Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

LỰA CHỌN vấn đề dạy và PHƯƠNG PHÁP ôn tập CHO học SINH GIỎI QUỐC GIA KHI GIẢNG dạy CHUYÊN đề QUAN hệ QUỐC tế từ năm 1919 đến năm 2000 (3)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.65 KB, 32 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
LỰA CHỌN NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA
KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919- 2000)

LỜI GIỚI THIỆU
Quan hệ quốc tế (1919 – 2000), là một đề tài khó trong ôn tập và bồi dưỡng
HSGQG môn lịch sử ở trường phổ thông. Trong các kì thi chọn HSG Quốc Gia môn Lịch sử
những năm gần đây, cấu trúc đề thi hay đề cập đến vấn đề quan hệ quốc tế thời hiện đại gây
không ít khó khăn lúng túng cho học sinh cũng như giáo viên dạy phần này.
Để giải quyết khó khăn đó, tôi đã tập hợp tài liệu để viết lên đề tài : “ Lựa chọn nội
dung và phương pháp ôn tập cho Học sinh giỏi Quốc gia khi giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc
tế (1919-2000)”, nhằm cung cấp cho giáo viên bồi dưỡng và Học sinh dự thi HSG Quốc gia môn
Lịch sử những kiến thức và phương pháp căn bản khi giảng dạy và học tập phần này. Nội dung
đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Nội dung Quan hệ quốc tế từ 1919 – 2000
Phần 2: Phương pháp giảng dạy Quan hệ quốc tế (1919 – 2000)
Phần 3: Một số câu hỏi ôn tập
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song Quan hệ quốc tế (1919-2000) là một vấn đề khó
nên đề tài Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho Học sinh giỏi Quốc gia khi giảng
dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế (1919-2000) không thể tránh khỏi những thiếu xót và cần bổ
sung them. Tôi rất mong nhận được những bổ sung góp ý của các đồng nghiệp để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC

PHẦN 1: KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 ĐẾN 2000
I. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 1919 – 1939


I.1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn
I.2. Quan hệ quốc tế trong những năm 1919 – 1929.
I.3. Quan hệ quốc tế dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai 1929 – 1939.
I.3.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục
I.3.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít.
II. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)
III. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1991
III.1. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949)
III.1.1. Hội nghị Ianta (2/1945)
III.1.2. Sự thành lập Liên hợp quốc.
III.1.3. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập.
III.2. Chiến tranh lạnh
III.2.1. Học thuyết Truman và sự khởi đầu chiến tranh lạnh
III.2.2. Một số diễn biến của chiến tranh lạnh
III.2.2.1. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa
III.2.2.2. Các cuộc chiến tranh cục bộ
III.2.3. Xu thế hoà hoãn Đông - Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt
III.3. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta
IV. QUAN HỆ QUỐC TẾ SAU CHIẾN TRANH LẠNH - MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI
ĐANG DẦN HÌNH THÀNH
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919 – 2000)
PHẦN 3: MỘT SỐ CÂU HỎI VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919 – 2000)
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


ĐỀ TÀI
Lựa chọn nội dung và phương pháp ôn tập cho Học sinh giỏi Quốc gia khi

giảng dạy chuyên đề Quan hệ quốc tế (1919-2000)
PHẦN 1: KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ 1919 ĐẾN 2000
Quan hệ quốc tế là một khái niệm rất rộng, có rất nhiều cách quan niệm khác nhau. Theo
nghĩa chung nhất chúng ta có thể hiểu Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các nước lớn, hoặc
những mối quan hệ chủ đạo của thế giới ở một thời điểm nhất định chi phối tất cả các mối quan
hệ khác. Các mối quan hệ khác đều nằm trong và chịu sự ràng buộc, chi phối của mối quan hệ
chính chủ đạo đó.
Trong thế kỉ XX, thế giới trải qua rất nhiều biến động với những diễn biến phức tạp của
quan hệ quốc tế, phản ánh tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn, chi phối đến tình
hình thế giới đương thời. Nhân loại trong thế kỉ XX đã trải qua hai trật tự thế giới chủ đạo dựa
trên hai hệ thống: Hệ thống hoà ước VecXai – Oasinhtơn (1919 – 1939) và hệ thống hai cực
Ianta (1945 – 1991). Cùng với đó là quan hệ quốc tế trong thời gian cuộc chiến tranh thế giới thứ
2 (1939-1945) và từ năm 1991 đến nay sau khi trật tự 2 cực Ianta đổ vỡ quan hệ quốc tế phát
triển theo một chiều hướng mới với rất nhiều điểm khác biệt so với quan hệ quốc tế trong các
giai đoạn trước đó. Bây giờ chúng ta cùng đi tìm hiểu cụ thể về quan hệ quốc tế từ năm 1919 đến
nay để thấy được những nét cơ bản trong quan hệ quốc tế và những chi phối của quan hệ quốc tế
đến những mối quan hệ khác.
I. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 1919 – 1939
I.1. Hệ thống hoà ước Vecxai – Oasinhtơn
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã họp hội nghị hoà
bình ở Vécxai (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp) để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hoà
bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội nghị khai mạc ngày 18/1/1919 và kéo dài suốt năm sau.
Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển to lớn.
Thứ nhất, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã chọc thủng khâu
yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, chiếm 1/6 diện tích trái đất. “Chủ nghĩa tư
bản không còn là 1 một hệ thống duy nhất trên thế giới nữa và một nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới đã xuất hiện. Cuộc cách mạng tháng Mười đã ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện
toàn thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới và đe doạ sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề được đặt ra đối với giới cầm quyền các nước tư bản là làm
sao tiêu diệt được nước Nga Xô viết để duy trì sự ổn định của chủ nghĩa tư bản” [1; .66]

Thứ hai, do hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và ảnh hưởng sâu sắc của cuộc
cách mạng tháng Mười Nga, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong
3


những năm 1918 – 1923 ở hầu hết các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc. Cũng vì
thế mục tiêu của giới cầm quyền các nước tư bản khi tham gia hội nghị đều có 1 điểm chung là
tìm cách đàn áp và chống lại cao trào cách mạng thế giới.
Thứ ba, chiến tranh đã tàn phá nghiêm trọng các nước tham chiến ở châu Âu và làm thay
đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng giữa các nước tư bản sau chiến tranh: ba nước đế quốc
lớn Đức, Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kì bị bại trận và suy sụp tan rã; các nước thắng trận Anh, Pháp,
Ytalia, Nhật Bản cũng bị suy yếu nghiêm trọng; riêng nước Mĩ vì tham gia chiến tranh muộn, thu
về 24 tỉ đô la trong việc buôn bán vũ khí nên đã vươn lên hàng đầu về kinh tế, tài chính và cũng
có 1 tiềm năng quân sự đáng kể, vì thế trong hội nghị Vécxai, Mĩ là nước có tiếng nói quan trọng
nhất, là chủ nợ của các nước châu Âu.
Tham dự hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận nhưng thực sự nắm quyền quyết
định hội nghị là 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp. Các cường quốc thắng trận đều có những ý đồ và
tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập một trật tự thế giới sau chiến tranh,
do đó hội nghị Vecxai đã diễn ra hết sức gay go quyết liệt. Mĩ là nước thu nhiều lợi nhuận nhất
trong chiến tranh thế giới I và sau chiến tranh Mĩ trở nên phát triển mạnh mẽ nhất, do vậy Mĩ
muốn xác lập địa vị bá chủ thế giới bằng chương trình 14 điểm của tổng thống Mĩ Uynxơn gửi
cho Hội nghị Vecxai, trước khi Hội nghị Vécxai diễn ra. Do vậy các bên tham chiến đã nhận
đình chiến theo chủ trương của Mĩ và chương trình 14 điểm của Uynxơn được coi là nguyên tắc
để thảo luận tại hội nghị Vécxai. Pháp lúc bấy giờ có lực lượng lục quân mạnh nhất châu Âu,
muốn làm suy yếu lâu dài nước Đức để làm bá chủ châu Âu lục địa. Anh thì thi hành chính sách
“cân bằng lực lượng”. Lập trường của Anh muốn làm suy yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu hệ
thống thuộc địa của Đức, đồng thời duy trì 1 nước Đức tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu để
chống lại âm mưu làm bá chủ lục địa của Pháp. Chính sách này của Anh được Mĩ ủng hộ. Nhật
Bản muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc, mở rộng thế lực của mình ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ của mình xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Ban

Căng …. Tóm lại các nước chiến thắng đều tuỳ theo lực lượng và yêu cầu của mình muốn tổ
chức lại thế giới sao cho phù hợp với quyền lợi của mình nhất, nhằm giành lấy những lợi lộc béo
bở nhất. Lênin đã bình luận 1 cách châm biếm về hội nghị Vecxai : “Chúng đã cãi cọ nhau từ 5
tháng nay, chúng không còn kìm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi
chỉ còn lại cái đuôi” [2; 303].
Sau 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi bất đồng, cuối cùng các cường quốc thắng trận
đã cố gắng tìm cách thoả hiệp với nhau và các văn kiện của Hội nghị Vecxai trước sau đều được
kí kết với những nội dung chính sau.
*Hội quốc liên
Quy ước thành lập Hội quốc liên nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là nhằm: phát triển sự
hợp tác, đảm bảo hoà bình và an ninh cho các dân tộc và để thực hiện mục đích cao cả đó người
4


ta đã đề ra 1 số nguyên tắc như không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ
quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế …. Như vậy Hội
quốc liên được thành lập trước hết nhằm giữ gìn trật tự của thế giới tư bản chủ nghĩa do các đế
quốc chiến thắng sắp xếp lại trong Hội nghị Vecxai, là kết quả của sự dung hoà các mâu thuẫn
trong phe đế quốc chủ nghĩa về việc phân chia lại thế giới sau chiến tranh. Tóm lại Hội Quốc liên
chỉ tồn tại về mặt hình thức còn hiệu quả hoạt động của nó rất hạn chế.
*Hoà ước Vec – xai với Đức.
Đức là nước lớn nhất trong phe Liên minh, thủ phạm chính gây ra chiến tranh thế giới lần 1 nên
hoà ước kí kết với Đức có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo Hoà ước Vécxai về Đức, Hoà ước
này xác định sự thất bại của Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, gồm các điều khoản chủ yếu
về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và bồi thường chiến tranh. Theo Hoà ước Vecxai, nước Đức mất
1/8 đất đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng
thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Đây là những thiệt hại quá sức chịu đựng của nước Đức.
Lênin nói: “Nó đặt nước Đức vào cảnh nô lệ mà người ta chưa từng nghe thấy, chưa từng trông
thấy”
*Những hoà ước khác:

Ngoài hoà ước Vecxai kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt được kí kết với các nước
Đồng minh của Đức trong 2 năm 1919 – 1920, đó là hoà ước Xanh Giécmanh kí với Áo, hoà ước
Nơiy kí với Bungari, Hoà ước Trianông kí với Hunggari và hoà ước Xevrơ kí với Thổ Nhĩ Kì.
Nội dung chung của các hoà ước đó là các nước Đồng minh của Đức phải bồi thường chiến phí,
bị tước bỏ thuộc địa, và phải bồi thường 1 phần lãnh thổ hoặc chia cắt quốc gia.
Chúng ta thấy rằng những hoà ước mà các nước thắng trận buộc các nước bại trận kí kết
đều mang tính chất nô dịch. Lênin đã bình luận: “Đấy là một thứ hoà ước kì quái, một thứ hoà
ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những người văn minh nhất, rơi
vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là 1 hoà ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp
tay cầm dao, buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận….” [3; 396]
Hội nghị Vecxai kết thúc, hệ thống hoà ước Vecxai được kí kết nhưng cả 2 phe chiến
thắng lẫn chiến bại đều không thoả mãn, đặc biệt là Mĩ. Mĩ không công nhận sự phân chia thế
giới mới được quy định trong hệ thống hoà ước Vecxai và Mĩ muốn mở 1 hội nghị riêng rẽ để
quy định lại các điều khoản theo hướng có lợi cho mình. Tháng 11/1921, Mĩ mời 8 nước là Anh,
Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị ở Oasinhtơn. Những
nghị quyết quan trọng nhất của hội nghị Oasinhtơn được thể hiện trong 3 bản hiệp ước quan
trọng nhất.
Thứ nhất, hiệp ước 4 nước kí ngày 3/12/1921 gồm Mĩ, Anh, Nhật, Pháp với tên gọi:
“Hiệp ước cùng đảm bảo không xâm phạm đến các đảo thuộc địa ở Thái Bình Dương”.

5


Thứ hai, Hiệp ước 9 nước, kí ngày 6/2/1922 công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh
thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc”, đồng thời cũng nêu nguyên tắc mở rộng cửa Trung
Quốc cho các nước tư bản vào buôn bán trên cơ sở bình đẳng.
Thứ ba, cũng trong ngày 6/2/1922, 5 cường quốc tư bản chủ nghĩa là Mĩ, Anh, Nhật,
Pháp, Ytalia kí với nhau bản hiệp ước gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm quy
định tỉ lệ hải quân cho mỗi nước. Theo đó, Mĩ và Anh có tỉ lệ hải quân ngang nhau, tiếp đó là
Nhật rồi Pháp và Italia.

Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Trước áp lực của Mĩ, Nhật phải từ bỏ 1
phần ưu thế khá lớn đã giành được trong chiến tranh thế giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải
nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng về hải quân và huỷ bỏ Liên minh Anh Nhật ( nhằm chống
lại Mĩ). Như thế Mĩ nắm được thị trường viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân
của mình lên hàng đầu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc khác nhất là Nhật.
Như vậy trong những năm 1919 – 1922, trên cơ sở của hiệp ước Vecxai và hoà ước
Oasinhtơn, đã hình thành nên một trật tự thế giới mới theo những điều khoản của hệ thống hoà
ước Vecxai – Oasinhtơn. Tuy nhiên, hệ thống hoà ước này không những không xoá bỏ được
những mâu thuẫn giữa các nước tư bản trước khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra mà còn làm
nảy sinh thêm những mâu thuẫn bất đồng mới. Đó là mâu thuẫn giữa các nước thoả mãn với các
nước không thoả mãn với hệ thống hoà ước này. Các nước thắng trận trước hết là Anh, Pháp, Mĩ,
Ytalia, Nhật Bản giành được nhiều quyền lợi về kinh tế và xác lập sự áp đặt nô dịch với các nước
bại trận. Các nước bại trận đặc biệt là Đức do bị thiệt hại và nô dịch quá nặng nề trở nên bất mãn
với hệ thống hoà ước này và nuôi dưỡng âm mưu phục thù, xoá bỏ hoà ước. Ngay trong các
nước thắng trận cũng xuất hiện những mâu thuẫn giữa các nước với nhau do bất đồng về quyền
lợi. Nhật Bản và Ytalia, tuy là nước thắng trận nhưng cảm thấy không thoả mãn với những gì
giành được sau khi chiến tranh kết thúc như lời hứa hẹn của Anh, Pháp, Mĩ. Nhật Bản thì bị thu
hẹp quyền lợi ở Trung Quốc, châu Á Thái Bình Dương; còn Ytalia không thực hiện được tham
vọng kiểm soát vùng Địa Trung Hải và khu vực Ban Căng, khôi phục được 1 đế quốc La Mã như
trước kia. Do vậy Nhật Bản và Ytalia muốn xoá bỏ hoà ước này và nuôi dưỡng âm mưu phát
động chiến tranh chia lại thế giới.
Mặc dù mâu thuẫn gay gắt với nhau, nhưng tất cả các nước đế quốc đều thống nhất trong
việc tiêu diệt nước Nga Xô Viết (từ 1922 là Liên Xô), vì cho rằng Liên Xô là 1 mối hiểm hoạ, đe
doạ đến sự tồn vong của chủ nghĩa đế quốc. Mặc dù không phải là một nội dung của hoà ước
Vecxai-Oasintơn nhưng vấn đề Liên Xô cũng là 1 yếu tố quan trọng chi phối đến quan hệ quốc tế
trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 – 1939).
Tóm lại, hệ thống hoà ước Vecxai-Oasinhtơn, không đảm bảo hoà bình cho các dân tộc
và thế giới, mà trái lại làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc. Nguyên soái
Phốc, nguyên tổng tư lệnh quân đội Đồng minh ở châu Âu đã nói: “Đây không phải là hoà bình.
6



Đây là một cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc sau chiến
tranh thế giới I vẫn đang cháy âm ỉ và chỉ trở cơ hội là bùng cháy.
I.2. Quan hệ quốc tế trong những năm 1919 – 1929.
Trong mười năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa tư bản phát triển qua
hai thời kì:
Thời kì thứ nhất (1919 – 1923): Là thời kì khủng hoảng về kinh tế, bất ổn về chính trị.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do hậu quả của chiến tranh tất cả các nước tư bản dù là thắng
trận hay bại trận ( trừ Mĩ) đều lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, và bất ổn về chính trị do
phong trào công nhân trong nước và phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa dâng cao.
Chính quyền các nước tư bản đều rất lao đao, tốn nhiều công sức để đối phó với tình trạng trên,
tình thế cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nước tư bản (Anh, Pháp), ở Đức đã thiết lập được nền
cộng hoà Vai-ma. Tuy nhiên cuối cùng chính quyền các nước tư bản cũng giải quyết được khủng
hoảng về kinh tế, đàn áp phong trào cách mạng để đưa đất nước phát triển ổn định trong giai
đoạn sau.
Thời kì (1924-1929): Là thời kì các nước tư bản bước vào thời kì ổn định về chính trị và
đạt mức tăng trưởng cao về kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển kinh tế diễn ra không đồng đều giữa
các nước tư bản.
I.3. Quan hệ quốc tế dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai 1929 – 1939.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định
của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về 1 kỉ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng
bắt đầu từ nước Mĩ đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, đặt chủ nghĩa tư bản trước
ngưỡng cửa của sự suy vong nếu không có những điều chỉnh hợp lí. Những mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản vốn đã tồn tại trước đó nay trở nên cực kì gay gắt.
Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con
đường phát triển để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng giữa các nước TBCN. Các nước
không có, hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo
con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm

cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Theo Đimitrôp nhà lãnh đạo phong trào
cộng sản và phong trào công nhân Bungari và Quốc tế cộng sản thì chủ nghĩa phát xít là “nền
chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ
nghĩa nhất của tư bản tài chính”. Nó thay thế chế độ dân chủ tư sản đại nghị bằng nền thống trị
độc tài tàn bạo nhất của các tập đoàn đại tư sản. Nó hoàn toàn không phải là sự vùng dậy của giai
cấp tiểu tư sản như các đảng này tuyên truyền hòng lôi kéo đông đảo thanh niên, học sinh, sinh
viên tham gia bị biến thành lực lượng xung kích của chúng. Do vậy chủ nghĩa phát xít không chỉ
mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội mà đối lập với tất cả các lực lượng đấu tranh cho hoà bình và
7


dân chủ, chống chiến tranh đế quốc. Ba nước Đức, Ý, Nhật điển hình cho xu hướng này. Trong
những năm 1929 -1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều
khoản chủ yếu của hệ thống Vecxai-Oasinhtơn và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân
chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mĩ, Anh, Pháp tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng
những cải cách kinh tế, xã hội, duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì
nguyên trạng hệ thống Vecxai – Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên
30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành 2 khối đế quốc đối lập: một bên là khối phát
xít Đức, Ý, Nhật với một bên là khối các nước tư bản dân chủ Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua
vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp Vecxai-Oasinhtơn, dẫn tới sự hình thành các
lò lửa chiến tranh, báo hiệu nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
I.3.1. Sự hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và phe trục
a. Lò lửa chiến tranh ở Nhật.
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống V-O bằng sức mạnh quân sự.
Từ năm 1927, thủ tướng Nhật Tanaca đã vạch 1 kế hoạch chiến tranh toàn cầu khẳng định phải
dùng chiến tranh để xoá bỏ những bất công mà mà Nhật phải chấp nhận trong các hiệp ước
Oasinhtơn và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới.
Năm 1931, Nhật Bản tấn công vùng Đông Bắc Trung Quốc biến vùng này thành thuộc địa và lập
ra nhà nước “Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu. Việc Nhật Bản
xâm lược vùng Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương

Tây, nhất là Mĩ. “Tuy nhiên, Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động
xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và
tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô” [4; 144]. Hội Quốc Liên đã cử phái đoàn điều tra đến
Trung Quốc nhưng đã không đưa ra được 1 hình phạt nào đối với Nhật. Sau đó Nhật Bản tiếp tục
mở rộng xâm lược Trung Quốc. Để có thể tự do hành động tháng 3/1933 Nhật Bản tuyên bố rút
khỏi Hội Quốc Liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông Á do hiệp ước
Oasinhtơn năm 1922 quy định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của hệ thống Vécxai-Oasintơn. Từ
năm 1937 Nhật Bản bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
b. Lò lửa chiến tranh ở Đức.
Do nước Đức bị thiệt hại quá nặng nề sau chiến tranh thế giới I, do vậy lực lượng quân
phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước
Vec-xai. Tháng 1/1933, Hit-le lãnh tụ của Đảng Quốc gia Xã hội Đức nên nắm quyền tổng thống
đã mở ra 1 thời kì đen tối trong lịch sử nước Đức. Về đối nội, Hit-le đã tiến hành thủ tiêu nền
dân chủ trong nước, đặt Đảng cộng sản Đức ra ngoài vòng pháp luật, xây dựng một nước Đức
theo đường lối quân sự hoá để chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Về đối ngoại Hit-le, thực hiện
chính sách xâm lược đối với tất cả các nước nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ toàn cầu. Để tự do
hành động, năm 1933, Đức tuyên bố rút khỏi Hội Quốc Liên. Tháng 5/1935, Hit-le công khai vi
8


phạm hoà ước Vec-xai, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân thành lập 36 sư đoàn. Không
dừng lại ở đó, tháng 3/1936, Hít-le ra lệnh tái chiếm vùng Rênani, công khai xoá bỏ hoà ước
Vec-xai, tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện tại châu
Âu.
c. Lò lửa chiến tranh ở Ý.
Mặc dù là nước thắng trận trong Thế chiến I, nhưng Ý không thoả mãn với việc phân
chia thế giới theo hệ thống Hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Tháng 10/1922, Mutxôlini thủ lĩnh Đảng
phát xít Ý lên nắm quyền thủ tướng, đưa lịch sử nước Ý bước vào thời kì đen tối. Sau khi nắm
chính quyền, Mutxôlini tiến hành thủ tiêu mọi quyền tự do, dân chủ trong nước, chống lại Đảng
cộng sản. Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giới cầm quyền phát xít ở Ý

chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành
trướng xâm lược ra bên ngoài. Từ năm 1934, Mutxôlini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược
thuộc địa, ban hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Tháng 10/1935, Ý chính thức tiến hành chiến
tranh xâm lược Êtôpia, năm 1936 tiến hành can thiệp chống nước cộng hoà Tây Ban Nha. Để
được tự do hành động, tháng 12/1937, Ý tuyên bố rút khỏi hội Quốc Liên. Lò lửa chiến tranh thứ
2 đã hình thành ở châu Âu.
d. Sự hình thành khối trục phát xít Đức – Ý - Nhật (11/1937)
Với sự hình thành của ba lò lửa chiến tranh ở Đức, Ý, Nhật nhân loại đang đứng trước
nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới. Mặc dù có những bất đồng, mâu thuẫn với nhau
nhưng cả Đức, Ý Nhật đều muốn phát động chiến tranh để chia lại thế giới xoá bỏ trật tự thế giới
được thiết lập trên cơ sở những quy định của hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Ngoài ra cả ba nước
này đều có chung một mục tiêu là tiêu diệt nước Liên Xô – xã hội chủ nghĩa. Để tăng thêm sức
mạnh, đảm bảo cho những thắng lợi trong tương lai, ba nước Đức, Ý, Nhật đã quyết định xích lại
gần nhau. Tháng 10/1936, Ý đã kí với Đức bản nghị định thư đánh dấu sự hình thành trục Béclin
– Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Ý tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu
với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu
bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25/11/1936, Đức và Nhật kí
Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản, cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các
biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh,
Pháp, Mĩ. Ngày 6/11/1937, Ý tham gia hiệp ước này. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít BéclinRôma-Tôkiô chính thức hình thành. Từ đây quan hệ quốc tế bước vào một thời kì mới căng
thẳng hơn, phức tạp hơn, trục phát xít đã chính thức ra đời đặt nhân loại đung đưa trước miệng
hố chiến tranh. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đó có xảy ra hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào
thái độ chống phát xít của Liên Xô và các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ.
I.3.2 Thái độ của Liên Xô, Anh, Pháp, Mĩ đối với phe phát xít.

9


Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XIX, quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và
căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình

thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là khối Trục phát xít do Đức, Ý, Nhật cầm đầu; hai là
khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục ráo riết chuẩn bị kế hoạch chiến
tranh ngay từ đầu những năm 30, thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ mới bắt đầu quá trình này vào
những năm cuối của thập niên 30. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
Ngay sau khi phát xít hoá bộ máy chính quyền và đặc biệt sau khi đã liên kết với nhau
trong phe Trục, các nước phát xít Đức, Ý, Nhật công khai tiến hành chiến tranh xâm lược mở
rộng lãnh thổ, phá vỡ trật tự của hoà ước Vecxai-Oasinhtơn. Trước tình hình đó, thái độ của Lên
Xô và các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ hoàn toàn khác nhau. Trong khi Liên Xô kiên
quyết chống lại những hành động xâm lược, phá hoại hoà bình thế giới của phe phát xít, kêu gọi
các nước Anh, Pháp, Mĩ cùng hợp tác để thực hiện thì các nước Anh Pháp, Mĩ lại có những hành
động đi trái ngược lại với thiện chí của Liên Xô. Các nước này không muốn hợp tác cùng Liên
Xô chống phát xít mà thi hành chính sách thoả hiệp, nhượng bộ làm ngơ trước những hành động
xâm lược của chủ nghĩa phát xít để cho các nước phát xít tự do hành động với mưu đồ hướng
mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít để tiêu diệt nước Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Một loạt các
sự kiện diễn ra nửa cuối thập niên 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ điều này.
Khi phe phát xít xâm lược Tiệp Khắc năm 1938, đòi chiếm vùng Xuy-đét, trong khi Liên
Xô ra sức kêu gọi Anh, Pháp cùng hợp sức để chống lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ Tiệp Khắc
nhưng các nước Anh, Pháp đã phớt lờ đề nghị trên. Ở hội nghị Muy-nich (9/1938), Anh, Pháp đã
đồng ý cho Đức cắt vùng Xuy-đet của Tiệp Khắc sáp nhập vào lãnh thổ của mình, và gây áp lực
buộc chính phủ Tiệp Khắc phải chấp nhận Hiệp ước trên. Để đổi lại Đức kí với Anh, Pháp những
Hiệp ước đảm bảo không xâm phạm nhau nhưng đó chỉ là thủ đoạn chính trị của Hit-le, còn sau
này khi chiến tranh xảy ra diễn biến của nó đã hoàn toàn đi ngược lại với sự suy tính của Anh,
Pháp.
Trước hành động mở rộng xâm lược toàn Trung Quốc của Nhật Bản từ năm 1937, các
nước Anh, Pháp, Mĩ cũng không có hành động gì cụ thể để ngăn chặn mà tiếp tục thi hành chính
sách thoả hiệp nhượng bộ đối với Nhật Bản. Sau đó Anh, Pháp còn rất nhiều hành động thoả
hiệp nhượng bộ để cho phe phát xít tự do hành động phát triển lực lượng.
Như vậy giữa Liên Xô với các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp, Mĩ đã không có một tiếng
nói và hành động chung để chống lại sự phát triển của chủ nghĩa phát xít. Chính sách thoả hiệp
nhượng bộ mù quáng của Anh, Pháp, Mĩ nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh của phe phát xít sang

tiêu diệt Liên Xô đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít lớn mạnh nhanh chóng, gấp rút chuẩn bị
tiến hành cuộc chiến tranh nhằm phân chia lại thế giới. Tháng 9/1939 chiến tranh thế giới thứ hai
nổ ra chấm dứt sự tồn tại của trật tự thế giới theo khuôn khổ của hoà ước Vecxai – Oasinhtơn.

10


Qua diễn biến của quan hệ quốc tế từ 1919-1939, chúng ta thấy rằng nguyên nhân sâu xa
hay nguồn gốc của chiến tranh thế giới thứ hai là do quy luật phát triển không đồng đều về kinh
tế, chính trị giữa các nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sự phát triển không đồng đều
đó đã làm cho so sánh lực lượng trong thế giới tư bản chủ nghĩa thay đổi căn bản, làm cho việc
tổ chức và phân chia thế giới theo hệ thống Vecxai-Oasinhtơn do kết quả của chiến tranh thế giới
thư nhất không còn phù hợp nữa.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929-1933 làm những mâu thuẫn giữa các nước tư bản càng trở nên gay gắt, dẫn tới việc
lên cầm quyền của chủ nghĩa phát xít ở 1 số nước với ý đồ phát động chiến tranh để phân chia lại
thế giới.
Thủ phạm gây chiến là phát xít Đức, quân phiệt Nhật Bản và phát xít Ytalia. Nhưng các
cường quốc phương Tây do chính sách hai mặt của họ đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây ra
chiến tranh thế giới thứ hai tàn sát nhân loại nên các nước này cũng phải chịu một phần trách
nhiệm trong việc để xảy ra chiến tranh thế giới thứ hai
II. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)
Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến
với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng nổ. Chiến tranh thế giới thứ hai (19391945) là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh lan rộng khắp
toàn cầu, diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Xô - Đức, mặt trận Bắc Phi, mặt
trận châu Á - Thái Bình Dương và một mặt trận rộng lớn là cuộc đấu tranh bí mật trong lòng
địch của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng. Trong 6 năm xảy ra chiến tranh, trải qua các
giai đoạn diễn biến gay go, quyết liệt, quan hệ quốc tế chuyển hoá rất phức tạp. Có thể chia chiến
tranh thế giới thứ hai thành hai giai đoạn xét theo tính chất của cuộc chiến tranh.
Giai đoạn 1: Từ tháng 9/1939 đến tháng 6/1941: Đây là giai đoạn trước khi Liên Xô

tham chiến. Cuộc chiến tranh giai đoạn này chỉ đơn thuần là cuộc chiến tranh giành giật thị
trường, thuộc địa và xâu xé lẫn nhau trong nội bộ khối tư bản chủ nghĩa giữa hai phe: phe phát
xít và phe các nước tư bản dân chủ Anh, Pháp. Do vậy nó mang tính chất phi nghĩa.
Giai đoạn 2: Từ thán 6/1941 đến tháng 8/1945: Đây là giai đoạn có sự tham chiến của
Liên Xô và hình thành nên phe Đồng minh chống phát xít (1/1942). Lúc này chủ nghĩa phát xít
đã lớn mạnh nên rất nhiều, chiếm được rất nhiều vùng đất đai trên thế giới, thi hành chính sách
thống trị, khủng bố dã man, tàn sát nhân loại. Loài người tiến bộ đang đứng trước nguy cơ diệt
vong. Trước tình hình đó Liên Xô đã đứng ra kêu gọi thành lập một mặt trận đoàn kết rộng rãi
các quốc gia và nhân dân tiến bộ thế giới nhằm đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Vào tháng
1/1942, mặt trận Đồng Minh tập hợp rộng rãi các quốc gia và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế
giới chống phát xít đã ra đời, đứng đầu là ba cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh. Từ đây tính chất của
cuộc chiến tranh thay đổi chuyển từ phi nghĩa sang chính nghĩa. Và cuối cùng chiến tranh thế
11


giới thứ hai (1939-1945) đã kết thúc với thắng lợi của phe Đồng minh và sự thất bại hoàn toàn
của phe phát xít đưa loài người bước sang một kỉ nguyên mới.
Đến đây đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng thẳng, phức tạp trong quan hệ quốc tế và
cái giá phải trả là cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại.
Thời kì 1919 – 1945 đã chứng kiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa các cường quốc tư bản phương
Tây nhằm tranh giành thế lực, phạm vi ảnh hưởng và thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho
mình. Nhưng bao trùm lên tất cả là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là Liên Xô xã hội chủ
nghĩa, các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước và toàn thể loài người tiến bộ với một
bên là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thế
lực phản động khác nhằm xây dựng một thế giới hoà bình dân chủ, công bằng và bình đẳng giữa
các quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế cụ thể của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã hình
thành sự phối hợp giữa Liên Xô XHCN với các nước tư bản dân chủ trong mặt trận Đồng minh
để tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử thế giới, một
chuyển biến quan trọng trong quan hệ quốc tế.

III. QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1991
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tình hình
thế giới. Một trật tự thế giới mới được hình thành với đặc trưng cơ bản là thế giới chia thành hai
phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do hai siêu cường Mĩ và Liên Xô đứng đầu mỗi phe.
Quan hệ quốc tế giai đoạn 1945-1991 có nhiều điểm khác biệt, diễn biến phức tạp hơn so với
quan hệ quốc tế trong thời kì 1919 – 1939, phản ánh mối tương quan lực lượng cũng như lợi ích
của các cường quốc trên thế giới mà cơ bản là hai siêu cường Liên Xô và Mĩ.
III.1. Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949)
III.1.1. Hội nghị Ianta (2/1945)
Đầu năm 1945, cục diện chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Nhiều
mâu thuẫn, nhiều tranh chấp trong nội bộ phe Đồng minh chống phát xít nổi lên gay gắt, trong đó
có ba vấn đề cơ bản cần phải giải quyết: Việc nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Âu và
châu Á – Thái Bình Dương; Việc tổ chức lại trật tự thế giới mới sau chiến tranh; Việc phân chia
khu vực đóng quân theo chế độ quân quản và phân chia phạm vi thế lực giữa các nước tham gia
chiến tranh chống phát xít.
Trong bối cảnh đó, một hội nghị quốc tế được triệu tập tại Ianta (Liên Xô) vào tháng 2
năm 1945 với sự tham gia của ba vị nguyên thủ là Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô –
Xtalin, Tổng thống Mĩ – Rudơven và Thủ tướng Anh – Sơcsin. Hội nghị đã diễn ra gay go quyết
liệt vì thực chất nội dung hội nghị là cuộc tranh giành và phân chia thành quả thắng lợi chiến
tranh giữa các lực lượng tham chiến, có liên quan mật thiết tới hoà bình, an ninh và trật tự thế

12


giới sau này, mà trước hết là lợi ích riêng của mỗi bên tham chiến. Cuối cùng hội nghị đã đi đến
những quyết định sau đây:
Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân
phiệt Nhật Bản, nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở châu Âu và Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh
chống Nhật ở châu Á – Thái Bình Dương sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu.
Thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc để giữ gìn hoà bình, an ninh và trật tự thế giới sau

chiến tranh.
Thoả thuận về việc đóng quân ở tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít và phân
chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á. Ở châu Âu, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền
Đông Đức, Đông Béclin và các nước Đông Âu; quân đội Mĩ, Anh, Pháp chiếm đóng miền Tây
Đức, Tây Béclin và các nước Tây Âu. Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của Liên Xô; vùng Tây
Âu thuộc ảnh hưởng của Mĩ. Hai nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập; Ở châu
Á, hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để Liên Xô tham gia chiến tranh chống Nhật
Bản: 1-Bảo vệ nguyên trạng và công nhận nền độc lập của Mông Cổ; 2-Trả lại Liên Xô miền
Nam đảo Xakhalin và tất cả các đảo nhỏ thuộc đảo này; quốc tế hoá thương cảng Đại Liên
(Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận (Trung Quốc) làm căn cứ hải
quân, Liên Xô cùng Trung Quốc khai thác đường sắt Nam Mãn Châu - Đại Liên; Liên Xô chiếm
4 đảo Curin; Quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản, Nhật Bản thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ;
Quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc Triều Tiên và quân đội Mĩ chiếm đóng miền Nam Triều
Tiên lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới; Trung Quốc tiến tới thành lập chính phủ liên hiệp bao gồm
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Mĩ cùng Liên Xô có quyền lợi ở Trung Quốc; các vùng còn lại
của châu Á ( Tây Á, Nam Á, Đông Nam Á ….) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của
các nước phương Tây.
Những quyết định của Hội nghị cấp cao Ianta tháng 2/1945 đã trở thành những khuôn khổ
của trật tự thế giới mới, từng bước được thiết lập trong những năm 1945-1949 sau khi chiến
tranh kết thúc, thường được gọi là “Trật tự hai cực Ianta” (hai cực chỉ Mĩ và Liên Xô phân chia
nhau phạm vi thế lực trên cơ sở thoả thuận của hội nghị Ianta).
III.1.2. Sự thành lập Liên hợp quốc.
Sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày 25/4 đến ngày 26/6 năm 1945, một hội nghị Quốc tế
lớn họp tại Xan Phranxicô (Mĩ) với sự tham gia của đại biểu 50 nước để thông qua bản Hiến
chương và tuyên bố thành lập Liên hợp quốc. Ngày 24/10/1945, với sự phê chuẩn của Quốc hội
các nước thành viên, bản Hiến chương chính thức có hiệu lực.
Là văn kiện quan trọng nhất của Liên hợp quốc, Hiến chương nêu rõ mục đích của tổ chức
này là duy trì hoà bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc
và tiến hành sự hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự
quyết của các dân tộc.

13


Để thực hiện những mục đích trên, Hiến chương quy định Liên hợp quốc sẽ hoạt động dựa
trên những nguyên tắc sau: Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các
dân tộc; Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước; Liên hợp quốc
không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào; Giải quyết các tranh chấp quốc tế
bằng phương pháp hoà bình; Chung sống hoà bình và sự nhất trí giữa năm cường quốc( Liên Xô,
Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc).
Các cơ quan chính của Liên hợp quốc bao gồm: Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Ban thư kí,
Hội đồng kinh tế và xã hội, Hội đồng quản thác, Toà án quốc tế ….
Sự ra đời Liên hợp quốc có một ý nghĩa quan trọng. Đây là tổ chức quốc tế lớn nhất giữ vai
trò nòng cốt trong việc duy trì nền hoà bình và an ninh thế giới, đảm bảo duy trì trật tự thế giới
mới sau chiến tranh.
III.1.3. Sự hình thành hai hệ thống xã hội đối lập.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai ( 1939-1945) đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng
trong quan hệ quốc tế với xu hướng hình thành hai phe: tư bản chủ nghĩa do Mĩ đứng đầu và xã
hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu. Sự hình thành hai phe này được biểu hiện trong nhiều vấn
đề, nhiều khía cạnh và hai phe ngày càng đối lập nhau gay gắt.
Nước Đức bị chia làm hai: Cộng hòa dân chủ Đức theo con đường XHCN và Cộng
hòa liên bang Đức theo con đường TBCN.
Ở khu vực Đông Âu, trong những năm 1945 – 1947, các nước Đông Âu đã tiến hành
nhiều cải cách quan trọng theo hướng dân chủ như: cải cách ruộng đất, xây dựng bộ máy nhà
nước dân chủ nhân dân, ban hành các quyền tự do dân chủ xây dựng đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Đồng thời Liên Xô đã cùng các nước Đông Âu kí nhiều hiệp ước tay đôi về kinh
tế như trao đổi buôn bán, viện trợ lương thực, thực phẩm. Qua sự hợp tác về chính trị, kinh tế,
mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước Đông Âu ngày càng được củng cố và từng bước đã hình
thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Ở Tây Âu, các nước trước đây vốn đã theo con đường tư bản chủ nghĩa, sau chiến tranh
đất nước lại bị tàn phá nặng nề. Các nước này rất cần tiền vốn để khôi phục và phát triển kinh tế,

giải quyết tình trạng đời sống khó khăn cho nhân dân, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng.
Giữa lúc đó Mĩ đưa ra “kế hoạch phục hưng châu Âu” (còn gọi là kế hoạc Mácsan) nhằm viện
trợ tiền vốn cho các nước Tây Âu khôi phục kinh tế, qua đó tăng cường ảnh hưởng và sự khống
chế của Mĩ đối với các nước này. Nhờ đó kinh tế các nước Tây Âu được phục hồi nhanh chóng.
Tháng 1/1949, Liên Xô và Đông Âu thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), nhằm
giúp đỡ, chuyển giao về vốn, kĩ thuật giúp các nước trong khối phát triển kinh tế.
Như vậy, về mặt chính trị và kinh tế, ở châu Âu đã hình thành hai khối đối lập nhau là
Đông Âu xã hội chủ nghĩa và Tây Âu tư bản chủ nghĩa.

14


Ở châu Á, tình hình cũng biến động rất phức tạp. Bán đảo Triều Tiên bị chai cắt làm đôi
lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, với sự hiện diện của Liên Xô ở phía Bắc, Mĩ ở phía Nam. Tháng
5/1948, được sự giúp đỡ của Mĩ ở miền Nam Triều Tiên tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân
Quốc phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tháng 9/1948, được sự giúp đỡ của Liên Xô, ở
miền Bắc tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Ở Trung Quốc, sau khi cuộc nội chiến (1946-1949) kết thúc với thắng
lợi của Đảng Cộng sản đã dẫn tới sự thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (10/1949),
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Các nước châu Á khác thì phải tiến hành cuộc kháng
chiến giành độc lập chống lại chủ nghĩa thực dân và tuỳ theo đặc điểm, tình hình nước mình mà
phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa.
Như thế, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong những năm (1945-1949), đã
hình thành nên một trật tự thế giới mới theo khuôn khổ của hội nghị Ianta “Trật tự hai cực Ianta”
xác lập vị trí của hai siêu cường Xô và Mĩ. Cũng trong thời gian này thế giới đã hình thành nên
hai phe đối lập nhau là phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và phe tư bản chủ nghĩa do Mĩ
đứng đầu. Quan hệ quốc tế đã bước sang một giai đoạn mới với rất nhiều điểm khác biệt và
mang tính gay gắt hơn, quyết liệt hơn so với các giai đoạn trước đó.
III.2. Chiến tranh lạnh
III.2.1. Học thuyết Truman và sự khởi đầu chiến tranh lạnh

Lịch sử loài người đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh với rất nhiều hình
thái và diễn biến, cùng với những hệ quả hết sức khác nhau đối với sự phát triển của xã hội loài
người. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cường quốc Xô-Mĩ trong nửa sau của thế kỉ XX đồng thời
là đại diện cho sự đối đầu giữa hai khối Đông – Tây có những khác lạ không chỉ vì tên gọi của
nó mà còn về hình thái, diễn biến. Vậy vì sao có sự ra đời của chiến tranh lạnh:
Trước hết, đó là do sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc Xô – Mĩ.
Liên Xô chủ trương duy trì hoà bình, an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã
hội và thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới. Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng thế giới nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế
giới. Mặt khác, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ hết sức lo ngại ảnh hưởng to lớn của Liên Xô
cùng những thắng lợi của các cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu, đặc biệt là
sự thành công của cách mạng Trung Quốc dẫn tới sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới.
Thứ hai, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ vươn lên thành nước tư bản giàu mạnh nhất
trên tất cả các mặt kinh tế, quân sự, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử, do vậy Mĩ tự cho mình độc
quyền lãnh đạo thế giới. Tổng thống Mĩ Truman công khai tuyên bố: Ngày nay Hoa Kì là một
quốc gia mạnh, không có một quốc gia nào mạnh hơn, điều đó có nghĩa là Mĩ có nghĩa vụ nắm
quyền lãnh đạo thế giới.
15


Tháng 3/1947, Tổng thống mĩ Truman đọc diễn văn trước quốc hội Mĩ chính thức đưa ra
học thuyết Truman. Theo học thuyết này, thì các nước Đông Âu vừa bị cộng sản thôn tính và
những đe doạ tương tự đang diễn ra trên nhiều nước khác. Vì vậy Mĩ phải đứng ra đảm nhiệm sứ
mạng lãnh đạo thế giới tự do, phải giúp đỡ các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe doạ của chủ
nghĩa cộng sản, chống lại sự bành trướng của nước Nga giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế,
quân sự. Tổng thống Mĩ Truman đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa. Vậy chiến tranh lạnh là gì? Theo phía Mĩ “Chiến tranh lạnh là chiến tranh
không nổ súng, không đổ máu, nhưng luôn ở tình trạng chiến tranh nhằm ngăn chặn rồi tiêu diệt
Liên Xô” [5; 304]

Với sự ra đời của học thuyết Truman, mối quan hệ Đồng minh giữa Liên Xô với Mĩ và
các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít đã tan vỡ thay vào đó là ‘cuộc
chiến tranh lạnh”, dẫn tới sự căng thẳng, gay gắt trong quan hệ quốc tế. Để phát động “Chiến
tranh lạnh, Mĩ tìm cách lôi kéo các nước Đồng minh vào những tổ chức kinh tế, chính trị, quân
sự để qua đó thao túng, khống chế các nước này.
Năm 1947, mĩ đưa ra kế hoạc Mácsan còn gọi là kế hoạch “Phục hưng châu Âu” nhằm
giúp các nước châu Âu bị thiệt hại nặng nề trong chiến tranh nhanh chóng khôi phục, phát triển
kinh tế qua đó khống chế, nô dịch các nước này. Trước tình hình đó năm 1949, Liên Xô và các
nước Đông Âu đã thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), nhằm thực hiện sự hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm 1949, Mĩ và các nước phương Tây đã thành lập khối quân sự - Tổ chức Hiệp ước
Bắc Đại Tây Dương, đây là Liên minh quân sự lớn nhất của các nước tư bản Tây Âu do Mĩ đứng
đầu nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 5/1955, Liên Xô và các nước
Đông Âu đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Vacsava, một liên minh chính trị - quân sự mang tính
chất phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Sự ra đời của những khối kinh tế ( Mácsan và SEV), khối quân sự (Nato và Vácsava) đối
đầu nhau là những sự kiện đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. Chiến tranh lạnh đã
bao trùm cả thế giới.
III.2.2. Một số diễn biến của chiến tranh lạnh
Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là
Mĩ và Liên Xô đã diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hoá, tư
tưởng. Sau đây là một số diễn biến chính của cuộc chiến tranh lạnh.
III.2.2.1. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa
Để tiến thêm một bước nữa cho việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới và chống lại các
nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, Mỹ tiến hành lập các khối quân sự xâm

16



lược nhằm tập hợp các lực lượng phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mĩ để bao vây Liên
Xô, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc.
Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là “Hiệp định phòng thủ
Tây bán cầu” kí giữa Mĩ và các nước chư hầu Mĩ ở hội nghị Riô đơ Gianêrô tháng 9/1947. Tiếp
theo hiệp định trên, Anh, Pháp và các nước phương Tây bắt đầu thương lượng xây dựng liên
minh quân sự-chính trị giữa các nước phương Tây. Tháng 3/1948, hiệp ước “Liên hiệp Tây Âu”
đã được kí kết giữa 5 nước (Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Lucxembua) ở Brucxen, trong đó Anh giữ
vai trò lãnh đạo tổ chức này. Mĩ hoan nghênh việc thành lập tổ chức này, nhưng không thoả mãn
vì Mĩ không có vai trò trong tổ chức này và Mĩ muốn thành lập một tổ chức rộng lớn hơn để nắm
quyền lãnh đạo. Năm 1949, Mĩ và 11 nước châu Âu kí kết hiệp ước thành lập tổ chức quân sự
Bắc Đại Tây Dương gọi tắt là NATO và Mĩ nắm quyền lãnh đạo trong tổ chức này. Thực chất,
khối NATO là một công cụ của chính sách xâm lược bành trướng của Mĩ, cũng như là một tổ
chức để chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1954, Mĩ và các nước phương
Tây kí hiệp ước Pari nhằm vũ trang lại Tây Đức và đưa Tây Đức vào khối quân sự NATO, biến
Tây Đức thành một lực lượng xung kích chống lại cộng hoà dân chủ Đức, Lên Xô và các nước
Đông Âu xã hội chủ nghĩa.
Trước tình đó các nước Đông Âu và Liên Xô, đã thành lập tổ chức Hiệp ước Vacxava
(1955), nhằm giữ gìn an ninh của các nước hội viên, duy trì hoà bình ở châu Âu và củng cố hơn
nữa tình hữu nghị và sự hợp tác bền vững giữa các nước hội viên. Liên Xô đứng đầu và có vai
trò lãnh đạo khối này.
Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều ra sức chạy đua vũ trang, trang bị vũ khí hết
sức hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình.
Mĩ đã tiếp tục thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự ở các khu khác nhằm hỗ trợ
cho khối NATO và bao vây Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa: Hiệp định an ninh Mĩ-Nhật
(9/1951), khối ANZUS (Mĩ-Ôxtrâylia-Niu Dilân) (9/1951), khối SEATO ở Đông Nam Á
(9/1954), khối CENTO ở Trung Cận Đông (1959). Mĩ đã thiết lập trên 2000 căn cứ quân sự, đưa
hàng chục vạn quân Mĩ đóng rải rác ở khắp mọi nơi trên thế giới.
BẢNG SO SÁNH LỰC LƯỢNG QUÂN SỰ GIỮA HAI KHỐI (vào những năm 70)
1. Vũ khí thông thường
Quân số

Xe tăng
Pháo các loại
Máy bay chiến đấu
Tầu ngầm
Tàu chiến các loại
2. Vũ khí hạt nhân chiến lược
Tên lửa chiến lược ICBM (loại đặt trên bệ
phóng mặt đất)
SLBM (loạiđặt trên tàu ngầm)
Máy bay chiến lược
Tà ngầm chiến lược

Khối Vacsava
5.373.100
59.470
71.876
7.876
228
102

Khối Nato
3.660.200
30.690
57.660
7.130
200
499

1.398


1.018

922
160
62

672
518
36

17


Phía Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân ra đóng ở các nước Đông Âu (tập trung ở
Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô-Trung.
Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước Xô-Mỹ đã lên tới đỉnh cao vào những năm 70 thế kỉ
XX. Theo ước tính của các nhà quân sự chỉ cần phóng ra 1/2 số kho vũ khí hạt nhân của Mĩ hoặc
của Liên Xô cũng đủ để huỷ diệt toàn bộ sự sống của con người và nền văn minh nhân loại.
III.2.2.2. Các cuộc chiến tranh cục bộ
Mặc dù trong quá trình diễn ra chiến tranh lạnh không diễn ra đối đầu quân sự giữa hai
siêu cường Xô-Mĩ, nhưng đã xảy ra rất nhiều những cuộc chiến tranh cục bộ mà đứng đằng sau
các bên tham chiến có sự hậu thuẫn của hai siêu cường Xô-Mĩ, thể hiện sự đối đầu Đông –Tây.
Sau đây là một số cuộc chiến tranh cục bộ nổi bật thể hiện sự đối đầu Đông-Tây.
*Cuộc phong toả Béclin (1948) và bức tường Béclin (1961)
Trái với thoả thuận tại hội nghị Ianta và Pốtxđam (1945) về một giải pháp thống nhất
nước Đức, tháng 2/1948, tại Luân Đôn các nước Mĩ, Anh, Pháp đã cùng nhau đề ra một quy chế
về tương lai cho việc hợp nhất ba khu vực chiếm đóng của họ. Liên Xô kịch liệt phản đối. Để trả
đũa cho việc thoả thuận riêng rẽ này, ngày 31/3/1948, Liên Xô quyết định phong toả, kiểm soát
tất cả các mối liên hệ giữa các khu vực với Tây Đức, Tây Béclin. Tình hình châu Âu trở nên
căng thẳng, các nước Tây Âu phải tổ chức cầu hàng không để duy trì việc tiếp tế cho Tây Béclin.

Cuộc phong toả Béclin của Liên Xô kéo dài hơn một năm, được chấm dứt vào ngày 12/5/1949,
sau khi cùng ngày các nước phương Tây bãi bỏ việc ngăn chặn buôn bán giữa các khu vực Đông
và Tây Béclin.
Vào năm 1961, vấn đề Đức lại trở nên căng thẳng. Đó là trước tình trạng di cư ồ ạt từ
Đông Đức sang Tây Đức gây nên nhiều khó khăn, không ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội ở
Đông Đức. Đêm 12/8/1961, chính cộng hoà dân chủ Đức đã xây dựng một bức tường với dây
kẽm gai ngăn cách hai khu vực Đông và Tây Béclin. Từ đó việc qua lại giữa hai khu vực Béclin
bị đình chỉ, quan hệ giữa hai nhà nước Đức ngày càng đối đầu quyết liệt. Bức tường Béclin còn
thể hiện cho sự đối đầu Đông – Tây rất gay gắt.
* Cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Đông
Dương. Cuộc chiến tranh này cũng nằm trong phạm vi đối đầu giữa hai cực Đông – Tây. Đặc
biệt từ năm 1950 trở đi khi nhân dân Đông Dương nhận được sự giúp đỡ của Liên xô, Trung
Quốc về vũ khí, trang thiết bị chiến tranh đối chọi lại với thực dân Pháp có sự giúp đỡ đắc lực
của đế quốc Mĩ nhằm mở rộng chiến tranh Đông Dương và giành thắng lợi quyết định. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam (7/5/1954) đã buộc thực dân Pháp phải kí kết Hiệp
định Jơnevơ về Đông Dương (21/71954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Qua thắng lợi của nhân dân Đông Dương càng củng
cố sức mạnh và tăng cường sức mạnh của phe xã hội chủ nghĩa.
18


*Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
Ở Triều Tiên cuộc chiến tranh cục bộ giữa một bên là quân đội Mĩ và các nước Đồng Minh
của Mĩ, quân đội Nam Triều Tiên với một bên là quân chí nguyện Trung Quốc với sự hậu thuẫn
về mọi mặt của Liên Xô đã nổ ra ngày 26/5/1950. Đây cũng là biểu hiện của sự đối đầu gay gắt
giữa hai phe Đông – Tây. Sau ba năm chiến tranh mà cả hai phía đều tổn thất nặng nề về người
và của, tháng 7/1953, tại Hội nghị quân sự tại Bàn Môn Điếm hai phía Trung Quốc, cộng hoà
dân chủ nhân dân Triều Tiên với Mỹ, Hàn Quốc đã kí hiệp định đình chiến, lấy vĩ tuyến 38 làn
ranh giới quân sự giữa hai miền Bắc Nam trở lại với ranh giới cũ trước chiến tranh. Cuộc chiến

tranh Triều Tiên là sự đụng đầu trực tiếp đầu tiên giữa hai phe, không phân thắng bại.
*Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ.
Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, Việt Nam lại phải tiến hành cuộc kháng
chiến trường kì chống đế quốc Mĩ xâm lược (1954-1975). Chiến tranh Việt Nam đã trở thành
cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe với một bên là đế quốc Mĩ với
một bên là nhân dân Việt Nam có sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa.
Kết cục cuối cùng, đế quốc Mĩ bị thất bại và buộc phải công nhân độc lập chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cuộc chiến tranh kết thúc vào năm 1975 để lại những hậu quả
nặng nề đối với Mĩ nhưng lại cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng thế giới và tăng cường tiềm
lực cho phe xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại trong thời kì chiến tranh lạnh, mặc dù không xảy ra chiến tranh thế giới nhưng
quan hệ quốc tế luôn trong tình trạng căng thẳng, gay gắt, nhân loại “đung đưa bên miệng hố
chiến tranh”. Hầu hết các cuộc chiến tranh cục bộ hoặc xung đột quân sự ở trên thế giới với
những hình thức và mức độ khác nhau đều liên quan tới sự đối đầu giữa hai cực Xô-Mỹ.
III.2.3. Xu thế hoà hoãn Đông - Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt
Mặc dù chiến tranh lạnh vẫn tiếp diễn nhưng từ đầu những năm 70 xu hướng hoà hoãn
Đông – Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng Xô-Mĩ.
Trên cơ sở những thoả thuận Xô-Mĩ, ngày 9/11/1972, hai nước Đức – Cộng hoà dân chủ
Đức và Cộng hoà liên bang Đức đã kí kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa
Đông Đức và Tây Đức. Theo đó hai bên phải tôn trọng không điều kiện chủ quyền và sự toàn
vẹn lãnh thổ của nhau cũng như của các nước châu Âu trên đường biên giới hiện tại. Hai bên
thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình thường trên cơ sở bình đẳng, giải quyết các vấn đề
tranh chấp bằng biện pháp hoà bình và sẽ tự kiềm chế việc đe doạ bằng vũ lực hay sử dụng vũ
lực.
Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Xô - Mĩ đã thoả thuận về việc hạn chế vũ khí chiến
lược và ngày 26-5 kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM) sau đó là
Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là SALT – 1). Hiệp ước ABM quy định:
Liên Xô và Mĩ mỗi nước chỉ được xây dựng hai hệ thống ABM với mỗi hệ thống có 100 tên lửa
19



chống tên lửa. Sau đó, trong năm 1974 hai nước lại thoả thuận mỗi nước chỉ có một hệ thống
ABM. Với hai hiệp ước này từ giữa những năm 70 đã hình thành thế cân bằng chiến lược giữa
Liên Xô và Mĩ về lực lượng quân sự nói chung và về vũ khí hạt nhân chiến lược nói riêng.
Tháng 8/1975, 33 nước châu Âu cùng Mĩ và Canada đã kí kết Định ước Henxinki, khẳng
định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững
của đường biên giới, giải quyết hoà bình các tranh chấp… nhằm đảo bảo an ninh châu Âu và sự
hợp tác giữa các nước về kinh tế, khoa học, kĩ thuật và bảo vệ môi trường. Định ước Henxinki
năm 1975, đánh dấu sự chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai khối nước tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa ở châu Âu, đồng thời tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hoà
bình, an ninh ở châu lục này.
Cùng với các sự kiện trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô-Mĩ đã tiến hành
những cuộc gặp gỡ cấp cao nhất là từ năm 1985 khi Goocbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô. Hầu
như hàng năm đều diễn ra các cuộc gặp gỡ giữa nguyên thủ hai nước - Goócbachốp và Rigân, và
sau đó là Goócbachốp và Busơ. Qua những cuộc gặp gỡ này nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế,
buôn bán, văn hoá và khoa học kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những
thoả thuận về thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu Âu (gọi tắt là INF, chiếm khoảng 3% kho vũ khí
hạt nhân của mỗi nước). Cũng từ năm 1987, hai nước Mĩ và Liên Xô đã thoả thuận cùng giảm
một bước quan trọng trong cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cục diện “chiến tranh
lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột quốc tế. Tháng 12/1989,
trong cuộc gặp gỡ không chính thức tại đảo Manta (Địa Trung Hải), Tổng bí thư Đảng cộng sản
Liên Xô Goócbachốp và tổng thống Mĩ Busơ đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt chiến tranh
lạnh.
Sở dĩ Mĩ và Liên Xô chấm dứt chiến tranh lạnh vì:
Thứ nhất, trải qua hơn 40 năm, với gánh nặng “chạy đua vũ trang” và “bao” về chi tiêu
quân sự hầu khắp thế giới (thời gian này hai nước Xô-Mĩ phải gánh chịu từ 50 đến 55% chi tiêu
quân sự của toàn thế giới), bản thân hai nước này suy giảm thế mạnh của họ về nhiều mặt so với
các cường quốc khác.
Thứ hai, Mĩ và Liên Xô đều đứng trước những khó khăn và thách thức hết sức to lớn: hai
nước Đức và Nhật Bản – hai nước phát xít chiến bại nay vươn lên mạnh mẽ, trở thành đối thủ

nguy hiểm đối với Mĩ và Liên Xô; các nước trong “Khối thị trường chung châu Âu (EEC)” trở
nên rất mạnh; cuộc “Chiến tranh kinh tế” mang tính toàn cầu mà cả thế giới đang ra sức chạy
đua; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra sôi nổi v.v….Do vậy, muốn vươn lên
kịp các nước khác, cả hai nước cần phải thoát khỏi thế đối đầu với nhau và có cục diện ổn định.
Thứ ba, kinh tế của Mĩ và Liên Xô đều suy giảm so với Nhật Bản và Tây Âu (đặc biệt là
Liên Xô lúc này đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng).

20


Tuy vậy, tình trạng chiến tranh lạnh chỉ thực sự kết thúc sau khi Liên Xô tan rã, trật tự hai
cực không còn nữa.
III.4. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta
Trật tự hai cực Ianta được hình thành trong những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai
thiết lập vị trí đứng đầu của hai siêu cường Xô-Mĩ đứng đầu 2 phe xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa đối lập nhau, sau đó trật tự này đã được duy trì trong khoảng hơn 4 thập niên. Tuy
nhiên bước vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, trật tự này dần bị rạn nứt sau đó sụp đổ.
Trong những năm 1989-1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu, làm mất đi
khu vực “phạm vi ảnh hưởng” của Liên Xô ở châu Âu. Tiếp đến, ngày 19/8/1991, ở Liên Xô đã
diễn ra đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Goócbachốp. Cuộc đảo chính thất bại ngày 21/8 đã
đưa đến những hậu quả cực kì nghiêm trọng đối với đất nước Xô viết: Goócbachốp giải tán chính
quyền Xô viết, Đảng cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động trong toàn liên bang, 11 nước Cộng
hoà tuyên bố độc lập tách ra khỏi Liên bang Xô viết. Tháng 12/1991, 11 nước Cộng hoà trong
Liên bang Xô viết cũ đã kí hiệp định thành lập cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Sự ra đời
của SNG buộc Tổng thống Liên Xô Goócbachôp phải từ chức ngày 25/12/1911. Như thế, chế độ
xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang Xô viết tan vỡ. Sự kiện này dẫn đến một
“cực” – “cực Liên Xô” – đã bị sụp đổ.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, Liên Xô dẫn đến việc khối
quân sự Vacxava tự tuyên bố giải thể từ ngày 1/7/1991 và Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV)
ngừng hoạt động ngày 28/6/1991.

Trong hơn 40 năm tồn tại, “Trật tự hai cực Ianta” đã từng bước bị xói mòn, biểu hiện:
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra một đột phá với trật tự này là đập tan
âm mưu của Mĩ khống chế Trung Quốc và Liên Xô buộc phải từ bỏ những đặc quyền ở vùng
Đông Bắc Trung Quốc; sự lớn mạnh về kinh tế của các nước tư bản Tây Âu, đặc biệt là sự ra đời
của Khối thị trường chung châu Âu (EEC) làm suy giảm nghiêm trọng pham vi ảnh hưởng của
Mĩ ở Tây Âu; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc làm thay đổi căn bản bộ mặt của khu
vực Á – Phi- Mĩ la tinh theo khuôn khổ Ianta thuộc ảnh hưởng truyền thống của Mĩ và các nước
Tây Âu; sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Nhật Bản, Tây Âu dẫn đến việc hai trung tâm kinh
tế - tài chính là Tây Âu và Nhật Bản cạnh tranh với Mĩ (trước đây Mĩ là trung tâm kinh tế, tài
chính, duy nhất của thế giới)….
Tuy vậy, “Trật tự hai cực Ianta” về căn bản vẫn được duy trì. Nhưng sau những biến động
lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1989-1991, “Trật tự hai cực Ianta” thực sự bị phá
vỡ, thể hiện trên các mặt: Hai cực tức hai siêu cường Xô-Mỹ, trong trật tự thế giới cũ đã bị phá
vỡ: Liên Xô bị sụp đổ hoàn toàn từ góc độ một nhà nước, Mỹ tuy vẫn giữ vị trí đứng đầu thế giới
về sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự nếu tính riêng từng nước một, nhưng gộp lại cả Tây
Âu và Nhật Bản thì nếu tính riêng từng nước một, nhưng gộp lại cả Tây Âu và Nhật Bản thì về
21


nhiều mặt Mĩ bị suy kém hoặc đứng hàng thứ hai (nửa sau những năm 40 và trong những năm
50, Mĩ mạnh hơn tất cả các nước tư bản tư bản cộng lại về kinh tế và quân sự); Phạm vi ảnh
hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mết hết, còn Mĩ bị thu hẹp rất nhiều ở khắp mọi
nơi; Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và Mĩ là hai nước chiến thắng chủ yếu và thu được
nhiều quyền lợi lớn nhất trong “trật tự hai cực Ianta”, còn Đức và Nhật Bản là hai nước phát xít
chiến bại chủ yếu và bị sụp đổ về kinh tế-quân sự, nhưng qua 45 năm, Nhật Bản và nước Đức (đã
thống nhất trở lại) vươn lên mạnh mẽ về kinh tế và địa vị chính trị, đang trở thành mối lo ngại
đối với các cường quốc thắng trận trước đây ….
Từ đây quan hệ quốc tế chuyển sang một thời kì mới.
Như vậy trong vòng thế kỉ XX, loài người đã chứng kiến sự hình thành và sụp đổ của hai
trật tự thế giới sau hai cuộc chiến tranh thế giới: Trật tự theo hệ thống Vecxai-Oasinhtơn và trật

tự hai cực Ianta. Điểm giống nhau của hai trật tự thế giới này là đều trải qua các cuộc chiến tranh
ác liệt, đẫm máu và đều do các cường quốc thắng trận chủ yếu thiết lập nên để phục vụ cho lợi
ích cao nhất của mình. Ở “Trật tư hai cực Ianta”, Liên Xô đạt được ba mục tiêu cơ bản đó là:
+Bảo vệ vững chắc sự tồn tại và phát triển của đất nước Xô viết; + Thu hồi lại những đất đai của
đế quốc Nga trước đây; +Mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á, qua đó thiêt lập một
vành đai an toàn bao quanh phía Tây, Đông, và Nam Liên Xô. Còn Mĩ với trật tự thế giới này,
Mĩ đã khống chế được Tây Âu, Nhật Bản, chi phối cục diện thế giới. Mặt khác, sự thoả thuận
giữa ba cường quốc ở Hội nghị Ianta đã xâm phạm đến chủ quyền, lãnh thổ và lợi ích của nhân
dân nhiều nước.
Nhưng “trật tự hai cực Ianta” cũng có những điểm khác biệt cơ bản sau: +Giữa hai cực
Liên Xô và Mĩ có sự khác nhau hoàn toàn: “Cực” Liên Xô luôn luôn làm hậu thuẫn cho phong
trào cách mạng xã hội chủ nghĩa , cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đấu tranh vì hoà
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại “cực” Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế lực phản
động chống phá cách mạng thế giới với mưu đồ vươn lên vị trí “thống trị thế giới” – đây là điểm
khác biệt cơ bản để từ đó nhìn nhận đánh giá về “trật tự hai cực Ianta”.
Về cơ cấu tổ chức, việc thanh toán chiến tranh và duy trì hoà bình an ninh sau chiến tranh,
việc kí kết hoà ước với các nước chiến bại …thì “trật tự hai cực Ianta” thể hiện rõ sự tiến bộ và
tích cực hơn so với hệ thống “Vecxai-Oasinhtơn”. Liên hợp quốc so với Hội quốc liên: các mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng quốc tế về kinh tế, văn hoá, xã hội rộng khắp
so với những hoạt động hoàn toàn mang tính chất “đế quốc chủ nghĩa” của trật tự thế giới trước
đây.
Trong trật tự thế giới hai cực Ianta đã diễn ra một cuộc đối đầu gay gắt, quyết liệt và kéo dài
tới gần bốn thập niên giữa hai cực Xô-Mĩ, làm cho cục diện thế giới luôn luôn phức tạp, căng
thẳng. Cuộc đối đầu này đã dẫn tới cuộc đối đầu giữa hai khối Đông-Tây và cuốn hút từng quốc
gia, từng khu vực chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc đối đầu này.
22


IV. QUAN HỆ QUỐC TẾ SAU CHIẾN TRANH LẠNH - MỘT TRẬT TỰ THẾ GIỚI
ĐANG DẦN HÌNH THÀNH

Từ những thay đổi của tình hình thế giới từ năm 1991 đến nay, tuy trật tự quốc tế mới chưa
hình thành nhưng trong gần 2 thập kỉ sau chiến tranh lạnh có thế thấy những xu thế mới phát
triển nổi bật trên thế giới là:
Thứ nhất, xu thế phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm:
Bài học của thời kì chiến tranh lạnh đã chứng tỏ rằng phương thức quan hệ quốc tế lấy đối
đầu chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn thất hoặc thất bại như
hai nước Mĩ-Xô. Trong khi đó phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế - chính trị lại thu
được nhiều tiến bộ, kết quả, như các nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong của
một quốc gia quyết định bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, chủ yếu là thực lực kinh tế và
khoa học kĩ thuật. Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh
chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế. Ngày nay, kinh tế
trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho
chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong cuộc đọ sức giữa các cường quốc. Các
nước này ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một nền sản xuất
phồn vinh, một nền tài chính mạnh mẽ và một nền công nghệ có trình độ cao và đó mới là cơ sở
để xây dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia.
Thứ hai, xu thế hoà dịu trên quy mô thế giới, hoà bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến
tranh thế giới bị đẩy lùi, song hoà bình ở nhiều khu vực vẫn bị đe doạ, thậm chí có nơi xung đột
diễn ra nghiêm trọng và chiều hướng ngày càng rối loạn.
Ngày nay vẫn diễn ra nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột khu vực, hay nội chiến trong
một nước ( ở khu vực Trung Đông, Irắc, Apganixtan, nhiều nước ở châu Phi….) Sở dĩ có tình
trạng đó là do nhiều nguyên nhân: mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo; sự tranh chấp biên giới quốc gia;
sự nổi lên của các hiện tượng tôn giáo cực đoan, mưu đồ của các thế lực chính trị phản
động….đã làm cho tình hình thế giới luôn bất ổn định.
Ba là, xu hướng các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng
quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng tới lâu dài.
Đây là đặc điểm chủ yếu nổi bật của quan hệ quốc tế giữa các nước lớn trong thời kì sau
chiến ttranh lạnh. Sự điều chính ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ lợi ích chiến lược căn bản
của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại chính sách đối ngoại để tìm chỗ đứng tốt nhất,
xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở

rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không khí quốc tế rộng mở để xây dựng kinh tế nước
mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình điều chỉnh.
Bốn là: Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá và các tổ chức liên minh quốc tế.

23


Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, xu thế quốc tế hoá, toàn
cầu hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ và các tổ chức liên minh quốc liên tiếp ra đời. Do vậy buộc
các quốc gia trên thế giới phải thích nghi với xu thế này, tận dụng thời cơ mà xu thế này tạo ra để
phát triển, nếu không sẽ bị tụt hậu.
Vậy tình hình thế giới sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian sắp tới, ít nhất là những thập
niên đầu thế kỉ XXI?
Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch (1923
– 1998) đã đưa ra những dự báo:
“Trong 25 năm tới từ 1996 đến 2020, có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới, và
chạy đua kinh tế toàn cầu sẽ thay thế cho chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Tuy vậy vẫn
còn khả năng xảy ra chiến tranh cục bộ tuy không nhiều và lớn như trong 50 năm qua. Chiến
tranh cục bộ xảy ra chủ yếu là do xung đột dân tộc và tôn giáo.
Các nước lớn đã đi đến chấm dứt chiến tranh lanh, chấm dứt chạy đua vũ trang, mở ra
thời kì hoà hoãn, giảm các kho vũ khí, đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua kinh tế. Cuộc
đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua toàn cầu về kinh tế sẽ là hình thức đấu tranh chủ yếu
trên thế giới với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi rất to lớn hằng năm
nền kinh tế thế giới.
Các dân tộc chậm phát triển trên thế giới sẽ đứng trước những thời cơ rất lớn cũng như
những thách thức rất lớn…Hoặc các nước này có thể bỏ qua giai đoạn công nghiệp hoá để đi
thẳng vào thời đại thông tin và đưa nền kinh tế phát triển rất nhanh chóng trong 20 năm. Hoặc
các nước này lỡ cơ hội và sẽ bị tụt hậu rất xa” [6;104, 107]
Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, các dân
tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người. Nhưng cuộc tấn công khủng nố bất ngờ vào

nước Mĩ ngày 11/9/2001 đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn trong tình hình thế giới. Sự
kiện 11/9 đã đặt các quốc gia – dân tộc đứng trước thách thức của chủ nghĩa khủng bố đầy tệ hại
với những nguy cơ khó lường. Nó đã gây ra những tác động lớn, phức tạp đối với tình hình chính
trị thế giới và các quan hệ quốc tế.
Với xu thế phát triển của thế giới từ cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI, ngày nay các quốc
gia – dân tộc vừa đứng trước những thời cơ phát triển thuận lợi, vừa phải đối mặt với những
thách thức vô cùng gay gắt.
Trên đây là những nội dung cơ bản của quan hệ quốc tế thời hiện đại từ 1919 đến nay.

24


PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY QUAN HỆ QUỐC TẾ (1919 – 2000)
I. Một số phương pháp giảng dạy
1. Lập bảng niên biểu gắn với các sự kiện
- Các em có thể lập bảng niên biểu ngắn gọn, chia thành các cột thời gian, sự kiện, nội dung
hoặc diễn biến vắn tắt trong một bài học lịch sử.
- Lập bảng niên biểu có tác dụng hệ thống hóa kiến thức bài học một cách nhanh và ngắn gọn
nhất . Từ đó các em nắm được nội dung bài học và thuộc bài lâu hơn.
2. Vẽ sơ đồ tia
- Muốn vẽ sơ đồ tia, trước hết các em cần nắm được nội dung kiến thức của bài , sau đó cụ thể
hóa bằng cách phân ra các ý theo hình tia. Trên cơ sở các nhánh tia chính đó, phân ra các tia để
cụ thể hóa các ý của bài học. Việc học theo cách này khiến học sinh ghi nhớ tốt hơn và lâu hơn
cách truyền thống rất nhiều
- Ví dụ: Vẽ sơ đồ tia về nội dung Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ( 1914 – 1918 )?
+ Các em có thể phân ra thành các ti nhánh là: hoàn cảnh lịch sử, diễn biến, kết cục của
chiến tranh.
+ Trên cơ sở các nhánh tia chính đó, phân ra các tia phụ để cụ thể hóa các ý
3. Dùng thao tác ghi nhớ linh hoạt
- Để nhớ được lâu các sự kiện và mốc thời gian trong một bài học, học sinh có thể vận dụng

những cách sau:
+ Ghi nhớ các sự kiện, con số…. ra một tờ giấy hay sổ tay để khi cần thiết có thể tranh thủ
học.
+ Tái hiện và xác lập mối quan hệ giữa bài đang học với kiến thức của các bài đã học để
không quên kiến thức cũ ( chẳng hạn khi học chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), ta nên so
sánh với chiến tranh thế giới thứ nhất để khắc sâu kiến thức…)
+ Ghi nhớ tương đối: Tức là trong sự kiện hoặc một chiến dịch nào đó, không nhất thiết
phải nhớ cụ thể ngày giờ mà chỉ cần nhớ tháng, năm hoặc khoảng thời gian xảy ra sự kiện đó. Ví
dụ như: đầu năm 1945, đầu năm 1939…. Tuy nhiên những sự kiện lớn, quan trọng của tiến trình
lịch sử thì bắt buộc phải nhớ như: ngày Nhật đảo chính Pháp: 9/3/1945; ngày Nhật tuyên bố đầu
hàng vô điều kiên các lực lượng đồng minh: 15/8/1945….
4. Hệ thống hóa lại kiến thức
Sau khi học bài xong các em cần kiểm tra và hệ thống hóa lại kiến thức bài học một lần
nữa, nếu cảm thấy chưa đạt thì phải có biện pháp khắc phục ngay. Đây là khâu quan trọng đối
với các môn khoa học xã hội, bởi nếu học xong mà không hệ thống hóa lại kiến thức sẽ dẫn đến
tình trạng học trước quên sau, râu ông nọ cắm cằm bà kia … Thao tác này cũng giúp cho học
25


×