa những yêu cầu của nó trong đời sống hiện thực, biến những
yêu cầu đó thành phẩm chất, nhân cách của con người mới; đó chính là thông qua
giáo dục, rèn luyện trong thực tiễn, đấu tranh tự phê bình và phê bình, “xây” đi đôi
với “chống” và nêu gương về đạo đức thông qua “người tốt việc tốt”. Chính vì vậy,
Hồ Chí Minh và Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã tạo nên
một thế hệ cách mạng với những tấm gương sáng ngời về đạo đức trong đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc
ta.
Như vậy, đạo đức mới là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, phản ánh
những yêu cầu của sư nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Từ gốc độ giá trị có thể thấy, đạo đức mới là hệ thống những phẩm chất đạo
đức tạo nên nền tảng nhân cách, cùng với năng lực là hai yếu tố cơ bản tạo lập nên
phẩm giá của con người.
Giá trị nhân cách của con người được thể hiện qua hành vi đối với bản thân
mình, đối với gia đình, đối với đồng nghiệp, đồng chí, đối với Đảng, đối với nhân
dân, đối với Tổ Quốc và đối với kẻ thù. Những phẩm chất như: “…suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho cách mạng… Đặt lợi ích của Đảng lên và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân”[24, tr.285].
Sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức được quy
định bởi sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Lợi ích dân tộc, lợi
ích giai cấp và sự thống nhất giữa chúng vừa là mục tiêu lý tưởng chính trị, vừa là
16
mục tiêu lý tưởng đạo đức của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự thống nhất giữa lý
tưởng chính trị và lý tưởng đạo đức được thể hiện rõ nhất và sinh động nhất ở nhân
cách của Hồ Chí Minh. Tất cả những lý tưởng và hành động của Người đều là vì
quyền lợi, lợi ích của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và vì sự nghiệp giải
phóng con người mà trước hết là những người cùng khổ bị áp bức bóc lột.
Tiếp cận đạo đức mới, dưới gốc độ chức năng xã hội thì đặc trưng nổi bật của
nó là tính tiên phong, tinh thần cải tạo, xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu, xây dựng cái mới.
Đạo đức mới, ra đời từ thực tiễn cách mạng nhằm đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, đạo đức mới là đạo đức thực tiễn. Chức năng cơ bản của nó là chỉ đạo và
điều chỉnh hành vi cải tạo xã hội.
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp thì đạo đức mới là cơ
sở để đảm bảo cho hoạt động “cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới” thành công. Nét
cơ bản để phân biệt đạo đức mới với đạo đức duy tâm, tôn giáo, đạo đức của giai cấp
bóc lột là ở chức năng chỉ đạo hành vi trong hoạt động cải tạo xã hội của nó.
Đạo đức duy tâm tôn giáo là đạo đức của người từ bi, nó thể hiện sự bất lực của
con người trước quyền uy xã hội, nó không chống lại quyền lực và sự thống trị tàn
bạo của giai cấp bóc lột mà định hướng cho con người chấp nhận hiện thực xã hội
bất công phi nhân tính. Hơn nữa, đạo đức duy tâm tôn giáo còn bao chứa, che đậy
cho những hành vi vô đạo đức của giai cấp bóc lột.
Đạo đức của giai cấp thống trị tuy có vai trò tiến bộ nhất định (khi mới ra đời )
nhưng lại là thứ đạo đức chói buộc con người trong vòng cương tỏa của những
khuôn phép bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị chiếm thiểu số trong xã hội.
Ngay cả đạo đức của giai cấp tư sản, đạo đức tiến bộ nhất trong số đó, thì cũng kìm
hãm con người trong những lợi ích ích kỉ, cục bộ, hẹp hòi cá nhân, phản tiến bộ.
Như vậy, tiếp cận đạo đức mới từ các gốc độ: nhận thức luận, giá trị - nhân
cách và chức năng cơ bản của nó, chúng ta thấy nổi lên những đặc trưng cơ bản khác
nhau và đồng thời, nhưng đặc trưng đó cũng chính là những thành phần cơ bản cấu
thành nội hàm của khái niệm đạo đức mới.
Trên cơ sở những đặc trưng cơ bản của đạo đức mới, chúng ta có thể hiểu: Đạo
đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ, phản ánh
thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
là tổng hòa các phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách
17
của con người mới, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải tạo
xã hội cũ, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng
thành công chũ nghĩa xã hội.
1.2. Ảnh hƣởng của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên hiện nay
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế - xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo năng suất lao động - xã hội cao.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: "Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt
quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các
dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam; đấu tranh chống sự
xâm nhập của các loại văn hoá độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng,
mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá
trị nhân văn” [8, tr.111]. Do vậy để có một hệ chuẩn đạo đức mới, chúng ta không
chỉ xác định xem cần phải kế thừa, duy trì, phát triển những yếu tố nào, phê phán, gạt
bỏ những yếu tố nào trong đạo đức truyền thống mà còn xác định xem cần phải tiếp
thu những yếu tố nào, gạt bỏ, ngăn chặn những yếu tố nào trong hệ thống giá trị và
quy tắc ứng xử đi liền với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường để trên cơ sở đó, xây dựng một nền đạo đức Việt Nam trong sáng, lành mạnh,
giàu tính dân tộc và hiện đại, mang đậm tính nhân văn.
Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã
hội, giá trị đạo đức được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng,
những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi con người. Trong tiến
trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, hệ thống giá trị tinh thần của đời sống
xã hội nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng luôn được coi là yếu tố cấu thành diện
mạo của một thời đại, một xã hội, một dân tộc, một nền văn hoá và của nhân cách
con người. Và do vậy, mọi phương thức thành định, định hướng giá trị nói chung, giá
trị đạo đức nói riêng, đều phải dựa trên cơ sở tính ổn định tương đối của các giá trị
đó.
18
Theo quan điểm phát triển của triết học Mác, những khác biệt đó, đối lập đó
trong hệ các giá trị đạo đức là sự phản ánh quá trình vận động và phát triển thường
xuyên của các giá trị đạo đức, và suy cho cùng thì đó là biểu hiện hợp quy luật của
quá trình vận động phát triển của đời sống tinh thần xã hội dưới tác động của những
biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội. Khi nền tảng kinh tế - xã hội thay đổi
sẽ dẫn đến những thay đổi trong đời sống tinh thần của xã hội, đến những thay đổi
trong hệ thống giá trị tinh thần xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, và do
đó, cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, nó phản ánh tồn tại xã hội và thay đổi
tuỳ theo sự thay đổi của tồn tại xã hội. Nói về ảnh hưởng của những biến đổi diễn ra
trong đời sống kinh tế - xã hội đối với quá trình hình thành quan niệm của con người
về đạo đức và các giá trị đạo đức.
Bởi vậy, khi phán xét, thẩm định một hiện tượng đạo đức, một giá trị đạo đức
nào đó, chúng ta không thể dừng lại ở chỗ lý giải nội dung khái niệm của nó mà phải
đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, nền tảng kinh tế - xã hội, nghĩa là
phải tìm hiểu tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Trong quá trình chuyển đổi mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang mô hình kinh tế thị trường, sự chuyển đổi các giá
trị đạo đức là điều không tránh khỏi. Song, điều đó không có nghĩa là khi chuyển
sang mô hình kinh tế thị trường, mọi quan niệm đạo đức đều bị lật nhào, mọi giá trị
đạo đức đều lập tức thay đổi. Những quan niệm đạo đức hợp lý, đúng đắn, những giá
trị đạo đức truyền thống không vì thế mà lập tức thay đổi. Những quan niệm đạo
đức, các giá trị đạo đức tiêu biểu cho các giai đoạn khác nhau của cùng một quá trình
phát triển lịch sử và có một cơ sở lịch sử chung, thì giữa chúng không thể không có
nhiều yếu tố chung.
Và theo Ph.Ăngghen, “đối với những giai đoạn phát triển kinh tế giống nhau
hay gần giống nhau thì những học thuyết về đạo đức tất phải ít nhiều trùng hợp với
nhau” [3, tr. 136]. Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử, đạo đức,
cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, trong quá trình phát triển của nó có tính
độc lập tương đối. Những lực lượng xã hội mới thường mượn những quan niệm đạo
đức của thời đại trước, giai đoạn trước, cải tạo lại, gạt bỏ những cái gì không còn phù
hợp, giữ lại những cái tốt đẹp, phù hợp với các quan hệ kinh tế - xã hội mới, với lợi
ích của họ. Vả lại, trong quá trình chuyển đổi các giá trị đạo đức, những tập quán và
truyền thống dân tộc luôn đóng một vai trò to lớn. Thông qua tập quán và truyền
thống dân tộc mà rất nhiều quan niệm, quy tắc, giá trị đạo đức cũ được giữ lại, được
19
kế thừa và phát huy trong bối cảnh của đời sống xã hội mới ngay cả khi những điều
kiện xã hội đã sản sinh ra chúng không còn nữa. Đó là chúng ta còn chưa kể tới sự
tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội mà đạo đức
là một trong những hình thái ý thức xã hội ấy. Với cơ chế thị trường thì khía cạnh
thực dụng trong các mối quan hệ là điều khó tránh khỏi. Sự sòng phẳng, minh bạch
trong hạch toán kinh tế, “quan hệ làm ăn” theo kiểu “đôi bên cùng có lợi” là một
yêu cầu tối cần thiết của kinh tế thị trường. Nhưng điều đó cũng dẫn đến những biểu
hiện tiêu cực về mặt đạo đức ở một bộ phận xã hội. Lối sống coi trọng đồng tiền,
“trước đồng tiền mọi người đều bình đẳng” lấy đồng tiền làm thước đo mọi cái, kể
cả phẩm giá con người, đặt quan hệ trao đổi theo kiểu “tiền trao, cháo múc” lên trên
cả tình nghĩa một cách lạnh lùng, thực dụng đã xuất hiện, thậm chí có xu hướng gia
tăng khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Lối sống đó đã dẫn đến sự xói mòn
một số chuẩn mực giá trị truyền thống vốn là nét đẹp trong đời sống đạo đức của
người Việt Nam.
Song, không phải chỉ có những mặt tiêu cực, cơ chế thị trường đang trở thành
nền tảng vật chất, cơ sở xã hội làm nảy sinh cùng với nó những giá trị đạo đức tích
cực. Trong cơ chế này, mỗi chúng ta đều có điều kiện để phát huy sức lực, trí tuệ và
khả năng sáng tạo của mình nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội và do
đó, bản thân mình cũng có điều kiện để đạt tới hạnh phúc theo ý nghĩa đầy đủ và
chân chính của phạm trù này. Điều cần nói ở đây là dù đã có sự xuất hiện, thậm chí
đã có sự định hình của những quan niệm về giá trị đạo đức mới, nhưng chúng ta
không thế chấp nhận quan niệm cho rằng khi chuyển sang kinh tế thị trường và phát
triển nó thì cần phải gạt bỏ những truyền thống đạo đức trước đây hoặc là đẩy các giá
trị đạo đức truyền thống đó xuống thứ bậc dưới trong hệ giá trị. Đây là một thái độ
phi khoa học, phản nhân văn.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng phát triển kinh tế thị
trường, một hệ thống đạo đức xã hội sẽ không thể phát triển nếu phủ nhận sạch trơn
đạo đức truyền thống và không hướng vào mục tiêu ngày càng nhân đạo hoá con
người, ngày càng phát triển và hoàn thiện con người. Phát triển tách khỏi cội nguồn
dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hoá. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại
hoá đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống, đánh mất những cái làm nên “cốt
cách” của dân tộc mình, đất nước mình sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản
thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
20