TIỂU LUẬN MÔN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG
QUỐC THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ 1954-1975
*******************
NHÓM 8 - LỚP AK3 - KHOA CỬ NHÂN TIẾNG ANH
DOÃN MINH NGÂN
HOÀNG THU HÀ
BÙI TRÀ MY
NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN
NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG
NGUYỄN HỒNG HẠNH
ĐINH THỊ NHUNG
LÂM THỊ TÚ ANH
NGUYỄN SỸ TÚ
1
Mục lục
I –Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1954 -1975......................................................................................................2
II – Chính sách đối ngoại của Việt Nam.......................................................................................................4
III – Triển khai chính sách.............................................................................................................................8
IV – Đánh giá..............................................................................................................................................10
V – Tổng kết...............................................................................................................................................12
Tham khảo.................................................................................................................................................12
I –Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1954 -1975
1. Thế giới.
Trên thế giới, chiến tranh lạnh, cuộc đối đầu giữa 2 phe là xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang trong giai đoạn căng thẳng. Một trong hai
2
cường quốc thời đó là Mỹ đang thi hành chiếc lược toàn cầu với tham
vọng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, dập tắt phong trào cách mạng đang lan
rộng và lôi kéo, khống chế đồng minh như Tây Âu và Nhật Bản. Nhưng
Mỹ cũng vấp phải sự lên án của cộng đồng quốc tế cũng như bản thân
nước Mỹ về cuộc chiến tranh tại Việt Nam.
Còn đối với cường quốc còn lại là Liên Xô, thập niên 1960 là thời kỳ
nở rộ của khối xã hội chủ nghĩa và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ giữa
hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung Quốc về các
vấn đề tư tưởng, đường lối cách mạng. Trung Quốc cạnh tranh vai trò
lãnh đạo phe Xã hội chủ nghĩa với Liên Xô. Còn tại Châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ latin thì phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ.
2. Việt Nam
2.1.
Tình hình chiến sự trong nước:
Sau hiệp định Geneva, Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền Nam – Bắc tại
vĩ tuyến 17. Kháng chiến chống Mỹ bắt đầu và có thể chia thành 4 giai đoạn.
Từ năm 1954 đến 1959, đây là giai đoạn Mỹ - Diệm biến miền Nam Việt
Nam từ một chiến trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường
phản kích lại lực lượng cách mạng. Giai đoạn 1960 – 1965 miền Bắc công
khai hậu thuẫn Cộng sản miền Nam và bắt đầu đem quân thâm nhập miền
Nam. Giai đoạn 1965 – 1968 là giai đoạn ác liệt nhất của Chiến tranh Việt
Nam mà người Mỹ gọi là Chiến tranh cục bộ. Giai đoạn 1968 – 1972 là giai
đoạn "sau Mậu Thân" hay giai đoạn "Việt Nam hóa chiến tranh", giai đoạn
Hoa Kỳ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam. Và cuối cùng, từ năm 1973 –
1975 là giai đoạn kết thúc chiến tranh vì với sự ra đi của quân viễn chinh
Hoa Kỳ thì kết cục cho Chiến tranh Việt Nam đã rõ ràng.
2.2.
Tình hình quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
3
Từ năm 1954 đến 1964, phía Trung Quốc hòa hoãn với Mỹ và tìm cách
tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á và Nam Á. Điều này đi ngược lại lợi ích
của nhân dân Việt Nam. Từ năm 1964 đến1969, Trung Quốc tiến hành đại
cách mạng văn hóa, xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, chống Liên Xô, phá hoại
cách mạng thế giới. Cụ thể, Trung Quốc đã bật đèn xanh cho Mỹ xâm lược
Việt Nam và phá hoại mọi hoạt động ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Từ năm 1969 đến1973, Trung Quốc công khai câu kết với Mỹ xâm lược, phá
hoại cách mạng ba nước Đông Dương. Từ năm 1973 đến 1975, Trung Quốc
xâm chiến lãnh thổ Việt Nam gây căng thẳng biên giới, cản trở Việt Nam
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà và lôi kéo ngụy quyền
chống lại cuộc tổng tiến công nổi dậy của nhân dân miền Nam. Cùng thời
gian này, căng thẳng xuất hiện khi Trung Quốc coi Việt Nam như là công cụ
của Liên Xô để bao vây Trung Quốc và việc Trung Quốc ủng hộ Khmer đỏ
cũng dấy lên sự nghi ngờ từ phía Việt Nam.
II – Chính sách đối ngoại của Việt Nam
Trong thời kì này, Trung ương Đảng và nhà nước Việt Nam xác định tầm
quan trọng lớn lao của mối quan hệ của ta với Trung Quốc, một trong hai
nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa và luôn tìm cách ôn hòa mối quan hệ
với nước này bằng cách vừa thể hiện sự tôn trọng và tạo lòng tin với Trung
Quốc vừa bảo vệ được lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ.
4
Trước hết, Việt Nam chủ trương xây dựng mối quan hệ đoàn kết tốt đẹp với
Trung Quốc. Trong văn kiện Đại hội Đảng III năm 1960 có ghi : “Ra sức
góp phần tǎng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng
đầu, tǎng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay
chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; phát triển
quan hệ tương trợ hợp tác với các nước anh em theo những nguyên tắc của
chủ nghĩa quốc tế vô sản.”
Cũng trong giai đoạn 1954 – 1960, Trung Quốc muốn duy trì tình trạng
chiến tranh ở Việt Nam bằng việc gây sức ép buộc Việt Nam chấp nhận
“trường kỳ mai phục”, ngăn cản nhân dân Việt Nam đấu tranh vũ trang bằng
việc từ chối giúp đỡ Việt Nam xây dựng quân đội chính quy và lôi kéo Việt
Nam chống Liên Xô. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhận thấy luận điệu quanh co
nhằm che dấu ý đồ của Bắc Kinh muốn duy trì nguyên trạng chính trị ở Việt
Nam và lập luận rằng ta có thể tiến hành chiến tranh du kích ở miền Nam.
Về mâu thuẫn Xô-Trung, Việt Nam đã nhận thấy có sự mâu thuẫn từ những
năm 1950 nhưng Đảng Lao Động Việt Nam đã tìm cách không đề cập gì đến
vấn đề tế nhị này. Để phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam,
Việt Nam cần cả hai cường quốc xã hội chủ nghĩa, còn chuyện họ có phụ
thuộc vào nhau hay không thì không quan trọng. Đến năm 1956, khi mâu
thuẫn này có thêm phần gay gắt, hai nước trên đã gây sức ép khiến Việt Nam
cảm thấy bị buộc phải chọn đứng về một bên. Đầu những năm 1960, mâu
thuẫn Xô-Trung được bộc lộ công khai, khi ấy Việt Nam đã bày tỏ mong
muốn hai đảng và hai nước đoàn kết.
Năm 1963, mâu thuẫn Xô-Trung sâu sắc tới mức đã ảnh hưởng đến khối
đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ảnh hưởng đến nội
5
bộ đảng anh em, trong đó có Việt Nam. Vì thế ngày 10-2-1963, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng ra tuyên bố đề nghị các đảng anh em đình chỉ công kích
lẫn nhau trên báo chí và đài phát thanh, họp nhau đề khắc phục bất đồng.
Cũng trong năm 1963, những người lãnh đạo Trung Quốc đưa ra cái gọi là
Cương lĩnh 25 điểm về đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế và
đề nghị triệu tập cái gọi là hội nghị 11 đảng cộng sản, thực tế là để nắm vai
trò "lãnh đạo cách mạng thế giới" và lập một "Quốc tế cộng sản" mới do
Bắc Kinh khống chế. Họ thiết tha yêu cầu Việt Nam đồng tình là cốt lợi
dụng uy tín và vai trò của Việt Nam trong phong trào cộng sản và phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Nhằm mục đích này, họ còn hứa hẹn viện
trợ ồ ạt để lôi kéo Việt Nam. Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Viẹt Nam ý kiến của lãnh đạo Trung Quốc
sẽ viên trợ 1 ti nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ mọi viện trợ của Liên
Xô. Phía Việt Nam đã khẳng định thái độ kiên quyết bảo vệ hệ thống xã hội
chủ nghĩa, không tán thành việc họp hội nghị 11 đảng và không để những
người lãnh đạo Bắc Kinh dùng đất nước Việt Nam làm bàn đạp cho mưu đồ
bành trướng của họ. Do thái độ kiên quyết của phía Việt Nam, Cương lĩnh
25 điểm không gây được tiếng vang, âm mưu lập "Quốc tế cộng sản" mới
cũng không thành.
Ban chấp hành Trung ương đã triệu tập Hội nghị trung ương 9 khóa 3 Đảng
Lao động Việt Nam, tháng 12/1963, đưa ra một nghị quyết “Về tình hình
thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng”. Trong đó, Hội nghị nêu ra nhiệm
vụ của Đảng Lao Động Việt Nam cần chỉ trích và chống “chủ nghĩa xét lại”
của Liên Xô, dưới sức ép từ phía Trung Quốc. Qua đây, ta nhấn mạnh chính
6
sách của Việt Nam theo đuổi một mục tiêu không đổi: giành sự kiểm soát
hoàn toàn miền Nam và Hà Nội sẽ nghiêng về bên nào ủng hộ mục tiêu đó.
Năm 1966, căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô bùng cháy thành xung
đột biên giới, ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Trung thì công thức trung lập là
cơ sở để giành được sự chia sẻ và ủng hộ của các nước Xã hội chủ nghĩa,
dân tộc chủ nghĩa và các lực lượng hòa bình trên thế giới và để phục vụ mục
tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, Việt Nam cần cả hai cường quốc xã
hội chủ nghĩa.
Cuối những năm 60 đến năm 1975, quan điểm và đường lối đại chiến lược
của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Với quan điểm: Việt Nam
là “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn của
phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”(Bí thư Lê Duẩn), Việt
Nam xích lại gần Liên Xô khi Mỹ bắt tay với TQ đặt nền móng cho liên
minh chiến lược chống lại Liên Xô. Những người lập chính sách của Đảng
Lao động Việt Nam lại coi ngoại giao như một chức năng của cuộc đấu
tranh cách mạng, một vũ khí chiến tranh về thực chất. (theo Văn kiện Đảng)
Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thống nhất, quan hệ ViệtTrung đi vào một bối cảnh mới. Tranh chấp về 2 quần đảo Hoàng sa và
Trường Sa bắt đầu ngày từ năm 75 khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với
2 quần đảo này. Vẫn với đối sách trung lập không chỉ trong vấn đề về lãnh
thổ mà còn cả trong hợp tác kinh tế, ngoại thương… chúng ta tôn trọng,
nhân nhượng với Trung Quốc trong những vụ việc có thể nhân nhượng
được. Quyết không đi với nước khác hay nhóm nước khác chống lại Trung
Quốc và không bao giờ để rơi vào thế một mình đối đầu với Trung Quốc,
7
nhưng quyết không khiếp sợ họ, lùi bước hoặc từ bỏ những vụ việc không
thể từ bỏ được.
III – Triển khai chính sách
Dựa trên những chính sách đối ngoại với Trung Quốc mà Đảng đã đề ra, ta đã
triển khai những chính sách này bằng những hành động cụ thể.
Từ sau năm 1950 khi lần đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc, Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách đối ngoại linh hoạt với
Trung Quốc. Năm 1955, ta mở Đại sứ quán ở Bắc Kinh. Năm 1957 trong cuộc
họp các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 40 năm
Cách mạng tháng mười và một số hội nghị quốc tế, khi đại biểu Trung Quốc
bị công kích thì đại biểu Việt Nam đã khôn khéo kiên cường bảo vệ bạn.
Ngày 1/10/1959: Hồ Chủ Tịch cùng đại tướng Võ Nguyên Giáp sang thăm
Trung Quốc nhân dịp lỷ niệm 10 năm quốc khánh Trung Quốc. Trong những
cuộc đàm phán riêng, ta nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva
để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng cũng đã khôn khéo từ chối những đề
nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam.
Năm 1964, ông Đặng Tiểu Bình với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Phó Thủ tướng Quốc Vụ viện Trung Quốc đã bí mật sang thăm
Việt Nam với lời cam kết “sẽ bao toàn bộ viện trợ” của Liên Xô cho Việt
Nam, nếu Việt Nam đứng về phía Trung Quốc, nhưng lời đề nghị đó đã bị
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Lãnh đạo Việt Nam khôn khéo nhưng cương
quyết từ chối. Tháng 12-1964, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc thăm Hà
Nội và ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác quân sự Việt-Trung.
8
Tháng 8 năm 1966, cái gọi là “cách mạng văn hoá” của Trung Quốc công
khai bùng nổ. Đây là cuộc “nội chiến đẫm máu” kéo dài trong mười năm, gây
cho nhân dân Trung Quốc nhiều tổn thất to lớn về người và của. Mặc dù bị
“thúc giục ủng hộ” nhưng Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch đã lựa
chọn cách làm “không ủng hộ nhưng cũng không phản đối” như những nước
xã hội chủ nghĩa khác lúc đó.
Sau mấy năm thi hành hiệp định Geneve, chúng ta biết không thể thống nhất
nước nhà bằng con đường tuyển cử tự do. Đảng và chính phủ Việt Nam quyết
định chọn con đường đấu tranh vũ trang tại miền Nam Việt Nam. Chủ trương
này lúc đầu không được ban lãnh đạo Trung Quốc tán thành. Bằng sức mạnh
của dân tộc, chúng ta tự lực tiến hành. Sau khi thấy triển vọng của cuộc đấu
tranh và thấy có thể dựa vào đó để “phất cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế
quốc ”… , ban lãnh đạo Trung Quốc mới từng bước từng bước tích cực ủng
hộ sự nghiệp chính nghĩa này.
26/12/1967 nhân dịp sinh nhật đồng chí Mao Trạch Đông trên trang đầu và ở
vào vị trí trang trọng của Nhân dân nhật báo Trung Quốc đã đăng mấy dòng
chữ viết tay bằng chữ Hán của Hồ Chủ Tịch chiếm chỗ khoảng bằng một danh
thiếp: “Kính chúc Mao Chủ tịch vạn thọ vô cương”. “Vạn thọ vô cương” là
mấy từ mà các tiểu tướng Hồng vệ binh Trung Quốc hồi đó thường xuyên hô
lớn tại bất kỳ cuộc họp nào, nhất là trong dịp được Chủ tịch Mao tiếp kiến, nay
Hồ Chí Minh cũng dùng nó để chúc thọ "người cầm lái vĩ đại" thì còn có sự
ủng hộ nào bằng. Vì vậy, sức ép từ phía Trung Quốc lên Việt Nam hầu như
không còn. Thêm vào đó chúng ta cũng hết sức ủng hộ nhân dân Trung Quốc
trong cuộc đấu tranh nhằm thu hồi Đài Loan.
9
Về Hiệp định Paris 1973, việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là việc phải xảy ra khi chẳng ai dứt điểm được ai bằng quân sự. Việt
Nam bước vào đàm phán với Mỹ trong tình hình quốc tế phức tạp, chiến tranh
lạnh gay gắt, quan hệ Xô - Trung căng thẳng, phong trào cách mạng thế giới
khủng hoảng về đường lối, quan điểm... Đầu năm 1968, dù Trung Quốc phản
đối, nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tự đàm phán mà
muốn thông qua Trung Quốc giống như Hiệp định Genève năm 1954, nhưng ta
vẫn đi vào đàm phán với Mỹ nhưng kiên trì giải thích, đồng thời thường xuyên
thông báo diễn biến đàm phán cho bạn.
IV – Đánh giá
Qua những chính sách trên, ta có thể thấy rằng Việt Nam trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ đã đề cao vai trò của Trung Quốc, do đó đã có nhiều chính sách
nhằm gây dựng lòng tin với Trung Quốc, bảo vệ lợi ích dân tộc Việt Nam và không
xâm hại tới lợi ích của nước bạn. Tuy chính sách đối ngoại của ta thể hiện được
mong muốn độc lập, tự chủ, kiên quyết nhưng cũng đã phần nào chịu nhiều tác
động từ sức ép của Trung Quốc.
Trước hết, chính sách đối ngoại của Việt Nam đã thể hiện được sự tôn trọng
với Trung Quốc và tạo được lòng tin vững chắc với nước này. Chúng ta đã thành
công trong việc tạo dựng mối quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết giữa hai quốc gia.
Để đáp lại lòng tin ấy, Trung Quốc đã trợ giúp ta về mặt kinh tế, quân sự như gửi
viện trợ nhu yếu phẩm, vũ khí, nhân sự... Ta đã linh hoạt đàm phán với Trung
Quốc để chống lại Mỹ. Thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoài việc
nhận viện trợ thì ta cũng bị Trung Quốc gây ra không ít sức ép, yêu cầu ta chống
lại Liên Xô. Tuy vậy, việc Việt Nam thân thiết với Trung Quốc là điều tất yếu, phù
10
hợp hoàn cảnh. Vì Trung Quốc lúc đó là láng giềng gần gũi với ta, có điều kiện
giúp đỡ nên ta phải tận dụng mối quan hệ này, đồng thời luôn dành sự ưu tiên cho
họ.
Ngoài ra, thông qua những chính sách trên, chúng ta đã nêu cao được tinh
thần độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, không xâm phạm đến lợi ích của nước
khác. Điều này được thể hiện trong việc lập luận rằng có thể tiến hành đánh du
kích ở miền Nam thay vì “trường kì mai phục” như Trung Quốc đề nghị và thái độ
kiên quyết bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, không tán thành Quốc tế cộng sản
của Trung Quốc.
Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng có một số mặt chưa
được. Chính sách của ta ít nhiều bị chi phối bởi ý muốn của Trung Quốc. Khi ký
kết Hiệp định Geneva, ta đã tin vào phía Trung Quốc và không tỏ ý nghi ngờ
những ý đồ của nước này khiến nước ta bị chia cắt thành hai miền. Do Việt Nam bị
phụ thuộc vào viện trợ của Trung Quốc nên ta đã phải nhiều lần đã phải nghe theo
ý kiến của nước này. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng khi mâu thuẫn Xô Trung
căng thẳng, sau thời Khrusev, Việt Nam có thể tận dụng được sựu bất hòa giữa hai
bên để có thêm được viện trợ vì cả hai nước đều muốn tăng tầm ảnh hưởng với ta
và ta sẽ có thêm sự tự do trong việc sử dụng nguồn viện trợ.
Hơn nữa, Việt Nam đã không thể hiện sự kiên quyết về vấn đề Hoàng Sa
trong với Trung Quốc. Điều này dẫn đến trận hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974 giữa
Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa, khiến 74 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đã hi
sinh. Khi Trung Quốc công bố chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, ta đã không lên
tiếng. Mặc dù sau này, ta đã có ý thức hơn về chủ quyền trên quần đảo này nhưng
11
việc chậm trễ trong chính sách đã gây không ít khó khăn và gây tranh chấp tại biển
Đông cho tới tận bây giờ.
V – Tổng kết
Trung Quốc là một đồng minh đáng tin cậy và quan trọng của Việt Nam
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975. Trong thời kì này, Việt
Nam đã triển khai linh hoạt những chính sách đối ngoại của mình với
Trung Quốc. Mặc dù quan điểm lập trường, đường lối, chính sách đối nội,
đối ngoại…, của hai bên Việt Nam và Trung Quốc có những lúc hoàn
toàn khác biệt, trái ngược nhau trong một thời gian khá dài, nhưng nhìn
chung phía Việt Nam vẫn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rất lớn về
nhiều mặt của Trung Quốc để thực hiện mục tiêu chiến lược cao cả của
dân tộc.
Tham khảo
1. Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua - Nxb Sự Thật,
Hà Nội 10/1979
2. Dương Danh Dy - Chuyện ít biết về quan hệ Việt – Trung thời chống Mỹ
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
4. Melissa Smith and Mircea Munteanu
Christian Ostermann, Director, HAPP/WES - "The Vietnam-Soviet Union-China
Triangle Relations during the Vietnam War (1964-1973) from Vietnamese
Sources" with Pham Quang Minh
12
13