Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Bài hãy thuyết minh tác giả Nguyễn Trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.49 KB, 4 trang )

Trong nền văn học trung đại,đặc biệt dưới thời vua Lý,Trần,Lê đã xuất hiện không ít các tác giả nổi
tiếng,và gắn liền với tên tuổi của họ là những tác phẩm văn học bất hủ như:Lý Thường Kiệt với"nam
quốc sơn hà",Trần Quang Khải với"tụng giá hoànn kinh sư".Và,có lẽ,trong số các tác giả đó,chưa có ai
phải chịu 1 cái chết oan uổng như Nguyễn Trãi.NgT ko chỉ đc mọi người biết đén với tài năng cùng nhiều
tác phẩm thuộc nhiều thể loại,lĩnh vực mà còn đc mọi người tìm hiểu về 1 cuộc đời sóng gió,đầy trắc trở.
NgT(1380-1442),hiệu là Ức Trai,quê gốc ở làng Chi Ngại,sau dời về Nhị Khê.Thân sinh là NgỨng
Long,1nho sinh nhà nghèo,học giỏi,đỗ Thái học sinh thời Trần.Mẹ là Trần Thị Thái,con quan Tư đồ Tr
Nguyên Đán.NgT sinh ra trong 1 gia đình mà cả bên nội cũng như bên ngoại,đều có 2 truyền thống lớn là
yêu nước và văn hoá,văn học.Từ nhỏ,NgT thông minh,hiếu học,hiểu rõ đạo lý làm người...Nhưng,ông
cũng phải chịu những mất mát đau thương:tang mẹ lúc 5t,sau đó,ông ngoại qua đời khi NgT lên 10t.Năm
1440,NgT đỗ Thái học sinh và cả 2 cha con cùng làm quan dưới triều nhà Hồ.Về sau,khi nhà Hồ sụp
đổ,cha ông bị bắt sang Trung Quốc,ông xin đi theo cùng nhưng đến cửa ải,NgPhi Khanh lại khuyên ông
nên quay trở về trả nợ nước,báo thù nhà,và trong cảnh biệt li đó,cha ông đã làm nên bài thơ"2 chữ nước
nhà"đầy cảm động.Về phần ông,vâng lời cha,ông quay trở về đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn,giúp Lê
Lợi đánh đuổi giăc Minh,thống nhất đất nước.Ông trao cho LLợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà
sử sáh VN gọi là Bình ngô sách:"hiến mưu trước lớn,không nói đến việc đánh thành mà lại khéo nói đến
việc đánh vào lòng người",ông thuyết phục LLợi dùng nhân nghĩa đối với tướng sĩ,dùng công tâm để lấy
thành".Ông đề ra 3 phương sách:công tâm là thượng sách,vưa công thành vừa công tâm là trung
sách,công thành là hạ sách(3phương sách này phù hợp với 3 đường lối trị nước là đế đạo,vuơng đạo và bá
đạo).
Bình Định Vương LLợi phong cho NgT chưc Tuyên phụng Đại Phu Thừa chỉ học sĩ hàn Lâm Viện.NgT
đưa ra nhiều chiến lược,sách lược cho LLợi.Nhờ có sự đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi mà lập nên đc
nhiều chiến thắng vẻ vang cho dân tộc.
NgT ko chỉ là 1 nhà quân sự đại tài như chúng ta biết mà ông còn là nhà văn chính luận kiệt xuất với tác
phẩm"bình ngô đại cáo" bất hủ.Tiếc thay,với những tài năng như vậy,đáng lẽ,NgT đc vua Lê trọng dụng
và hoàn thành những hoài bão của mình,nhưng càng về sau,ông ko đc vua Lê trọng dụng nữa.Đau buồn
trước cảnh ấy,NgT đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn & dường như số phận trớ trêu khéo dùa cợt ông lần
nữa,gia đình ông bị tru di tam tộc vì tội hại vua_1 nỗi oan lớn của cả thời đại lúc bấy giờ.Thế nhưng,có lẽ
trời đất ko muốn 1 người tài đức như ông phải chịu 1 cái chết oan uổng đén vậy,nên đến thời vua Lê
Thánh Tông,nỗi oan của ông đc rửa sạch và đc vua tặng câu"Úc Trai lòng sáng tựa sao khuê"
NgT ko chỉ là nhà quân sự,nhà văn chính luận mà ông còn nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực khác nhau,để lại


nhiều tác phẩm như:dư địa chí,Lam Sơn thực lục & ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho nền văn
học chữ Nôm nước nhà qua tác phẩm "quân trung từ mệnh tập",ngoài ra còn có tác phẩm"Côn Sơn ca"in
trong tập "Ức Trai thi tập"
Qua những tác phẩm còn sót lại đến nay của NgT,ta thấy thơ văn ông thấm đậm tư tưởng nhân nghĩa,yêu
nước,thương dân.Tiêu biểu như"quân trung từ mệnh tập" ,là tập văn chiến có sức mạnh của 10 vạn
quân.Sức mạnh ấy có đc tùe sự kết hợp tuyệt diệu giữa tue tưởng nhân nghĩa,tư tưởng yêu nước và nghệ
thuật viết văn luận chiến bậc thầy."Bình ngô đại cáo" là áng văn yêu nước lớn của thời đại,là bản tuyên
ngôn về độc lập chủ quyền của dân tộc,bản cáo trạng tội ác kẻ thù,bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn & còn là sự hoà quyện giữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa với tư tưởng yêu nước.Nội dung thơ
văn NgT rất phong phú,đặc biệt đối với tình yêu quê hương gia đình.Nét đầu tiên là niềm tha thiết với
thiên nhiên quê hương.Bắt đầu từ những cái nhỏ nhặt,tưởng như ko đâu nhưng lại chan chứa tình yêu
thương:bè rau muống,lảnh mùng tơi,cây chuối,cây đa...đều trở thành vần điệu trong thơ NgT,tạo nên
những rung động tinh tế trong lòng người.Ông nói 1 cách trang trọng mà thật vui tươi,chân chất:"ao cạn
vớt bèo cấy muống;trì thanh phát cỏ ương sen",ông phát hiện ra 1 vẻ đẹp rất bất ngờ:đêm trăng gánh nứoc
thì gánh luôn cả trăng đem về;bầu trời ko mây,trong suốt 1 màu xanh,ông thấy đó là 1 bầu ngọc đông
lại;thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi,ông nhìnthành 1 đám tằm lúc nhúc:"tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu
bãi".Ông coi thiên nhiên như 1 người ban thân của mình,có lúc,ông như hoà mình vào thiên nhiên đến
mức tưởng như dòng suối,tảng đá phủ rêu,tán trúc như hoà nhập với ông làm 1.
Tiếp theo là niềm gắn bó tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà.Thời còn giặc Minh,nhiều năm,ông
phải lẩn tránh khắp nơi,xa nhà ,xa quê ,xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầu đêm thu,xa nhà bên
ngọn đèn đêm khuya,ông day dứt như trong bài "đêm thu đất khách" ông tâm sự:Đêm khuya,bên ngon
đèn leo lét,hồn mộng cứ vẩn vơ mãi nơi đất khách.Thanh minh đến theo tục,con cháu phải về thăm mồ
mả ông bà,sửa sang bồi đắp,thắp nén hương tưởng nhớ cho đúng đạo làm con cháu,thế mà đã bao năm
nay,ông ko về đc,ông chỉ não lòng:"thân mình xa ngàn dặm,mồ mả ông bà ở quê sao ko giẫy cỏ thắp
hương;10 năm đã qua,những người ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai;đành mượn tạm chén rượu ép


mình uống,ko cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê"(thanh minh_dịch nghĩa)
Chính vì có tâm hồn yêu thiên nhiên,cuộc sống,con người nên NgT sống 1 đời trong sạch,1 lòng vì dân,vì
nước.Khi trở về nông thôn,ông yên lòng & tự hào,ông coi cày cấy là 1 niềm vui:"1 cày 1 cuốc thú nhà

quê".Những người dân lao động chân lấm tay bùn đáng đc biết ơn:"ăn lộc,đền ơn kẻ cấy cày".Cuộc sống
NgT giản dị,nghèo mà thanh,ông ca ngợi hình dáng,tính chất của tùng,chúc ,mai,3 cây ko chịu khuất phục
trước gía lạnh của mùa đông,giống như ông,1 người luôn giữ tấm lòng trong sạch,1 tấm "lòng
thơm".Lòng thơm ấylà lòng yêu nước thương dân,nó suốt đời sôi nổi,nó dự trên chân lí của tư tưỏng nhân
nghĩa_1 tư tưỏng cao đẹp xuyên thấm cuộc đời & thơ văn ông.Đối với NgT,nhân nghĩa chính là trừ
bạo,yên dân.
NgT quả là 1 nhân vật vĩ đại trong lịch sử VN,ông chính là 1 vị anh hùng dân tộc,1 nhà tư tưỏng,nhà
thơ,nhà văn hoá lớn của nước ta.Tâm hồn & sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như vua Lê Thánh
Tông đã ca ngợi"Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo".
Hoặc bài tiếp theo
"Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng"
(Tố Hữu)
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim "ưu thời ái quốc", - thâm thuý, sắc
bén, đầy biến hoá trong tài mưu lược chính trị - nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ về
thiên nhiên, cây cỏ, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim mỗi
người dân Viêt Nam, trong lịch sử dân tộc.
Lắng mình cùng dòng chảy thời gian, trở về với mảnh đất Hải Dương - nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng con
người tài hoa Đất Việt Nguyễn Trãi, ta mới thấu hiểu rằng lấp sau mũ quan, áo gấm là một thời ấu thơ
đầy bão dông. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) sinh ra và lớn lên tại làng Chi Ngại, là con của Nguyễn Phi
Khanh, cháu ngoại tướng công Trần nguyên Đán. Thật may mắn khi con người vốn đã tài hoa, kiệt xuất
trời xinh ấy lại được nuôi dưỡng, lớn lên trong một gia đình mà truyền thống yêu nước, văn hoá, văn học
đã trở thành một niềm tự hào sâu sắc.Thế nhưng, hạnh phúc vừa cầm nắm trong tay thì cuộc đời giông tố
đã ập đến khiến Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát đau thương. Ông để tang mẹ lúc 5 tuổi rồi lại ông ngoại
qua đời khi vừa tròn 10 tuổi. Vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về tinh thần, nỗ lực học tập, năm
1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh
cướp nước ta, cha ông bị chúng bắt sang Trung Quốc. Gánh nặng hai vai là món nợ non sông và mối thù
nhà khôn xiết. Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông Quan tìm vào Lam
Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa. Ông đã trở thành cánh tay đắc lực của Lê Lợi, thực hiện "mưu phục
tâm công" giúp cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến toàn thắng vang dội. Ông hăm hở tham gia vào công

cuộc xây dựng đất nước. Giặc ngoài đã dẹp yên, mâu thuẫn nội bộ triều đình phong kiến nổi lên, Nguyễn
Trãi bị nghi oan, bắt giam. Sau đó ông được thả ra nhưng không còn được tin dùng như trước. Thời thế ép
buộc con người tận trung với nước, tận hiếu với dân phải từ bỏ chốn quan trường về ở ẩn tại Côn Sơn.
Năm 1442, Nguyễn Trãi trở về giúp vua Lê Thánh Tông việc nước thì an oán Lệ Chi Viên đổ ập xuống
gia đình ông. Bọn gian thần vu cho ông giết vua, khép tội "tru di tam tộc". Cuộc đời đã đóng sập trước
mắt con người tài hoa bạc mệnh như một sự thật phũ phàng đến nao lòng, là nỗi xót thương nghẹn ngào
của bao con dân khổ cực dưới ách cùm trói thiếu đi một cánh tay che chở, bảo vệ trước dông tố cuộc đời.
Sinh ra từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi hư vô. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi tưởng đã bị
cuốn phăng khỏi guồng quay của thời gian, chuyến hành trình dài của lịch sử nhưng chính bởi hồn thơ
văn chất chứa đã khẳng định tên tuổi, tạc linh hồn vô hình lên vóc dáng dân tộc, để lại cho đời những
tiếng thơ bất hủ, vang dội mà cũng không kém phần lắng đọng, tinh tế, bình dị như chính những rung
động nhẹ nhàng trong trái tim Nguyễn Trãi:
"Nhắc đến tên ông là thấy thơ
Như một nguồn thiêng chẳng bến bờ".
(Tế Hanh)
Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại. Ông coi thơ là nơi gửi gắm, truyền đạt con mắt
sự đời tinh tế để công phá quân giặc; là miền đất mơ ước mà ở đó tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương
dân thấm nhuần vào hành động, xuyên suốt, chủ đạo như nguồn năng lượng hội tụ phát sáng kì diệu:
"Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng"


(Quốc âm thi tập)
Trong thơ Nguyễn Trãi, hai tiếng "trung hiếu" và "ưu ái" như một lời nguyền vang vọng, trường tồn với
năm tháng: Yêu nước, thương dân - danh là danh tổ quốc - lợi là lợi tổ quốc. Sống để cống hiến, suốt đời
quên mình vì dân vì nước, vì tư tưởng "nhân nghĩa". Rạo rực, hùng hồn, sắc bén, đây "Quân trung từ
mệnh tập" - vang dội khí phách, tinh hoa, cội nguồn dân tộc đây, mãi là áng "Thiên cổ hùng văn" ấy là
Bình Ngô đại cáo...
"Quân trung từ mệnh tập" tuy chỉ là một tập hợp gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giao
thiệp với triều đình nhà Minh của Nguyễn Trãi.... nhưng nó lại là tập văn chiến đấu "có sức mạnh bằng

mười vạn quân" (Phan Huy Chú) với ngòi bút tinh thông, sắc sảo, biến hoá, nhất quán của mưu sư “viết
thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn). Mỗi bức thư là một khâu, một mắt xích quan trọng
trong cả cuộc luận chiến kéo dài giữa ta và địch, là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý lẽ lúc thâm thuý, ý nhị,
lúc biến hoá, sắc sảo đến gai góc, tài tình với tư tưởng yêu nước, thương dân đã tạo cho “sức mạnh của
ngòi bút Nguyễn Trãi được nhân lên, cú đánh nào của ông cũng trúng đích” (Nguyễn Huệ Chi). Nếu văn
đàn Việt Nam đã từng gặp mối giao thời lịch sử và văn học sáng rọi giữa Nam Quốc Sơn Hà với chiến
thắng trên sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt hay Hịch tướng sĩ với chiến thắng chốg quân Nguyên
lần thứ II thì Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự lặp lại một lần nữa mối giao thời rực rỡ, huy hoàng
ấy. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật đến mức kì diệu mà chưa
một tác phẩm chính luận nào đạt tới, là áng văn yêu nước sáng chói non sông, thời đại - một “thiên cổ
hùng văn” không tiền khoáng hậu. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập, bản cáo trạng hùng hồn tội
ác của kẻ thù, là khúc tráng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa phải gắn liền
với chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương, lo cho dân cuộc sống “thái bình, thịnh trị”, “xã tắc từ đây
vững bền” ; lòng tự hào dân tộc sâu sắc:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
(Bình Ngô đại cáo)
Lắng sâu trong Bình Ngô đại cáo là dòng máu lúc bừng lên, sôi sục lòng tự hào dân tộc nhiệt huyết, lúc
âm vang, giận dữ, uất hận trào sôi, lúc nghẹn ngào, tấm tức … Nguyễn Trãi luôn ước vọng nhà nước
phong kiến sẽ lấy nhân nghĩa để “trị dân”, “khoan dân” cho viễn cảnh quê hương đất nước tươi đẹp hiện
ra tươi sáng, huy hoàng, rực rỡ hơn:
“Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Giọng văn chính luận của Nguyễn Trãi
đã đạt tới mức độ nghệ thuật mẫu mực từ cách xác định đối tượng, mục đích để có biện pháp khéo léo tạo
nên kết cấu sức bén, nhất quán. Với tài năng, đức độ cùng những việc mà Nguyễn Trãi đã làm và cống
hiến cho dân tộc, ông xứng đáng là một nhà cải cách vĩ đại, nhà tư tưởng lớn, một danh nhân văn hoá thế
giới. Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thươn dân, để cứu nước phải dựa
vào dân và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho nhân dân.” Tư tưởng nhân nghĩa ấy luôn thiết tha,
thường trực chuyển thành tâm trạng lo âu, bất an:
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba.”

(Bảo kính cảnh giới – 1)
“Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.”
(Thuật hứng – 5)
Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như quặng quý mà ta cần phải khai thác, nhưng khi lộ thiên
nó lại càng lấp lánh hơn bởỉ tư tưởng, tấm lòng yêu nước, thương dân sáng ngời.
Rạo rực khí phách một thời của vị anh hùng nhưng “Bình Ngô đại cáo” hay “Quân trung từ mệnh tập”….
chỉ là chất thép bao bọc bên ngoài một tâm hồn, một trái tim biết đau nỗi đau thời thế, biết yêu, biết sống
đẹp, sống vui. Là bậc anh hùng với lý tưởng cao cả nhưng Nguyễn Trãi xót xa và nghẹn ngào đau xót
trước cảnh người dân bị tàn hại vô tội. Ông thương khóc cho “dân đen” đang rên xiết dưới gót giày quân
giặc. Tình yêu thương đồng loại cao cả, vĩ đại lắm thay là một phần xương máu, tâm can của con người
anh hùng ấy!
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi vốn là con người trung thực, ngay thẳng, yêu lẽ phải và sự công bằng nên nỗi đau xót, buồn
rầu, chua chát về thời thế đen bạc, lòng người đổi thay là điều hiển nhiên:
“ …. Càng một ngày càng ngặt đến xương


…. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
…. Bui một lòng người cực hiểm thay”.
Xã hội càng ngang trái, người anh hùng ấy lại càng ngời sáng phẩm chất cứng cỏi, khát khao tự do, thà
chết chứ không chịu làm nô lệ của cường quyền bạo ngược:
“Một tấm long son ngời lửa luyện
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng
Ung dung cứ nói điều ta thích
Uốn gối theo đời không thể vâng”.




×