Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

LỰA CHỌN vấn đề dạy và PHƯƠNG PHÁP ôn tập CHO học SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG dạy CHUYÊN đề QUAN hệ QUỐC tế từ năm 1919 đến năm 2000 (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.39 KB, 30 trang )

Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi
quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm
1919 đến năm 2000.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thứ nhất, việc lựa chọn chuyên đề Quan hệ quốc tế nói chung và Quan hệ quốc tế
trong thời kì lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1919 đến năm 2000, xuất phát từ việc thực
hiện đúng tinh thần, đường lối Đổi mới của Đảng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, quan
hệ đối ngoại của nước ta ngày càng mở rộng theo phương châm đa phương hóa, đa dạng
hóa trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế phấn đầu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Do đó, việc hiểu biết về lịch
sử quan hệ quốc tế là điều vô cùng cần thiết, quan trọng.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí ảnh hưởng của chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919
đến năm 2000 đối với chương trình dạy học tại các lớp chuyên Sử
Nội dung chuyên đề, nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về
lịch sử quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế trong giai đoạn từ năm 1919 đến năm
2000; về mối quan hệ giữa các quốc gia, những biến động lớn trong quan hệ quốc tế hiện
nay.... Nội dung chuyên đề đảm bảo chuẩn kiến chức và chuẩn kiến thức kĩ năng của môn
học, vừa đảm bảo những tri thức về lịch sử, vừa gợi mở những suy nghĩ về hiện tại và
tương lai; vừa mang tính lí thuyết, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với sự hội nhập quốc tế của
đất nước. Hệ thống các câu hỏi liên quan mật thiết với kiến thức cơ bản, mang tính thực tế
cao và được trả lời một cách khoa học, logic...
Mặt khác, chuyên đề này càng có ý nghĩa quan trọng hơn, quyết định đến chất
lượng thi HSGQG môn Lịch sử: hàng năm nội dung liên quan tới Quan hệ quốc tế được
vận dụng nhiều trong các đề thi HSGQG như năm 2005, 2006, 2009, 2010, 2011, 2013.
Tuy nhiên, trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 (chương trình nâng cao) các nhà
nghiên cứu, biên soạn không đưa phần Quan hệ quốc tế từ năm 1919 – 1945 vào chương
trình dạy thành một bài, một chương hoặc chuyên đề cụ thể mà nội dung Quan hệ quốc tế
nằm xen lẫn trong các mục nhỏ, các bài, ở các chương: chương VIII; IX; X. Còn SGK Lịch
sử lớp 12 được cấu trúc rõ ràng thành hai chương riêng biệt (chương I và chương V).
1




Vì vậy, trong quá trình học ở lớp 11 học sinh chưa có khái niệm mang tính hệ
thống về lịch sử quan hệ quốc tế xuyên suốt, phạm vi kiến thức rộng, nhiều sự kiện chồng
chéo có liên quan mật thiết với nhau... Do đó, khi giảng dạy ở lớp chuyên Sử và bồi dưỡng
HSG QG giáo viên chúng tôi vẫn phải tổng hợp kiến thức của chương trình nâng cao (Phần
2: Lịch sử thế giới hiện đại – Phần từ năm 1917 đến 1945) thành chuyên đề: Quan hệ quốc
tế từ năm 1919 đến năm 1945. Điều này, giúp học sinh nhận thức đầy đủ sâu sắc mang tính
logic để kết nối các kiến thức lịch sử, đi sâu vào nội dung mối quan hệ quốc tế từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (trong chương trình Lịch sử lớp 12).
Thứ ba, thực tiễn đã xác nhận rằng, trong nhiều năm qua, việc lựa chọn nội dung và
phương pháp ôn tập cho HSGQG khi giảng dạy chuyên đề cụ thể theo từng chương, từng
giai đoạn lịch sử, từng nội dung kiến thức đã được khối các trường THPT chuyên khu vực
Duyên hải, Đồng bằng Bắc Bộ đưa ra trao đổi, thảo luận và đem lại tính hiệu quả cao.
Phát huy tinh thần trên, để công tác tổ chức Hội thảo thành công và thực sự là
một sân chơi bổ ích, giao lưu học tập lẫn nhau. Trong Hội thảo lần thứ VIII các trường
THPT chuyên khu vực Duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ, chúng tôi chọn đề tài: “Lựa chọn
nội dung và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan
hệ quốc tế từ năm 1919 đến năm 2000”
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Việc chọn đề tài trên là cầu nối mang tính khoa học và tính hệ thống các nội dung
lịch sử Quan hệ quốc tế trong chương trình nâng cao lớp 11 (từ năm 1919 đến năm 1945)
với nội dung Quan hệ quốc tế trong chương trình nâng cao lớp 12 (từ năm 1945 đến năm
2000). Từ đó, giúp học sinh chuyên có kiến thức sâu sắc và nhận thức đầy đủ hơn về các
giai đoạn lịch sử Quan hệ quốc tế; biết tổng hợp, phân tích, đánh giá và liên hệ so sánh...
Các nội dung trong đề tài này cung cấp cho học sinh một số thông tin cập nhật về
nội dung và phương pháp ôn tập, các giải pháp mang hiệu quả, tính thực tiễn, tính khả thi
cao trong hoạt động giáo dục và đào tạo, có khả năng áp dụng ở nhiều đối tượng, nhiều
nơi...đã được kiểm chứng qua thực tiễn giảng dạy, ôn tập và bồi dưỡng HSGQG nhiều năm
của nhóm giáo viên dạy Sử trường THPT chuyên Bắc Ninh.

Từ những mục đích trên, nội dung chuyên đề: “Lựa chọn nội dung và phương pháp
ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế từ năm 1919
đến năm 2000” tập trung vào các chủ đề sau:
Phần I. Lựa chọn nội dung ôn tập phần Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000
2


I. Nội dung cơ bản của Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000
II. Một số chủ đề chuyên sâu về Quan hệ quốc tế 1919 – 2000
Phần II. Phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực cho
HSGQG khi ôn tập chuyên đề Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000
B. PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I. LỰA CHỌN NỘI DUNG ÔN TẬP PHẦN QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ
NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000.
VẤN ĐỀ I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 – 2000
NỘI DUNG 1: QUAN HỆ QUỐC TẾ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI (1919 – 1939)
Phần nội dung kiến thức Quan hệ quốc tế (1919 – 1939) nằm trong chương trình
nâng cao của bộ môn Lịch sử lớp 11, nhưng chưa được đưa vào thành một chương, một bài
cụ thể. Do đó, một số kiến thức đã được học ở chương VII, VIII, IX, chúng tôi không đi
sâu vào nội dung chi tiết đầy đủ mà chỉ khái quát, tổng hợp, xây dựng dàn ý để hướng học
sinh làm rõ nét nổi bật trong quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh (1918 – 1939).
I. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1919 – 1929)
1. Bối cảnh lịch sử.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra thời kì mới trong quan hệ quốc
tế, làm thay đổi cục diện tình hình thế giới, đặc biệt là châu Âu: Hai nước tư bản lâu đời
Anh, Pháp đều thắng trận nhưng nền kinh tế đều bị suy yếu và trở thành con nợ của Mĩ.
Italia – một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh trong nước
và khủng hoảng trầm trọng. Ba nước đế quốc rộng lớn như Nga, Đức, Áo – Hung lần lượt

sụp đổ, bị tàn phá nặng nề....Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt,
ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra những
chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. CNTB không còn là hệ thống duy nhất thống
trị thế giới. Sự tồn tại của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã trở thành thách thức to
lớn đối với nhiều nước tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các Hội
nghị hòa bình được triệu tập.
3


2. Nội dung
* Hội nghị Véc-xai (1919 – 1920)
- Ngày 18 – 1 – 1919,27 nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình tại Véc-xai
(Pháp). Hội nghị diễn ra hết sức gay go quyết liệt vì các cường quốc thắng trận đều có
tham vọng riêng....Sau gần nửa năm tranh cãi với 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì sự bất dồng
gay gắt về quyền lợi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị được kí kết.
- Những vấn đề cơ bản được các nước tham dự HN nhất trí là:
+ Thông qua Hòa Ước Véc-xai với Đức (28 – 6 – 1919)– đây là văn kiện quan
trọng quyết định số phận của nước Đức.
+ Các Hòa ước khác được kí kết với Áo (10 – 9 – 1919), Hòa ước với Hungari
(4 – 6 – 1920), Hòa ươc với Thổ Nhĩ Kì (11 – 8 – 1920)...Những văn bản này chính thức
xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc
+ Thống nhất việc thành lập Hội Quốc Liên (10/1/1920) với 44 nước tham gia,
nhằm khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình và an ninh thế giới
Như vậy, những hòa ước trên hợp thành hệ thống Hòa ước Véc-xai. Đây là văn
bản chính thức xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc, đem lại những lợi
ích cho các nước thắng trận, nhất là Anh, Pháp. Tuy nhiên, nó nảy sinh mâu thuẫn giữa các
nước thắng trận với bại trận (nhất là Đức), giữa các nước thắng trận với thắng trận. Tham
vọng lãnh đạo thế giới của Mĩ chưa được thực hiện, vì thế các nước thắng trận phải tiếp tục

giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại Hội nghị Oa-sinh-tơn.
* Hội nghị Oasinhtơn (1921 – 1922)
- Ngày 12 – 11 – 1921, Hội nghị Oa-sinh-tơn khai mạc với sự tham gia của 9
nước, trong đó quyền quyết định thuộc về Mĩ. Hội nghị thông qua các Hiệp ước: Hiệp ước
4 nước Anh – Pháp – Mĩ – Nhật được gọi “HƯ không xâm lược ở Thái Bình Dương”; Hiệp
ước 9 nước công nhận “nguyên tắc hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của
Trung Quốc”; Hiệp ước 5 nước “hạn chế vũ trang và hải quân”.
- Những thỏa thuận thông qua các Hiệp ước trên Mĩ đã giải quyết được quyền
lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở châu Á – Thái Bình Dương
do Mĩ chi phối.
3. Hệ quả
- Những thỏa thuận của các cường quốc thắng trận tại Hội nghị hòa bình ở Vécxai (1919 – 1920) và Hội nghị Oa-sinh-tơn (1921 – 1922), đã tạo ra khuôn khổ trật tự thế
giới mới, thường được gọi là trật tự Hệ thống Vecsxai – Oasinhtơn.
4


- Với hệ thống V – O, trật tự thế giới mới được thiết lập phản ánh so sánh lực
lượng mới giữa các nước tư bản. Các nước thắng trận, trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Italia,
Nhật Bản, giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp đặt, nô dịch đối với các
nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Đồng thời, ngay giữa các
nước tư bản thắng lợi cũng nảy sinh sự bất đồng do mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước
đế thỏa mãn với hệ thống V – O với những nước không thỏa mãn. Chính vì vậy, quan hệ
hòa bình giữa các nước tư bản trong thời gian này chỉ là tạm thời và mỏng manh..
- Để duy trì trật tự thế giới mới, một tổ chức quốc tế được thành lập, Hội Quốc
Liên – một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên với sự tham gia của 44 nước thành
viên, nhưng không đủ sức mạnh nên bị các nước ĐQ chi phối và trở thành công cụ của
chúng, nên TTTG dễ bị tan vỡ
Như vậy, sự phân chia TG theo hệ thống V – O đã chứa đựng mâu thuẫn không
thể dung hòa giữa đế quốc với đế quốc (nhất là quyền lợi thuộc địa), hòa bình được lặp lại
giữa các nước nhưng chỉ là tạm thời và mỏng manh với diễn biến phức tạp, chồng chéo,

tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh thế giới mới.
II. Các nước tư bản chủ nghĩa trong những năm 1919 – 1939
1. Những nét chung về chủ nghĩa tư bản trong những năm 1919 – 1939
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước tư bản trải qua bước phát triển
thăng trầm khác nhau:
- Trong những năm 1918 – 1923, phần lớn các nước tư bản (trừ Mĩ) đều lâm
vào khủng hoảng kinh tế, chính trị, biểu hiện ở sự suy sụp về kinh tế, cao trào cách mạng
bùng lên mạnh mẽ ở châu Âu cũng như nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc.
- Trong những năm 1924 – 1929, các nước bước vào thời kì ổn định về chính
trị và đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế...... nhưng sự phát triển kinh tế không đồng đều
giữa các nước tư bản.
- Trong những năm 1929 – 1933, khủng hoảng bùng nổ đầu tiên ở Mĩ sau đó
lan rộng các nước TBCN kéo dài đến năm 1933. Đây là, cuộc khủng hoảng kéo dài nhất,
gây hậu quả nghiêm trọng nhất, đã tàn phá nặng nề nều kinh tế ở các nước TBCN, hàng
trăm triệu công nhân thất nghiệp, đói khổ.... Để thoát khỏi khủng hoảng, chính phủ các
nước TBCN đã lựa chọn những con đường khác nhau ...... Điều này, dẫn tới sự hình thành
hai khối đế quốc đối lập: khối phát xít ( Đ – Y – N) và khối dân chủ (A – P – M), đó là dấu
hiệu của cuộc chiến tranh thế giới mới khó có thể tránh khỏi. Quan hệ quốc tế trở lên căng
thẳng, phức tạp, chồng chéo....
5


- Trong những năm 1933 – 1939, chủ nghĩa phát xít hình thành (điển hình ở
Đức, Italia, Nhật Bản). Về bản chất, chủ nghĩa phát xít là nền chuyên chính khủng bố công
khai của những phần tử phản đông nhất, sô vanh nhất, đế quốc nhất của tư bản tài chính.
Do đó, chủ nghĩa phát xít đều có âm mưu dùng vũ lực và chiến tranh để chia lại thị trường
thế giới.....
2. Chủ nghĩa phát xít hình thành và thái độ trong quan hệ quốc tế.
(Phần này, nằm trong các bài 25, 26, 28 chương VIII – lớp 11 NC. Do đó, khi
giảng dạy và ôn tập, cần làm rõ điểm giống và khác nhau của chủ nghĩa phát xít và thái độ

của chúng trong quan hệ quốc tế)
* Điểm giống nhau.
- Về kinh tế: các nước đi theo con đường phát xít đều nghèo tài nguyên, ít
thuộc địa hoặc thị trường tiêu thụ hẹp, bị tổn thất nặng nề sau khủng hoảng kinh tế.
- Về bản chất: các nước đều thực hiện nền chuyên chính khủng bố công khai
của các phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc nhất của tư bản tài chính...
- Mưu đồ và thái độ trong quan hệ quốc tế: giới cầm quyền ở các nước đều bất
mãn với hệ thống V – O, đều có mưa đồ dùng vũ lực và chiến tranh để chia lại thế giới...
* Khác nhau
Nội
CNPX Đức
CNPX Iatalia
CNPX Nhật
dung
- Sau khủng hoảng kinh tế - Năm 1929 các tập đoàn - khác với Đức quá
Quá
trình xác Đảng Quốc xã đã đưa Hitle lên tài chính đã đưa trình phát xít hóa
cầm quyền (1/1933) và ráo riết Mutxônili
lập
lên
nắm diễn ra thông qua sự
thiết lập nền chuyên chính độc quyền và xác lập chế độ chuyển đổi từ chế độ
tài công khai: thay thế nền dân độc tài phát xít. Tháng dân chủ đại nghị
chủ đại nghị bằng chế độ PX
10/1929 chúng tổ chức sang chế độ chuyên
- Tăng cường các hoạt động cuộc tấn công vào thành chế độc tài phát xít,.
chuẩn bị chiến tranh. Tháng Rooma, lật đổ chế độc - Quá trình này diễn
10/1933 rút chân khỏi Hội dân chủ đại nghị.
ra thông qua việc
Quốc Liên. Năm 1935 ban - Thực hiện các chính quân phiệt hóa bộ

hành lệnh tổng động viên và sách thủ tiêu các quyền máy nhà nước và
triển khai các hoạt động quân tự do, dân chủ, phát xít tiến hành chiến tranh
sự ở châu Âu.
hóa bộ máy chính xâm lược thuộc địa.
- Năm 1936 thành lập liên
quyền, đề cao vai trò của - Năm 1936 Nhật
minh chính trị - quân sự và kí
Mutxonili...
mới hoàn thành quá
HU “chống QTCS”
- Năm 1936 tham gia trình phát xít hóa
 Quá trình phát xít hóa diễn
liên minh chống QTCS.
ra nhanh chóng
Tiềm
Đức là nước lớn, có tiềm lực Quá trình phát xít hóa Nhật là quốc gia có
lực
về kinh tế, quân sự và trình của Y được sự giúp đỡ tiềm lực tương đối
6


độ khoa học, kĩ thuật cao. Vì hiệu quả của Đức. Đây mạnh
vây, CNPX Đức thể hiện rõ là “chủ nghĩa đế quốc
tính hiếu chiến
của những kẻ nghèo
khổ”
III. Sự sụp đổ của Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn và con đường dẫn tới chiến
tranh thế giới thứ hai (1919 – 1939)
1. Bối cảnh quốc tế
- Cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929 – 1933, gây hậu quả nặng nề về kinh tế chính trị đe dọa nghiêm trọng sự tồn tại của CNTB, mâu thuẫn xã hội trong các nước tư

bản phát triển gay gắt, phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao
- Để cứu vãn tình thế và giải quyết hậu quả của khủng hoảng, trong thế giới tư
bản hình thành hai xu hướng tìm kiếm con đường phát triển khác nhau:
+ Các nước có ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguyện liệu và thị
trường đã đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị (điển hình là Đức, Ý, Nhật).
Chúng thực hiện chế độ độc tài phát xít, hình thành khối liên minh phát xít Đức – Ý –
Nhật (gọi phe Trục) Giai cấp tư sản phản động ở các quốc gia này chủ trương dùng vũ lực
phát động chiến tranh phân chia lại thị trường thuộc địa.
+ Các nước Anh, Pháp, Mĩ có nhiều thuộc địa, có thị trường rộng lớn chủ
trương tiếp tục duy trì chế độ đại nghị, duy trì nguyên hệ thống V – O.
Điều này, dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối lập: khối phát xít ( Đ –
Y – N) và khối dân chủ (A – P – M). Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ trật
tự Hệ thống V – O. Quan hệ quốc tế trở lên căng thẳng, phức tạp, chồng chéo, dẫn tới sự
hình thành các lò lửa chiến tranh, đó là dấu hiệu của cuộc chiến tranh thế giới mới khó có
thể tránh khỏi.
2. Quan hệ quốc tế và con đường dẫn tới chiến tranh
- Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức
tạp và căng thẳng. Sự ra đời của CNPX càng khoét sâu mâu thuẫn trong khối đế quốc về
thuộc địa và thị trường, ba nước Đức, Italia, Nhật Bản đi theo đường lối gây chiến tranh
chia lại thế giới. Đức và Nhật rút chân khỏi Hội Quốc Liên (1933) cùng với Italia liên kết
thành khối liên minh phát xít (1937) được mệnh danh là “Trục Béclin – Rôma – Tôkiô”
thường gọi tắt là phe trục. Khối liên minh này vừa chống Quốc tế cộng sản (Liên Xô), vừa
muốn gây chiến tranh chia lại thế giới.
- Từ năm 1931 – 1937, khối phát xít vừa chống Cộng sản, vừa mở rộng bành
trướng xâm lược thị trường TG: Nhật xâm lược Trung Quốc, khiêu khích biên giới Trung –
7


Xô. Phát xít Italia xâm lược Ê-ti-ô-pia (1935), cùng với Đức giúp đảng phát xít của Phrancô gây nội chiến ở Tây Ban Nha, lật đổ chính quyền cộng hòa. Phát xít Đức với tham vọng
thành lập nước “Đại Đức” mở rộng lãnh thổ ở Châu Âu ...

- Trước các cuộc xâm lược của liên minh phát xít, các cường quốc tư bản dân chủ
và Liên Xô lại không có một đường lối hành động chung.
+ Hoa kì là nước giầu mạnh nhất, nhưng lại theo « chủ nghĩa biệt lập » ở Tây bán
cầu, không tham gia Hội Quốc liên và không can thiệp vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ
(Hành động này gián tiếp tiếp tay cho CNPX hoành hành và thu lợi nhuận băng việc buôn
bán vũ khí)
+ Liên Xô coi CNPX là kẻ thù nguy hiểm nhất, nên chủ trương hợp tác với các
nước TB chống phát xít và chiến tranh.
+ Anh, Pháp đều có mục tiêu chung là muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và
hệ thống thuộc địa của mình. Họ lo sợ sự bành trướng của CNPX nhưng vẫn thù ghét
CNCS. Vì thế, giới cầm quyền A – P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít.
Ngược lại, Anh, Pháp chủ trương thực hiện chính sách nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa
bình và tiêu diệt Liên Xô.
Đỉnh cao của chính sách dung dưỡng và nhượng bộ là Hội nghị Muy-ních
(28/9/1938). Hội nghị Muy-ních bàn về vấn đề quan hệ giữa nước Đức phát xít với Tiệp
Khắc (nhưng Tiệp Khắc và Liên Xô không được mời tham dự). Tại Hội nghị Anh, Pháp
thỏa thuận trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức, đổi lại Đức cam kết chấm dứt mọi
cuộc thôn tính Châu Âu và sẽ tấn công Liên Xô.
Như vậy, HN Muy-ních về thực chất là một âm mưu của các nước TB phương
Tây nhằm thành lập Mặt trận thống nhất CNĐQ chống lại Liên Xô. Chính thái độ nhượng
bộ của Anh – Pháp đã không cứu vãn được hòa bình, mà tạo điều kiện cho phe phát xít
thực hiện được mục tiêu gây chiến tranh xâm lược. Vì vậy, Anh – Pháp – Mĩ phải chịu một
phần trách nhiệm về sự bùng nổ CTTG2.
- Sau HN Muy-ních, tháng 3/1939 Đức đưa quân thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc,
chuẩn bị tấn công Ba Lan. Ngày 23/8/1939, Đức kí với Liên Xô « Hiệp ước Xô – Đức
không xâm lược nhau ». Đức đã thể hiện rõ mưu đồ bành trướng của mình phản bội lại
Hiệp định Muy-ních, thôn tính châu Âu sau đó mới dốc toàn bộ lực lượng đánh Liên Xô.
- Ngày 1 – 9 – 1939 Đức tấn công BaLan, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
* Nguyên nhân bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai


8


- Trật tự thế giới được hình thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất (TT Vécxai –
Oasinhtơn) chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ổn không thể dung hòa về quyền lợi kinh tế,
lãnh thổ, về thuộc địa giữa các nước ĐQ.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) gây hậu quả nặng nề cho các
nước TB, quyền lợi về kinh tế, thuộc địa không được giải quyết đã hình thành ở châu Âu
hai khối đế quốc đối địch nhau giữa khối dân chủ (A – P – M) và khối phát xít (Đ – Y –
N). Điều này càng làm mâu thuẫn giữa các nước thêm sâu sắc.
- Quan hệ quốc tế ngày càng căng thẳng, phức tạp, chồng chéo giữa hai khối đế
quốc đối địch nhau : khối ĐQ Anh- Pháp – Mĩ và khối phát xít (Đức – Ý – Nhật). Nhưng
cả hai đều mâu thuẫn với Liên Xô (khối XHCN). Trong đó, phe phát xít vừa mở rộng bành
trướng xâm lược đòi chia lại thị trường, vừa chống Cộng sản (Liên Xô). Còn Anh – Pháp –
Mĩ đều có mục tiêu chung là muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và hệ thống thuộc địa
của mình. Họ lo sợ sự bành trướng của CNPX nhưng vẫn thù ghét CNCS. Vì thế, giới cầm
quyền A – P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít. Ngược lại, Anh, Pháp chủ
trương thực hiện chính sách nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa bình và tiêu diệt Liên Xô.
Đỉnh cao của chính sách dung dưỡng thỏa hiệp là HN Muy – ních (9/1938) giữa Anh –
Pháp với Đức.....
Như vậy, thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh là phe phát xít (đại diện Đức – Ý –
Nhật) với bản chất hiếu chiến chúng thể hiện rõ tham vọng điên cuồng của mình trong việc
bành trướng thế lực. Ngược lại, thái độ của Anh – Pháp – Mĩ trong việc từ chối liên minh
với Liên Xô, thực hiện chính sách dung dưỡng, thỏa hiệp đã tạo điều kiện cho phe phát xít
gây ra chiến tranh thế giới.
NỘI DUNG 2 : QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ HAI (1939 – 1945)
Phần này được đề cập trong chương X: Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 –
1945, nhưng không thành mục riêng, vì vậy chúng tôi thường khái quát làm nổi bật nét đặc
trưng cơ bản trong mối quan hệ quốc tế giữa các nước tham gia Chiến tranh.

1. Bối cảnh quốc tế.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939 – 1945) là cuộc chiến tranh có quy
mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh lan rộng toàn thế giới, diễn ra quyết liệt ở
nhiều mặt trận : mặt trận châu Âu ; mặt trận Bắc Phi và mặt trận châu Á – Thái Bình
Dương. Trước thảm họa chiến tranh các quốc gia đã phối hợp với nhau, nhất là các nước
đế quốc Anh, Pháp, Mĩ và Liên Xô từ quan hệ thù địch chuyển thành quan hệ đồng minh
chống phát xít.
9


2. Những biểu hiện chính
- Ngày 1 – 1 – 1942 tại Oasinhton 26 nước (đứng đầu A – M – LX) đã kí vào bản
tuyên bố “Cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế voài chiến tranh chống phát
xít” đồng thời hợp tác chặt chẽ với nhau. Từ đó, hình thành khối Đồng minh chống phát
xít. Đây là nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít và tạo
cơ sở cho việc hình thành tổ chức Liên Hợp Quốc sau này.
- Từ năm 1942 đến 1945, các nước đồng minh lớn như A – M – LX tổ chức
nhiều HN quốc tế quan trọng như
+ Hội nghị Têhêran (Iran) tháng 11 /1943 nhằm thảo luận nhiều vấn đề quan
trọng về việc phối hợp hành động chống Đức cho đến thắng lợi cuối cùng và việc mở mặt
trận thứ hai ở Tây Âu...
+ HN Ianta (Liên Xô) tháng 2 – 1945 thông qua những quyết định quan trọng :
thống nhất mục tiêu chung là phải tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít ở châu Âu và châu
Á...đi đến việc kết thúc cuộc chiến tranh chống phát xít, tạo nền tảng thiết lập một trật tự
thế giới mới sau chiến tranh.
+ HN Xanphranxixco (Mĩ) tháng 6/1945 thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc
và thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc nhằm duy trì hòa bình, an ninh thế giới.
+ HN Pốtxđam (Đức) tháng 7 – 1945 tập trung giải quyết vấn đề Đức – Nhật và
kết thúc chiến tranh thế giới.
3. Nhận xét

- Sự liên kết của các nước Đồng minh đã tạo nên nhiều thắng lợi lớn có tính chất
quyết định, làm xoay chuyển cuộc diện chiến tranh: từ chiến tranh phi nghĩa sang chiến
tranh chính nghĩa, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng
thẳng, phức tạp trong quan hệ quốc tế giữa các cường quốc tư bản phương Tây xoay quan
vấn đề thuộc địa. Tạo nên sự chuyển biến căn bản của tình hình thế giới : Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông Âu ngày càng lớn mạnh ; các nước phát xít bị tiêu diệt ; Anh, Pháp
đều bị suy kiệt và lệ thuộc vào Mĩ. Riêng nước Mĩ ngày càng phát triển về mọi mặt và trở
thành cường quốc số 1 thế giới. Một thời kì mới trong quan hệ quốc tế mới hình thành

10


NỘI DUNG 3: QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ HAI ĐẾN NAY (1945 – 2000)
Phần nội dung này được đề cập chi tiết trong chương I (bài 1) và chương V (bài
10) – SGK lớp 12 – ban Nâng cao. Vì vậy, nội dung kiến thức cơ bản chúng tôi không đi
vào chi tiết mà chỉ định hướng, các vấn đề dạy và ôn tập, bồi dưỡng cho HSG.
I. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ hai
(1945 – 1949).
1. Hội nghị Ianta (2 – 1945) và những thỏa thuận của ba cường quốc.
* Hoàn cảnh
* Những quyết định quan trọng
* Hệ quả
2. Sự thành lập Liên Hợp Quốc
* Hoàn cảnh và sự thành lập
* Mục đích của LHQ
* Nguyên tắc hoạt động
* Các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc
* Hoạt động và vai trò của Liên Hợp Quốc

3. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập
* Về địa lí – chính trị
* Về kinh tế
* Quan hệ quốc tế
II. Mâu thuẫn Đông – Tây và sự khởi nguồn của Chiến tranh lạnh
* Nguồn gốc của mâu thuẫn Đông – Tây
* Những biểu hiện mâu thuẫn Đông – Tây và khởi nguồn Chiến tranh lạnh
* Các cuộc chiến tranh Cục bộ
* Hệ quả
III. Xu thế hòa hoãn Đông – Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt
* Xu thế hòa hoãn Đông – Tây
* Nguyên nhân của việc chấm dứt Chiến tranh lạnh
* Tác động của sự kiện chấm dứt Chiến tranh lạnh.
IV. Xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh
* Những thay đổi to lớn và phức tạp của thế giới (1991 – 2000)
* Liên hệ với công cuộc đổi mới của Đảng ta hiện nay (thời cơ và thách thức)
11


VẤN ĐỀ II. MỘT SỐ CHỦ ĐỀ CHUYÊN SÂU VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
1919 – 2000
CHỦ ĐỂ 1: Trật tự thế giới theo Hệ thống Vecxai – Oasinhton và trật tự
thế giới hai cực Ianta: Điểm giống và khác nhau.
1. Những điểm giống nhau cơ bản
- Đều được thiết lập sau những cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu trong lịch
sử nhân loại.
- Đều do các cường quốc thắng trận thiết lập để phục vụ những lợi
ích cao nhất của họ.
- Đều có các tổ chức quốc tế được thành lập để giám sát và duy trì
trật tự thế giới (Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc).

2. Những điểm khác nhau cơ bản
- Giữa hai trật tự thế giới có sự khác biệt, đối lập về hệ tư tưởng và vai trò đối
với sự nghiệp cách mạng thế giới.
+ TT thế giới V- O không có sự hiện diện của Liên Xô, không có sự khác biệt
hay đối lập về hệ tư tưởng, về mục tiêu và chiến lược, không có vai trò tích cực đối với
phong trào cách mạng thế giới, trật tự V – O chỉ vì quyền lợi của các nước tư bản lớn.
+ TT thế giới hai cực Ianta có sự đối lập giữa hai hệ tư tưởng, giữa mục tiêu
và chiến lược của hai cường quốc Mĩ và Liên Xô, giữa hai hệ thống xã hội: TBCN và
XHCN. Trong đó, Liên Xô (đứng đầu hệ thống XHCN) chủ trương duy trì hòa bình, an
ninh thế giới, bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng
thế giới. Ngược lại, Mĩ (đứng đầu hệ thống TBCN) ra sức chống phá Liên Xô và các nước
XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.. Do đó, TT
hai cực Ianta có tác động tích cực đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, là
nhân tố hàng đầu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa
sau thế kỉ XX.
- Về cơ cấu tổ chức và duy trì hòa bình cũng như việc kí kết các hòa
ước với các nước bại trận hoàn toàn khác nhau. Trật tự hai cực Ianta
thể hiện sự tiến bộ và tích cực hơn hẳn.
+ Trật tự theo hệ thống Vecxai – Oasinhtơn trừng trị các nước chiến bại quá
nặng nề. Còn trật tự hai cực Ianta trừng trị các nước chiến bại thoả đáng và không quá
nặng nề.
+ Liên Hợp Quốc với vai trò là tổ chức đa phương toàn cầu mang
tính toàn diện và tiến bộ hơn hẳn so với Hội Quốc Liên (Hội Quốc
12


Liên là tổ chức của các nước lớn, Liên Hợp Quốc là tổ chức mà tất
cả các nước đều có quyền tham gia, dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu
+ Trong trật tự hai cực Ianta diễn ra cuộc đối đầu gay gắt và kéo dài
hơn 40 năm giữa Liên Xô và Mỹ làm cho tình hình thế giới luôn

căng thẳng đưa thế giới đến bên bờ vực của cuộc chiến tranh.
- Sự sụp đổ của trật tự thế giới dẫn tới hệ quả khác nhau
+ Hệ thống Vécxai – Oasinhtơn sụp đổ dẫn đến chiến tranh thế giới
thứ hai
+ Trật tự hai cực Ianta sụp đổ dẫn tới sự tan rã của Liên Xô
và kết thúc thời kì chiến tranh lạnh. Thế giới chuyển sang xu thế hòa dịu, đối thoại và hợp
tác cùng phát triển.
CHỦ ĐỀ 2 . Quan hệ quốc tế giữa nước Nga Xô viêt/ Liên Xô - các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước tư bản phương Tây - Mĩ (1919 – 1991)
1. Giai đoạn từ 1919 – 1939
* Bối cảnh lịch sử
- Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử Nga:
một chế độ xã hội mới được thiết lập với mục đích cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lợt
người, xây dựng xã hội tự do, hạnh phúc và công bằng cho mọi người. Làm phá vỡ trận
tuyến của chủ nghĩa tư bản, làm cho nó không còn là hệ thống hoàn chỉnh bao trùm thế
giới. Sự xuất hiện nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới đã tạo ra một chế độ
xã hội đối lập với hệ thống TBCN.
- Thực tiễn của Cách mạng tháng Mười Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới,
chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc.
Do đó, các nước tư bản phương Tây luôn có mưu đồ tiêu diệt nước Nga Xô
viết, chống cộng sản và đẩy lùi ảnh hưởng của nó vào phong trào cách mạng thế giới. Quan
hệ quốc tế giữa nước Nga Xô viết/ Liên Xô với các nước TBCN (Mĩ) là quan hệ đối lập.
* Biểu hiện
- Trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, các nước đế quốc tập trung
lực lượng, phối hợp hành động với mưu đồ tiêu diệt nước Nga Xô viết. Cuối tháng 11 –
1917 đại diện các nước đế quốc (trong đó 4 nước giữ vai trò chủ yếu: Anh, Mĩ, Pháp, Nhật)
họp tại Pari để bàn biện pháp thực hiện mưu đồ đó. Đến tháng 12 – 1917 các nước đại diện
tư bản thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết, thỏa thuận về việc ủng hộ
các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước Nga thành các khu vực ảnh hưởng

13


của từng nước. Theo đó, Anh nắm quyền kiểm soát các vùng Capscado, Ác-mê-nia, Grudia
và vùng Sông Đông; Pháp chiếm Bet-xa-ra-bia, Crum và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu
vực Xibia, vùng Viễn Đông...
- Từ khi chiến tranh thế giới kết thúc, các nước đế quốc tăng cường can thiệp
và giúp đỡ các thế lực phản cách mạng ở Nga, tình hình nước Nga cực kì khó khăn: quân
đội 14 nước đế quốc cấu kết với bọn phản cách mạng trong nước mở cuộc tấn công vũ
trang kéo dài trong 3 năm – từ năm 1918 đến cuối năm 1920. Trải qua cuộc chiến đấu gian
khổ, tháng 11 – 1920 Hồng quân đánh tan đội quan phản cách mạng, chấm dứt chiến sự,
nhà nước Xô viết được bảo vệ và giữ vững.
- Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lê-nin, Đại hội lần thứ nhất của các xô viết
toàn Liên bang (20 – 12 – 1922) đã tuyên bố thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô). Trong quan hệ quốc tế, Liên Xô trung thành với nguyên
tắc ngoại giao cùng tồn tại hòa bình.
+ Chính phủ Xô viết phản đối gay gắt tính chất nô dịch của các hòa ước, nhất
là Hòa ước Véc-xai. Lê-nin cho rằng “Đấy không phải là hòa ước, đấy là những điều kiện
mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận”. Năm 1922
lần đầu tiên được mời tới tham dự chính thức Hội nghị quốc tế Giê-nô-va, đoàn đại biểu
của Liên Xô đã đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung
sống hòa bình và tiến hành giải trừ quân bị, nước Nga sẵn sàng bình thường hóa quan hệ
với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau.
+ Chính quyền Xô viết từng bước thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
láng giềng ở Châu Á như I-ran, Thổ Nhĩ Kì, Mông Cổ, Trung Quốc ...và các nước châu Âu
như Ê-xtô-nia, Lít-va, Phần Lan, Ba Lan....
+ Mặc dù tồn tại trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản, Liên Xô đã kiên trì và
bền bỉ đấu tranh trong quan hệ quốc tế nhằm phá vỡ chính sách bao vây, cô lập về kinh tế
và ngoại giao của các nước đế quốc.

Bằng những biện pháp đấu tranh kiên quyết và mềm dẻo, trong vòng 4 năm
(1922 – 1925) LX đã được các cường quốc tư bản như Đức, Anh, Italia, Pháp, Nhật lần
lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1925, Liên Xô đã thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức với hơn 20 quốc gia trên thế giới. Năm 1933, Mĩ thừa nhận và
thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Điều này, là thắng lợi to lớn của nền ngoại giao
Xô viết , khẳng định uy tín ngày càng cao của Liên Xô trên trường quốc tế.
14


- Bước vào thập niên 30, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, ở châu Âu
hình thành hai khối đế quốc đối lập: phe phát xít (Đức – Italia – Nhật) và phe dân chủ (Anh
– Pháp – Mĩ). Mặc dù hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt về vấn đề thị trường thuộc địa..
nhưng đều thống nhất trong mục tiêu chung là chống Cộng sản và Liên Xô, tiêu diệt Nhà
nước XHCN.
Vì vậy, trước nguy cơ chiến tranh, Liên Xô đề nghị liên kết với Anh, Pháp
chống phát xít nhưng bị các nước từ chối. Hoa kì là nước giầu mạnh nhất, nhưng lại theo
« chủ nghĩa biệt lập » ở Tây bán cầu, không tham gia Hội Quốc liên và không can thiệp
vào các sự kiện bên ngoài châu Mĩ (Hành động này gián tiếp tiếp tay cho CNPX hoành
hành và thu lợi nhuận băng việc buôn bán vũ khí). Anh, Pháp đều có mục tiêu chung là
muốn giữ nguyên trật tự thế giới V – O và hệ thống thuộc địa của mình, giới cầm quyền A
– P - M đã từ chối liên minh với LX để chống phát xít, chủ trương thực hiện chính sách
nhượng bộ với phát xít đổi lấy hòa bình và tiêu diệt Liên Xô.
* Nhận xét
- Quan hệ quốc tế giữa Liên Xô với các nước tư bản phương Tây có bước
thăng trầm khác nhau. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản vẫn luôn thực hiện mưu đồ tiêu diệt
Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và đàn áp phong trào cách mạng thế giới. Quan hệ
giữa hai nước trong thời gian này chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
- Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, quan hệ quốc tế diễn biến
phức tạp, căng thẳng và chồng chéo giữa các lực lượng : khối phát xít – khối dân chủ và
Liên Xô. Điều này, gây lên tình trạng chiến tranh thế giới bùng nổ.

2. Giai đoạn 1939 – 1945
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ năm 1939, phe phát xít chiếm ưu thế.
Năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, hầu
hết các nước trên thế giới bị lôi cuốn vào chiên tranh. Việc thành lập một liên minh quốc tế
chống phát xít đã trở thành đòi hỏi bức thiết của lực lượng dân chủ và yêu chuộng hòa bình
trên thế giới. Cuộc chiến tranh của nhân dân Liên Xô đã làm thay đổi cục diện chính trị và
quân sự của chiến tranh. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa không chỉ nhằm bảo vệ Liên
Xô mà còn chống lại cuộc chiến tranh tàn khốc của phát xít ở châu Âu. Điều đó thúc đẩy
nhân dân Mĩ, Anh phải thay đổi thái độ với Liên Xô.
- Quan hệ giữa các cường quốc tư bản với Liên Xô thay đổi từ bất hợp tác
sang hợp tác, là đồng minh của nhau trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít
bảo vệ nền hòa bình và an ninh thế giới.
15


- Ngày 1/1/1942, đại diện 26 nước đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh đã kí kết
vào bản Tuyên bố Liên Hợp Quốc, cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế đất
nước vào cuộc chiến tranh chống phát xít và tay sai của chúng, đồng thời hợp tác chặt chẽ
với nhau, không kí kết hiệp định đình chiến hay hoà ước riêng rẽ với các nước thù địch.
Mặt trận đồng minh chống phát xít được thành lập trong đó có sự tham gia của Liên Xô và
Mĩ là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi cho cuộc chiến tranh chống phát xít và tạo
cơ sở cho việc thành lập tổ chức Liên Hợp quốc sau này.
3. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1991
* Từ năm 1945 – nửa đầu năm 1970
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, Hội nghị Thượng đỉnh Tam
cường Xô – Mĩ – Anh họp tại Ianta (2/1945) đã thông qua những quyết định quan
trọng nhằm tiêu diệt tận gốc CNPX ở châu Âu và châu Á... Về cơ bản Mĩ và LX đã đạt
được mục tiêu mà mình theo đuổi và dựa trên những đóng góp thực sự của các nước thắng
trận trong CTTG.
- Tuy nhiên, những rạn nứt chính trị trong quan hệ Xô – Mĩ ngày càng lớn,

đặc biệt trong vấn đề phân chia khu vực chiếm đóng và phạm vi ảnh hưởng ở Đức, ở Châu
Âu, đã dẫn tới tình trạng đối đầu Đông – Tây và cuộc chiến tranh lạnh trong nhiều thập kỉ
sau CT2. Do đó, quan hệ của Mĩ – Liên Xô từ quan hệ đồng minh chuyển sang quan hệ đối
đầu.
- Tình trạng mâu thuẫn Đông – Tây, xuất phát từ sự đối lập về mục tiêu và
chiến lược giữa Mĩ và Liên Xô. Liên Xô chủ trương duy trì hòa bình, an ninh thế giới, bảo
vệ những thành quả của CNXH và đẩy mạnh PTCM TG. Mĩ theo đuổi chiến lược toàn cầu
với âm mưu làm bá chủ thế giới. Mĩ ra sức chống phá LX và các nước XHCN, đẩy lùi các
phong trào cách mạng.....
+ Ngày 12 – 3 – 1947 Tổng thống Truman (Mĩ) đã thông qua Học thuyết
Truman và bản thông điệp gửi Quốc Hội chính thức phát động “chiến tranh Lạnh”. Đây là
sự kiện khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô và tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ.
+ Tháng 6 – 1947, Mĩ đã phê chuẩn “kế hoạch Macsan” với 17 tỉ USD viện
trợ cho các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế sau chiến tranh. Nhưng thực chất, nhằm chi
phối nền kinh tế của các nước TBCN, tập hợp các nước này vào liên minh chống Liên Xô
và ĐÂ. Như vậy, kế hoạch Macsan đã tạo nên sự đối lập về kinh tế và chính trị giữa các
nước TBCN với các nước XHCN.

16


+ Tháng 4 – 1949, Mĩ thành lập tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dươn
(NATO), đây là khối liên minh quân sự lớn nhất của Mĩ và các nước tư bản phương Tây,
tạo nên cuộc chạy đua vũ trang căng thẳng giữa những nước này....
+ Để đối phó với sự bao vây của các nước tư bản, Liên Xô và các nước Đông
Âu thành lập Hội đồng kinh tế (8 – 1 – 1949) và Hiệp ước hữu nghĩ, hợp tác, tương trợ
Vacsava ( 5 – 1955) nhằm tương trợ giúp đỡ các nước XHCN về kinh tế, giữ gìn an ninh,
hòa bình, củng cố tình hữu nghị sự hợp tác giữa các nước...
Như vậy, sự ra đời của hai khối quân sự NATO và Tổ chức Hiệp ước Vacsava đã
đánh dấu sự xác lập cục diện đối đầu của hai cực Ianta, hai phe TBCN và XHCN, gây lên

tình trạng Chiến tranh lạnh.
Cả hai siêu cường M – L đều chi những khoản ngân sách khổng lồ cho chạy đua
vũ trang, thành lập nhiều căn cứ quân sự, liên minh quân sự...làm cho tình hình thế giới
càng thêm căng thẳng, có lúc như sắp có chiến tranh.
Chiến tranh lạnh là sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe TBCN – XHCN do Mĩ và
LX làm trụ cột. Cuộc chiến tranh lạnh diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ chính trị đến
kinh tế, văn hóa, tư tưởng...gây lên tình trạng chiến tranh cục bộ ở nhiều khu vực như
ĐNA, ĐBA và Trung Đông...ngoại trừ xung đột trực tiếp bằng quân sự giữa Mĩ – Liên Xô.
* Từ những năm 70 đến đầu năm 90 của thế kỉ XX
Mặc dù cục diện Chiến tranh lạnh vẫn tiếp diễn nhưng bớt căng thẳng hơn.
Các vấn đề giữa Mĩ và Liên Xô từng bước được giải quyết, xu thế hòa hoãn Đông – Tây
được thiết lập, trật tự hai cực giữa Mĩ và Liên Xô tan rã.
- Trong năm 1972, M – L đã thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí chiến lược :
+ Ngày 26 – 5 – 1972 kí HƯ về hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM).
Tạo thế cân bằng về chiến lược và lực lượng quân sự, vũ khí hạt nhân giữa Mĩ – L
+ Kí HĐ hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (SALT – 1) (1972) sau đó là
SALT – 2 (1979)
+ Kí HƯ thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu (INF) (1987), HƯ cắt giảm vũ
khí chiến lược START (1991)....
- Cũng trong năm 1972, Mĩ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
(2/1972), với Liên Xô (5/1972), tạo cơ sở hòa hoãn giữa hai hệ thống TBCN và XHCN.
- Nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao giữa đại diện hai nhà nước Mĩ – LX vào những
năm 70, 80 XX đi đến việc hợp tác về kinh tế, khoa học – kĩ thuật, quân sự....Đặc biệt,
tháng 12 – 1989 trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải) Tổng
17


thống Mĩ (Bu-sơ) và Tổng bí thư Đảng Liên Xô (Goocbachop) đã chính thức tuyên bố
chấm dứt Chiến tranh lạnh.
Đây là cuộc bắt tay lịch sử làm thay đổi cục diện chính trị và quan hệ quốc

tế : chấm dứt tình trạng đối đầu căng thẳng giữa hai cường quốc M – LX, giữa hai phe
TBCN – XHCN. Mở ra chương mới trong lịch sử quan hệ giữa Mĩ – LX nói riêng và quan
hệ quốc tế nói chung từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác, hòa bình và cùng có lợi.
Như vậy, việc Mĩ và Liên Xô chất dứt Chiến tranh lạnh mở ra chiều hướng
và những điều kiện giải quyết hòa bình, tranh chấp, xung đột diễn ra ở nhiều khu vực trên
TG. Tạo cơ sở cho sự tan ra TTTG hai cực, đặc biệt khi LX và ĐÂ sụp đổ (1991) TTTG
hai cực sụp đổ. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi to lớn và phức tạp, nhưng xu thế chủ
đạo là hòa bình, hợp tác, cùng phát triển.
CHỦ ĐỀ 3. Các tổ chức Quốc tế hình thành từ năm 1919 – 2000.
I. Sự thành lập Hội Quốc Liên.
- Theo thỏa thuận của các nước tham dự Hội nghị Véc-xai, nhất trí thành lập
Hội Quốc Liên nhằm khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hòa bình và an ninh
thế giới.
- Ngày 10 – 1 – 1920 Hội Quốc Liên chính thức thành lập với 44 nước tham
gia. Nội dung hoạt động của tổ chức là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện « chế độ
ủy trị » đối với một số lãnh thổ « chưa đủ điều kiện tự quản »...Nước nào vi phạm sẽ bị
trừng phạt dưới hai hình thức : Bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội
viên bắt buộc phải thi hành) và bằng biện pháp quân sự.
- Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu
tiên, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỉ XX. Tuy nhiên, trên thực tế,
những hoạt động của Hội Quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc
chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Véc-xai, các biện phát về giải trừ quân bị và trừng phạt
chỉ mang ý nghĩa tượng trương....Do đó, Hội Quốc Liên trở thành công cụ hiệu quả của các
nước đế quốc nhằm thực hiện những tham vọng, mục tiêu phát động chiến tranh phân chia
lại thế giới.
- Trước tình trạng quan hệ quốc tế căng thẳng, chồng chéo giữa khối phát xít
với khối đế quốc và Liên Xô, Hội quốc Liên đã không giải quyết được mâu thuẫn này và
tan rã.
II. Sự thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc

18


- Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Ianta, từ ngày 25 – 4 đến 26 – 6 – 1945,
đại biểu của 50 nước họp tại Xanphranxicô (Mĩ) thống nhất thông qua hiến chương Liên
hợp quốc và tuyên bố thành lập tổ chức Liên hợp quốc (UNO).
- Mục đích : Mục đích cao cả nhất của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình, an
ninh TG, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng
nguyên tác bình đẳng và quyền tự quyết của các quốc qia, thực hiện hợp tác quốc tế về
kinh té, văn hóa, xã hội và nhân đạo.
- Nguyên tắc hoạt động
+ Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc qia và quyền tự quyết của các dân tộc.
+ Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước.
+ Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì nước nào.
+ Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
+ Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa 5 nước lớn ( Liên Xô, Mĩ, Anh,
Pháp, Trung Quốc).
- Hoạt động và vai trò của LHQ
+ Từ khi thành lập đến nay, LHQ không ngừng mở rộng số lượng thành
viên (2012: 193 nước).
+ LHQ thúc đẩy các mối quan hệ hữu nghị hợp tác giúp đỡ giữa các dân tộc
về kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo…, góp phần duy trì hòa bình an ninh TG, cố gắng
giải quyết các tranh chấp bằng phương pháp hòa bình.
Vì vậy, LHQ là tổ chức liên kết lơn nhất trên TG vừa là diễn đàn quốc tế vừa
hợp tác đấu tranh.
+ LHQ đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp,
xung đột ở nhiều quốc gia bằng phương pháp hòa bình ; thực hiện nhiều chương trình hỗ
trợ, giúp đỡ các dân tộc bị thiên tai, kém phát triển.....
- Tuy nhiên, LHQ vẫn còn một số tồn tại chưa giải quyết triệt để như : vấn
đề ô nhiễm môi trường, bệnh dịch, nạn khủng bố, tham nhũng.....đặc biệt các vấn đề tranh

chấp ở biển Đông trong năm 2014
Do đó, Liên Hợp quốc cần phải tiến hành cải cách quan trọng và thực hiện
dân chủ hóa cơ cấu tổ chức....để duy trì và thực hiện hiệu quả hơn nữa mục đích đề ra.

CHỦ ĐỀ 4. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất đến năm 2000.
Đây là chủ đề chuyên sâu, tích hợp nội dung của lịch sử thế giới nhằm làm rõ
mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc với lịch sử thế giới trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ năm
1919 – 2000. Nội dung này chúng tôi không trình bày những vấn đề thông sử mà chủ yếu
19


tập trung vào làm rõ : Vị trí, vai trò của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc
tế với những mốc sự kiện quan trọng như Cách mạng háng Tám 1945 ; Cuộc kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954) ; Cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975). Mối quan hệ Việt
Nam với các quốc gia trên thế giới, vị trí và đóng góp của Việt Nam trong việc duy trì hòa
bình và an ninh thế giới với tư cách là thành viên của tổ chức Liên Hợp Quốc...
1. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ 1919 – 1945
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, với thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga 1917 là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa
Mác-Lenin bằng con đường khác nhau đã thâm nhập vào nước ta. Đặc biệt những hoạt
động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, tư tưởng lí luận cách mạng giải phóng dân tộc được
truyền bá sâu rộng có hệ thống vào nước ta, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1930).
- Trong những năm 1930 – 1939, dưới ảnh hưởng của tình hình thế giới :
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, sự ra đời của chủ nghĩa phát xít...Đảng
Cộng sản Đông Dương đã nhanh chóng ứng phó với tình hình phức tạp của thế giới và đề
ra nghị quyết mới, điều chỉnh mục tiêu trực tiếp, sử dụng hình thức đấu tranh phù hợp...
dấy lên phong trào đấu tranh 1930 – 1931 và phong trào vận động dân chủ 1936 – 1939.
Đây là bước tập dượt, chuẩn bị điều kiện đầy đủ cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính

quyền khi thời cơ chín muồi.
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật lợi dụng mâu thuẫn
giữa các dân tộc châu Á, ngụy trang bằng chính sách « khu vực thình vượng Đại Đông Á »
lập kế hoạch xâm lược. Ngày 23 – 9 – 1940, phát xít Nhật thôn tính Việt Nam cấu kết với
Pháp cùng ra sức vơ vét bóc lột nhân dân Đông Dương....
Trước tình hình mới, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược cách mạng, xác định rõ vị trí của cách mạng Việt Nam trong chiến tranh
là bộ phận của quân Đồng minh chống phát xít trên thế giới.
- Đầu năm 1945, phát xít Đức bị Hồng quân Liên Xô tiêu diệt, phát xít Nhật
bị cô lập. Ngày 15 – 8 – 1945 Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, các nước Đồng
minh chuẩn bị vào nước ta để giải giáp quân đội Nhật, Chính phủ bù nhìn của Nhật ở Đông
Dương hoang mang lo sợ đến cực điểm... Thơi cơ cách mạng chín muồi « thời cơ ngàn
năm có một », dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và Hồ Chí
Minh cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra nhanh chóng trong cả nước. Ngày 2
– 9 – 1945 nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời.
20


Như vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam không
chỉ đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, lật đổ ách thống trị của đế quốc,
phong kiến, lập ra nước VNDCCH – một nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Á... Thắng lợi này đã góp phần đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ
hai, đưa nước ta đứng trong hàng ngũ các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa trên
thế giới...Góp phần chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc làm chúng suy yếu.
2. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ 1945 – 1975
- Cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế đầy biến động : đó
là sự phân chia khu vực chiếm đóng và khu vực ảnh hưởng sau Chiến tranh thế giới thứ
hai ; Sự hình thành trật tự thế giới mới ; Những thành tựu trong cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô....; Tình trạng mâu thuẫn Đông – Tây và cục diện chiến tranh lạnh. Sự có

mặt của các nước Đồng minh ở nước ta như Trung Hoa dân quốc, Pháp, Mĩ, Liên Xô...đưa
Việt Nam trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất, phản ảnh mâu thuẫn giữa hai phe :
TBCN và XHCN, làm cho nền độc lập dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng, kéo theo tình trạng
chiến tranh cục bộ ở Đông Dương (45 – 54), ở Việt Nam (54 – 75)... quan hệ quốc tế giữa
các nước châu Á căng thẳng, đối đầu.
- Trong bối cảnh đó, chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống TDP với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) ; trong kháng chiến
chống Mĩ với đỉnh cao cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã làm thất bại hoàn
toàn âm mưu của đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở ra kỉ
nguyên mới độc lập – tự do, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội... Chiến thắng này đã tác
động mạnh vào cục diện thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế
giới, thắng lợi đó « mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời đại sâu sắc ».

3. Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế từ năm 1975 đến 2000.
Với những thay đổi của tình hình thế giới sau khi Chiến tranh lạnh chấm
dứt, trật tự hai cực Ianta sụp đổ, từ những năm 90 XX đến nay một trật tự thế giới mới
đang trên tiến trình hình thành với xu thế chủ đạo hòa bình và ổn định ; những tác động to
21


lớn của cách mạng khoa học – kĩ thuật ; xu thế toàn cầu hóa...đã đặt ra thời cơ và thách
thức to lớn cho Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, loài người bước sang thế kỉ XXI, mặc dù còn gặp
không ít khó khăn gian khổ, các dân tộc ngày càng có tiếng nói chung, đoàn kết cùng nhau
xây dựng một thế giới hòa bình ổn định, hợp tác phát triển vì công bằng và hạnh phúc cho
mỗi người, cho mỗi dân tộc trên hành tinh.
Việt Nam dưới chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ chính

sách đối ngoại : Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Việt Nam
có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình
thường với tất cả các nước lớn. Điều này đặt ra thời cơ và những thách thức lớn đối với
Việt Nam trên con đường hội nhập.
Cơ hội : tham gia hợp tác với nhiều tổ chức hợp tác trong khu vực và thế
giới : trở thành thành viên 149 của Liên Hợp Quốc (20 – 9 – 1977) ; là thành viên thứ 7
của ASEAN (28 – 7 – 1995) ; có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, tăng cường hợp
tác kinh tế, thương mại..... Góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế,
học hỏi được kinh nghiệm của nhiều nước, tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn quốc tế giúp
Việt Nam tiến nhanh hơn trên con đường phát triển, đổi mới đất nước....
Thách thức : khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam với
các nước trong khu vực và trên thế giới ; Sự chênh lệch về trình độ kĩ thuật, công nghệ
...dẫn tới sự cạnh tranh lớn ; Sự khác biệt về chế độ chính trị, hệ tư tưởng dẫn tới cách nhìn
nhận khác nhau về an ninh, chính trị, cách tiếp cận trong giải quyết các vấn đề tranh
chấp....

PHẦN II. PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO HƯỚNG PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA KHI ÔN TẬP CHUYÊN
ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 – 2000.
Thực hiện tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại ; phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học....trong
22


chuyên đề này, chúng tôi đề cập tới phương pháp kiểm tra, đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực.
I. Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung và đánh giá

tiếp cận năng lực
STT

Đánh giá theo hướng tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực

1

Các bài thi trên giấy được thực hiện Nhiều bài kiểm tra đa dạng(giấy, thực hành,

2
3

vào cuối chủ đề, một chương, một học kì cá nhân, nhóm...)trong xuốt quá trình học tập
Nhấn mạnh sự cạnh tranh
Nhấn mạnh sự hợp tác
Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của Quan tâm đến phương pháp học tập,

4

việc dạy học
Chú trọng vào điểm số

phương pháp rèn luyện học sinh
Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm,
chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết

5
6


của sản phẩm để nhận xét
Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo
Tập trung vào kiến thức hàn lâm
Đánh giá do các cấp quản lí và do giáo Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh
viên tự đánh giá học sinh không hoặc ít giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá

7

được công nhận
chéo học sinh
Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng Đánh giá đạo đức học sinh toàn diện, chú
đến việc chấp hành nội quy nhà trường, trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích

8
9

học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân
tham gia phong trào thi đua
Đánh giá chú trọng đến kiến thức
Đánh giá kĩ năng và năng lực
Đánh giá dực theo chuẩn tuyệt đối, Đánh giá theo chuẩn tương đối, mềm dẻo

cứng nhắc
II. Giới thiệu một số câu hỏi/bài tập kiểm tra, đánh giá theo hướng
năng lực khi ôn tập cho học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử.
Cần nhận thức một cách khách quan rằng trong những năm qua việc kiểm
tra theo cách tiếp cận nội dung (chủ yếu kiểm tra kiến thức, kĩ năng) thực chất chúng ta
mới đánh giá được năng lực học tập của học sinh. Bởi lẽ, năng lực là tổng hợp kiến thức,
kĩ năng, thái độ cùng những phẩm chất, năng lực khác. Nếu quan niệm năng lực là một

dải, thì kiến thức là giai đoạn đầu của dải năng lực, kĩ năng là dải tiếp theo, do đó trong
học tập và kiểm tra, đánh giá lịch sử việc học sinh ghi nhớ kiến thức, trình bày một cuộc
23


khỏng chin, chin dch, hay lp bng niờn biu....m chỳng ta cha nhn mnh vn
nng lc v trong thc tin kim tra, ỏnh giỏ mụn Lch s.
Mt khỏc, theo ỏn i mi cỏch thc ra , cỏch kim tra, ỏnh giỏ ca
B GD T trong t thi tt nghip v thi i hc va qua (nm 2014), t l nhng cõu
hi mc vn dng ó th hin rừ nht nng lc, phm cht ca hc sinh. iu ny,
c B GD T cõn i ỳng mc v chim t l phự hp, cõn i vi nhng cõu hi
mc hiu bit nụi dung lch s.
Vỡ vy, trong chuyờn ny chỳng tụi gii thiu mt s cõu hi/bi tp kim
tra, ỏnh giỏ theo hng nng lc ca chuyờn : Quan h quc t t nm 1919 n nm
2000.
Cõu 1. Nờu nột c trng ni bt ca Quan h quc t trong cỏc giai on :
1919 1939 ; 1939 1945 ; 1945 2000. Hóy lớ gii nguyờn nhõn dn ti tỡnh trng quan
h quc t din bin phc tp, m rng v a dng trong na sau th k XX.
Cõu 2. Trình bày khái quát bối cảnh quốc tế những năm 1929-1939 để làm
rõ con đờng dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nêu nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX.
Cõu 3. Nờu nhng s kin ln ca lch s th gii trong nhng nm 30 ca
th k XX v nh hng ca nú ti tỡnh hỡnh Vit Nam.
Cõu 4. Nhn xột v Lch s th gii giai on 1945 2000, SGK Lch s
lp 12 cú on vit : ô Ch trong vũng na th k, tỡnh hỡnh th gii ó thc s sụi ng vi
bao din bin dn dp, em li nhng thay i to ln v c nhng o ln y bt ng ằ
(NXB Giỏo dc Vit Nam, 2012, Tr.71)
í kin ca em v vn trờn. Nhõn t no chi phi quan h quc t trong
phn ln na sau th k XX l gỡ ? Nhõn t ú nh hng n tỡnh hỡnh nc ta nh th
no ?

Cõu 5. S phõn chia khu vc nh hng v xung t ụng Tõy din ra
nh th no chõu u t sau chin tranh th gii th hai n nhng nm 70 ca XX. Nờu
nhn xột v tỡnh trng ú.
Cõu 6. S phõn chia khu vc nh hng v xung t ụng Tõy din ra
nh th no chõu t sau chin tranh th gii th hai n nhng nm 70 ca XX. Nờu
nhn xột v tỡnh trng ú.

24


Câu 7. Vì sao, quan hệ giữa Mĩ và Liên Xô chuyển từ quan hệ đồng minh
chống phát xít sang tình trạng đối đầu căng thẳng sau Chiến tranh thế giới thứ hai?
Câu 8. Vì sao Mĩ và Liên xô chấm dứt chiến tranh lạnh? Những biểu hiện xu
thế phát triển của thế giới sau thời kì chiến tranh lạnh. Hãy phát biểu suy nghĩ của em về
xu thế trật tự thế giới mới hiện nay.
Câu 9. Vì sao trong thời kì 1954 – 1975, Việt Nam trở thành nơi diễn ra
cuộc đụng đầu lịch sử mang tính chất thời đại và có tầm vóc quốc tế to lớn ?
Câu 10. Trước những vấn đề nóng bỏng trong quan hệ quốc tế ở Biển Đông,
theo em, tổ chức Liên Hợp Quốc, « Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á » (ASEAN) và
Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ gì trong việc giải quyết vấn đề trên.
III. Giới thiệu một số câu hỏi có hướng dẫn chấm, đáp án
Câu 1 (3,0 điểm)
Nêu nét đặc trưng nổi bật của Quan hệ quốc tế trong các giai đoạn : 1919 –
1939 ; 1939 – 1945 ; 1945 – 2000. Hãy lí giải nguyên nhân dẫn tới tình trạng quan hệ quốc
tế diễn biến phức tạp, mở rộng và đa dạng trong nửa sau thế kỉ XX.
Câu

Đáp án
a. Nét đặc trưng nổi bật của Quan hệ quốc tế....
* Giai đoạn từ 1919 – 1939 : hòa bình được lặp lại giữa các nước nhưng

chỉ là tạm thời và mong manh với diễn biến phức tạp, chồng chéo.
( HS cần có dẫn chứng cụ thể)
* Giai đoạn từ 1939 – 1945 : Sự liên minh giữa các quốc gia với nhau
trong khối Đồng minh chống phát xít bảo vệ hòa bình, an ninh thế giới.
( HS cần có dẫn chứng cụ thể)
* Giai đoạn từ 1945 – 2000 : Quan hệ quốc tế diễn biễn phức tạp,
được mở rộng và đa dạng.
- Từ năm 1945 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX : TTTG mới
hình thành: TT hai cực Ianta, mâu thuẫn Đông – Tây căng thẳng đối đầu
giữa hai siêu cường, hai phe TBCN (Mĩ) và XHCN (LX) ...Điều này chi
phối nền chính trị TG và các quan hệ quốc tế
- Từ đầu 70 đến năm 1991 : Xu thế hòa hoãn Đông – Tây, chiến tranh
lạnh kết thúc....
- Từ năm 1991 đến năm 2000 : TTTG mới lại đang trong quá trình
hình thành với nhiều thay đổi to lớn và phức tạp.....
Song xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế hiện nay là xu thế hòa bình,
hợp tác và cùng phát triển...
b. Nguyên nhân.....
25

Điểm


×