Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

quy định pháp luật hiện hành về thi đua khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại truyền tải điện miền tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 - 2014)
Đề tài:

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TRUYỀN TẢI ĐIỆN MIỀN TÂY

Giảng viên hướng dẫn:

Họ và tên sinh viên:

Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Nguyễn Trung Hiếu

Bộ môn Luật Hành chính

MSSV: B 110 050
Lớp Luật Hành Chính
(Bằng 2)

Cần Thơ, tháng 05 năm 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 37 (2011 - 2014)
Đề tài:

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TRUYỀN TẢI ĐIỆN MIỀN TÂY

Giảng viên hướng dẫn:

Họ và tên sinh viên:

Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Nguyễn Trung Hiếu

Bộ môn Luật Hành chính

MSSV: B 110 050
Lớp Luật Hành Chính K37 - Bằng 2

Cần Thơ, tháng 05 năm 2014


LỜI CẢM ƠN THẦY CÔ
Trong suốt quá trình học tập vừa qua (từ năm 2011 - 2014), với sự
giảng dạy, dìu dắt tận tình của quý Thầy Cô Khoa Luật - Trường Đại Học
Cần Thơ đặc biệt là quý Thầy Cô trong Bộ môn Luật Hành Chính, qua các

bài giảng về lý thuyết và các bài chuyên môn, các buổi báo cáo - phản biện
... đã giúp em nắm bắt được phần nào những kỷ năng cơ bản về việc nghiên
cứu luật, Thầy Cô đã bổ sung rất nhiều kiến thức bổ ích còn hạn chế trong
em. Tuy nhiên, "trăm nghe không bằng một thấy", với phương châm "học
phải đi đôi với hành", Nhà trường đã dành thời gian và tạo điều kiện cho em
nghiên cứu thực tế tại Đơn vị, nhằm thấu suốt hơn nữa phần lý thuyết đã
được học và so sánh giữa lý thuyết với thực tế có gì khác nhau cũng như
những đặc trưng của Pháp Luật Việt Nam.
Đạt được kết quả như ngày hôm nay, em vô cùng biết ơn Ban Giám
Hiệu Nhà trường, Khoa Luật và quý Thầy Cô trực tiếp giảng dạy cho em
những kiến thức cần thiết để thực hành trong quá trình công tác của mình.
Em kính gửi lởi cảm ơn chân thành đến Thầy Diệp Thành Nguyên, Người đã
trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian em làm luận văn tốt nghiệp và
tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, do kiến thức còn hạn
hẹp sẽ không tránh khỏi những sai sót, xin quý Thầy Cô, các Cô Chú, Anh
Chị, các bạn chỉ bảo và hướng dẫn thêm cho em, đó là điều mọi sinh viên
như em luôn mong muốn, em xin chân thành tiếp thu sự chỉ bảo quý báu của
mọi người để em có nền tảng trao dồi thêm nghiệp vụ và kiến thức.
Sau cùng em kính gửi đến quý Thầy Cô những lời chúc tốt đẹp nhất,
kính chúc Ban Giám Hiệu Nhà trường dồi dào sức khỏe, chúc Trường Đại
Học Cần Thơ đạt được những thắng lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch được giao.
Trân trọng kính chào./.
Cần Thơ, ngày 14 tháng 4 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Trung Hiếu



NHẬN XÉT CỦA THẦY CÔ

.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như
trong công cuộc đổi mới xây dựng tổ quốc, thi đua, khen thưởng luôn là một chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong hơn 60 năm qua, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát động và tổ chức nhiều phong trào thi đua
sôi nổi, rộng khắp, góp phần tạo động lực to lớn, cổ vũ, động viên nhân dân ta
vượt lên mọi khó khăn, thử thách, chung sức, chung lòng làm nên thắng lợi vẻ
vang của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy công tác thi đua, khen thưởng trong
những năm qua vẫn còn có những bất cập. Khen thưởng còn dàn trải, theo kiểu
“Khen cán bộ, công chức nhiều, khen công nhân, nhân viên ít”, trong bình xét
khen thưởng còn nể nang, không thực chất, khen chưa đi cùng với thưởng, thi
đua chưa thực sự gắn kết với khen thưởng nên chưa phát huy được hết sức mạnh
của thi đua hoặc khen thưởng, chưa phát huy được vai trò là đòn bẩy cho việc
hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mặt khác, công tác thi
đua, khen thưởng hầu như chỉ mang tính chất động viên, khuyến khích đối với
những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong một năm thực hiện nhiệm vụ,
chưa chú trọng đến khen thưởng cho thành tích đột xuất của tập thể, cá nhân
trong một vụ việc cụ thể nên cũng làm giảm vai trò, hiệu quả của công tác này.
Để phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ cũng như nhu cầu học tập,
nghiên cứu, trong những năm qua, một số cá nhân, tổ chức làm công tác thi đua,
khen thưởng và các nhà quản lý, nghiên cứu khoa học đã có những đề tài nghiên
cứu về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này. Ngoài ra, còn một số bài viết đăng
trên các tạp chí và cán bộ lãnh đạo làm công tác thi đua, khen thưởng ở một số
tỉnh, thành phố, cơ quan, xí nghiệp đã tiến hành nghiên cứu, sắp xếp, hệ thống
hóa các quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng, để hình thành các tài liệu
mang tính cẩm nang trong thực ti n hoạt động thi đua, khen thưởng của đơn vị
mình.
Là người đang công tác tại Phòng Hành Chánh Nghiệp Vụ thuộc Truyền

Tải Điện Miền Tây, tôi chọn đề tài: "Quy định pháp luât hiện hành về Thi đua
- Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây" làm luận
văn tốt nghiệp đại học của mình với hy vọng rằng đề tài này có thể đóng góp
thêm phần nhỏ vào việc hoàn thiện công tác thi đua, khen thưởng tại Truyền Tải
Điện Miền Tây (sau đây gọi là Đơn vị).

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 1

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

2. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn làm sáng tỏ các căn cứ pháp lý để áp dụng trong thi đua, khen
thưởng và thực ti n áp dụng; hệ thống hóa và đánh giá khái quát các quy định về
thi đua, khen thưởng đang áp dụng; đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện quy định về thi đua, khen thưởng hiện nay tại Đơn vị.
3. Phạm vi nghiên cứu:
* Về mặt pháp luật
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi những quy định pháp luật hiện hành của
nước ta và các căn cứ pháp lý để áp dụng trong công tác thi đua, khen thưởng.
* Về mặt thực tiễn
Phân tích, đánh giá công tác thi đua, khen thưởng của Đơn vị trong những
năm gần đây, những kết quả đã đạt được, cũng như những bất cập, hạn chế trong
quá trình áp dụng, để đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài, người viết sử dụng phương pháp luận, duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, bên cạnh đó người viết sử dụng phương pháp cụ thể
như phương pháp phân tích luật viết, phương pháp tổng hợp đánh giá, phương
pháp tâm lý xã hội học; phân tích và so sánh với thực ti n đang di n ra tại Đơn
vị.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn g m 3 chương:
Chương 1. Khái quát chung về thi đua, khen thưởng;
Chương 2. Quy định pháp luật hiện hành về thi đua, khen thưởng;
Chương 3. Thực ti n áp dụng pháp luật trong công tác thi đua, khen
thưởng tại Truyền Tải Điện Miền Tây và một số kiến nghị.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 2

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Những vấn đề lý luận về thi đua, khen thƣởng:
1.1.1. Khái niệm, bản chất và mối quan hệ thi đua, khen thưởng:
* Khái niệm thi đua:
Trong lịch sử xã hội loài người, để t n tại và phát triển đến ngày nay,
con người đã phải trải qua một quá trình lao động bền bỉ và liên tục, sự gắn kết
giữa con người với con người trong quá trình lao động đã tạo nên quá trình phát

triển đi lên của xã hội loài người và thi đua chính là một trong những yếu tố làm
nên sự gắn kết ấy.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định, thi đua không giống với cạnh
tranh như quan điểm của các nhà tư tưởng tư sản thời bấy giờ, bởi vì "Cạnh
tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những
tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau", V.I. Lênin viết: "Cạnh tranh
là một hình thức thi đua đặc biệt mà xã hội tư bản chủ nghĩa vốn có, là sự giành
giật miếng ăn, giành giật ảnh hưởng và địa vị trên thị trường giữa những người
sản xuất riêng lẻ" 1. Như vậy, thi đua xuất phát từ động cơ vì lợi ích tập thể, là
sự đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ trong quá trình lao động tập thể, còn cạnh
tranh xuất phát từ động cơ cá nhân, vị k , là tìm cách đ b p đối phương để tiến
lên. Cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản có tính phủ định, nó tất yếu dẫn đến tình
trạng "cá lớn nuốt cá bé", còn thi đua trong chủ nghĩa xã hội làm cho mọi người,
mọi tổ chức cùng thi đua, hợp tác để phát triển. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, với sự t n tại của hai thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cạnh tranh và thi đua có thể cùng t n tại và phát huy
những mặt tích cực của mình trong quá trình thúc đẩy xã hội phát triển.
Vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
thi đua và thi đua xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch H Chí
Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên tầm tư tưởng, coi thi đua là biểu hiện của
lòng yêu nước, là những hành động cụ thể của mỗi cá nhân vì lợi ích chung của
cộng đ ng và xã hội, Người nói "Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi
đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất" 2 . Chủ tịch H Chí
Minh coi thi đua vốn t n tại khách quan trong xã hội khi nói: "…Tưởng lầm
rằng thi đua là một việc làm khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công
việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn
1
2

V. I. Lênin (1977), toàn tập, tập 36, NXB Tiến bộ, Mátxcơva (Trang 185).

Phát biểu tại Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc (01/5/1952) .

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 3

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

mặc, vẫn ở, nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau
ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng, nay ta thi đua làm cho ruộng tốt hơn, sản xuất
nhiều hơn, mọi việc đều thi đua từ như vậy" 3 .
Thi đua yêu nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa được coi là một hình
thức hợp tác sáng tạo mới giữa người với người, góp phần nảy nở và phát triển
năng lực của con người. Thi đua xã hội chủ nghĩa ra đời trên cơ sở lao động tập
thể, những quan hệ tương trợ và hợp tác theo tinh thần đ ng chí.
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết, hợp
tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm; người tiền tiến thân ái giúp
đỡ người chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Thi đua xã hội chủ nghĩa không
chỉ nhằm đến mục đích kinh tế, mà còn xây dựng con người mới, r n luyện nhân
cách cao đ p cho người lao động. Vì vậy, thi đua có ý nghĩa nhân đạo, nhân văn
cao cả, thông qua thi đua để giáo dục động viên mọi người, nâng cao lòng yêu
nước, ý thức giác ngộ giai cấp, trách nhiệm công dân và tính cộng đ ng xã hội.
Như vậy, thi đua là một hiện tượng khách quan, là quy luật phát triển tất
yếu trong quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động
thì ở đó nảy sinh thi đua. Thi đua là cùng nhau đem hết tài năng, sức lực ra làm
nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong chiến đấu, sản xuất, công
tác hoặc học tập.

Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay, thi đua giữ vai trò hết sức quan trọng, góp phần tạo động lực
và là sức mạnh nội sinh để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, để
ngày càng phát huy được vai trò, tác dụng của mình, thi đua cũng cần phải đổi
mới đề phù hợp với từng giai đoạn cách mạng của đất nước. Luật Thi đua, khen
thưởng quy định: "Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện
của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc" 4.
Theo khái niệm trên, thi đua trước hết là một hoạt động có tổ chức, đây
là yếu tố xuyên suốt quá trình tổ chức thi đua, từ khi lập kế hoạch, xác định mục
tiêu, hình thức, đối tượng, tổ chức phát động, ký giao ước thi đua, kiểm tra, đôn
đốc, sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, biểu dương, nhân rộng điển hình tiên
tiến… Phát động phong trào thi đua là những chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của Luật Thi đua - Khen thưởng, nội dung thi đua được thực hiện trên cơ sở
các nguyên tắc quy định và khi tặng các danh hiệu phải dựa trên các căn cứ, tiêu
chuẩn cụ thể.
3
4

H Chí Minh (1995), toàn tập, tập 5, (trang 457).
Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 4

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"


Thi đua là hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tức là những cá
nhân đều có thể theo ý chí của mình tham gia hoặc không tham gia các phong
trào thi đua. Mặt khác, thi đua là hoạt động có mục tiêu, định hướng rõ rệt, là kết
quả cuối cùng mà các phong trào thi đua hướng tới, ngoài các mục tiêu cụ thể
của mỗi phong trào thi đua, các phong trào thi đua yêu nước nói chung đều vì
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch H Chí Minh đã xem thi đua là biểu hiện của lòng yêu nước, là những
hành động cụ thể của mỗi cá nhân vì lợi ích chung của cộng đ ng và xã hội.
Như vậy, thi đua là một hiện tượng khách quan, là quy luật phát triển tất yếu
trong quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở
đó nảy sinh thi đua.
* Khái niệm khen thưởng:
Trong bất cứ chế độ xã hội nào, việc thưởng, phạt cũng là một trong
những biện pháp để định hướng chuẩn mực xã hội, nhằm nêu cao và khẳng định
những hình mẫu lý tưởng. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc... khác
nhau, việc thưởng, phạt cũng không giống nhau. Ở những xã hội chưa có nhà
nước, việc thưởng, phạt căn cứ vào phán quyết của cộng đ ng, trong thời kỳ này
việc khen thưởng chủ yếu được biểu hiện thông qua sự công nhận và tôn vinh
của cộng đ ng, thể hiện sự kính trọng của cộng đ ng đối với cá nhân và ở uy tín
của cá nhân trong việc tham gia giải quyết những công việc của cộng đ ng, từ
đó trở thành hình mẫu tiêu biểu cho lý tưởng sống, chuẩn mực nhân cách của
cộng đ ng. Khi nhà nước hình thành, việc khen thưởng chủ yếu do nhà nước ghi
nhận đối với những tập thể, cá nhân đáp ứng được những tiêu chí hoặc lập được
thành tích, công trạng theo những quy định do nhà nước lập ra. Khen thưởng trở
thành nhu cầu, một phạm trù tất yếu cho sự t n tại và phát triển bền vững của
cộng đ ng xã hội loài người.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên và các sứ thần triều Lê,
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có ghi lại về việc khen
thưởng trong xã hội phong kiến Việt Nam, theo đó lý do mà những người được

triều đình khen thưởng rất đa dạng, cụ thể là:
- Khen thưởng người có công trong chiến trận.
- Khen thưởng người có công trong việc đi sứ.
- Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức.
- Khen thưởng người tiến cử người hiền tài.
- Khen thưởng người có lời tâu đúng.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 5

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền quý cấp trên.
- Khen thưởng người có công làm thủy lợi.
- Khen thưởng người có tài văn chương.
- Khen thưởng người cao tuổi 5 .
Đối tượng khen thưởng là từ quan lớn đến thường dân, từ người già đến
trẻ em (11 tuổi), từ nam giới đến phụ nữ, từ người kinh đến người thuộc các dân
tộc thiểu số đều được khen thưởng.
Hình thức khen thưởng cũng rất đa dạng. Nếu còn sống, người được
khen thưởng có thể được nhận một hoặc nhiều hình thức như: Được ban họ Vua
(Quốc tính), được nghi công trạng vào sử sách, được vẽ hình, được dựng bia ghi
công, được phong chức, được thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất. Nếu người
có công đã mất thì Vua đích thân làm văn tế, giảm ăn, nghỉ coi chầu một số
ngày, truy phong, truy tặng hoặc gửi vàng bạc, lụa để viếng, phong quan chức

cho con, cấp ruộng đất cho con cháu thờ cúng.
Cách đây hơn 600 năm Nguy n Trãi đã viết: Nhà nước thưởng nhiều hơn
phạt là Nhà nước ph n vinh; nhà nước thưởng, phạt nghiêm minh là nhà nước
vững mạnh; nhà nước phạt nhiều hơn thưởng là nhà nước đang suy tàn.
Theo quan điểm của Chủ tịch H Chí Minh: "Trong một nước thưởng,
phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi,
kiến quốc mới thành công" 6. Khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời có
tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương; có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, có
công mới có huân, phải có công huân mới khen thưởng, thưởng cái nào đích
đáng cái ấy.
Nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh thì cho rằng: Khen thưởng là một
vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Công tác khen thưởng cũng như trừng
phạt là một vấn đề hiện thực phát sinh và t n tại trong quá trình phát sinh, phát
triển con người. Giai cấp thống trị sử dụng nó như là một vũ khí để duy trì
quyền lực thống trị của mình.
Như vậy, khen là sự nhận xét, đánh giá tốt về một người nào đó, tổ chức
nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý hài lòng. Còn thưởng là tặng tiền hoặc hiện vật
để tỏ ý khen ngợi và khuyến khích cá nhân hay tổ chức đã có công hay việc làm
xuất sắc. Khen thưởng là việc khen và thưởng một cách chính thức, có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vừa có ý nghĩa động viên về tinh
5
6

Đại Việt sử ký toàn thư (1993), tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
H Chí Minh (1995), toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (trang 163).

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 6


SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

thần, vừa có sự khích lệ bằng vật chất. Khen thưởng là một vấn đề liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, phát sinh và t n tại trong quá
trình phát triển của xã hội loài người, là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt
tinh thần của con người. Do đó khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần
chúng, phải có trách nhiệm cao trong việc thực hiện xét khen thưởng.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, khen thưởng vẫn
giữ vai trò quan trọng, tạo động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, khuyến khích động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái lập thành tích trong
lao động sản xuất và công tác.
Trên cơ sở lý luận về thi đua, khen thưởng, Luật Thi đua, Khen thưởng quy
định: "Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến
khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và
bảo vệ tổ quốc". 7
Mục đích căn bản của khen thưởng là khích lệ, khơi dậy một cách đúng đắn
động cơ làm việc của mọi người, khiến cho họ coi việc thực hiện mục tiêu của tổ
chức cũng như thực hiện nhu cầu của bản thân, từ đó làm cho tính tích cực và
sáng tạo của họ tiếp tục được duy trì và phát huy, góp phần xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa.
* Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau.
Thi đua là cơ sở của khen thưởng, bởi vì như Chủ tịch H Chí Minh đã từng nói
"Thi đua là gieo tr ng, khen thưởng là gặt hái" và có tổ chức tốt phong trào thi
đua thì kết quả khen thưởng mới cao. Khen thưởng chính xác, kịp thời, đúng
người, đúng việc sẽ có tác dụng động viên cho mùa thi đua sau đạt kết quả cao
hơn. Do vậy không coi nh khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi

đua thì không có căn cứ đánh giá thành tích khen thưởng.
Thi đua tốt thì có nhiều thành tích để khen thưởng, bình bầu thi đua đúng
giúp cho việc khen thưởng chính xác; bình bầu thi đua không chặt chẽ, nể nang,
cào bằng thì dẫn đến khen thưởng tràn lan; bình bầu thi đua chiếu lệ, không
kiểm tra kỹ dẫn đến khen sai. Vì vậy muốn làm tốt công tác khen thưởng phải
lãnh đạo tốt việc bình bầu thi đua ngay từ cơ sở.
Khen thưởng là để đánh giá phong trào thi đua quần chúng, đánh giá
đúng, khen thưởng chính xác, kịp thời có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua
phát triển mạnh mẽ; khen thưởng kịp thời, thường xuyên sẽ duy trì phong trào

7

Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 7

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

thi đua liên tục. Nếu đánh giá không đúng, khen thưởng sai sẽ làm mất đi động
lực thi đua, khen càng cao, tác hại càng lớn, càng rộng.
Thi đua và khen thưởng có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau,
tác động lẫn nhau nhưng cũng độc lập với nhau, không phụ thuộc vào nhau. Bởi
vì, không phải tất cả các hình thức khen thưởng đều xuất phát từ thi đua. Trong
quá trình lao động, học tập, công tác và chiến đấu, có những tập thể, cá nhân lập
được thành tích, được khen thưởng mà các thành tích ấy không bắt ngu n từ một

phong trào thi đua nào, chẳng hạn như khen thưởng đối ngoại, khen người có
công giúp đỡ cách mạng, khen tổng kết thành tích kháng chiến, khen đột xuất
cứu người, cứu tài sản của nhà nước và nhân dân, khen thưởng người có quá
trình lâu dài trong cơ quan, tổ chức đoàn thể…
Thi đua là hành động cách mạng, là hành động tự nguyện, tự giác của
quần chúng. Khi tham gia phong trào thi đua, mục tiêu cuối cùng mà cá nhân, tổ
chức hướng tới là kết quả trong thực hiện công việc của mình, chứ không phải là
để được khen thưởng, tôn vinh. Người có ý thức tự giác cao không đòi hỏi phải
có hình thức động viên nào, trong kháng chiến cũng như trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, có rất nhiều người đã lập được những thành tích đặc biệt xuất sắc,
thậm chí không tiếc xương máu, tính mạng của mình, hi sinh vì độc lập tự do
cho Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên của nhân dân. Những chiến công, thành tích
mà họ đạt được không vì mục đích để được khen thưởng, mà xuất phát từ lòng
yêu nước, vì sự bình yên của Tổ quốc và của nhân dân.
Người có tinh thần thi đua cao tức là có tinh thần yêu nước cao, là người
luôn có tinh thần học hỏi, suy nghĩa, tìm tòi, sáng tạo, vượt khó vươn lên để
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Còn việc đánh giá thành tích, khen thưởng là sự thừa
nhận của tập thể, trách nhiệm của lãnh đạo, của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Muốn làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, phải có sự quan tâm lãnh
đạo của cấp ủy Đảng các cấp, cùng phối hợp chặt chẽ giữa vai trò vận động, tổ
chức của đoàn thể chính trị - xã hội và vai trò quản lý nhà nước của chính
quyền, để động viên mọi người phấn khởi, hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, có thể nói thi đua, khen thưởng là động lực phát triển xã hội.
Làm tốt công tác thi đua và công tác khen thưởng sẽ có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau,
thúc đẩy nhau, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.2. Vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng:
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc cũng
như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thi đua, khen thưởng luôn đóng
một vai trò quan trọng, thực sự trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ các phong

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 8

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

trào cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp, động viên, cổ vũ mọi tầng lớp
nhân dân tham gia kháng chiến kiến quốc, thi đua lao động sản xuất, góp phần to
lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển
và bảo vệ Tổ quốc.
Trước những thời cơ và thách thức vô cùng to lớn, công tác thi đua, khen
thưởng càng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, cần tiếp tục thực hiện tư tưởng
của Chủ tịch H Chí Minh coi "thi đua, khen thưởng là động lực phát triển và là
biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới, thi đua yêu nước phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục, hàng ngày" 8.
Để thi đua huy động được năng lực sáng tạo của quần chúng thì phong
trào thi đua phải có mục tiêu và nội dung cụ thể, thiết thực, đ ng thời cũng chính
là nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, là quyền lợi của cộng đ ng tập
thể và trong đó có quyền lợi của mỗi cá nhân. Vì vậy, nếu không gắn kết nội
dung thi đua với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tập thể thì thi đua không
có sức sống và mang tính hình thức. Mặt khác, khen thưởng cũng phải đảm bảo
khen đúng, chính xác và kịp thời theo nguyên tắc thành tích đến đâu khen đến
đó, sử dụng đa dạng các hình thức khen thưởng cho phù hợp. Khen thưởng
không kịp thời hoặc khen thưởng không đúng sẽ hạn chế tác dụng, không đảm
bảo tính nêu gương, giáo dục thậm chí gây những hậu quả không tốt trong dư
luận quần chúng, làm giảm hoặc mất động lực phấn đấu, nhiệt tình tham gia
phong trào của các tầng lớp nhân dân.

- Không chỉ là động lực của các phong trào cách mạng, thi đua, khen
thưởng còn là một công cụ để quản lý nhà nước. Phát hiện, nêu gương, khen
thưởng các điển hình tiên tiến chính là một trong những nội dung quan trọng
trong hoạt động quản lý của nhà nước thông qua biện pháp thuyết phục. Những
tập thể, cá nhân điển hình và những kinh nghiệm của họ đóng vai trò quan trọng
để tạo ra một phong trào rộng lớn trên phạm vi cả nước và có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả quản lý nhà nước. Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước một cách
hiệu quả, sẽ thu hút, động viên được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia
quản lý các công việc của nhà nước và xã hội, phát huy được lòng nhiệt tình,
tính sáng tạo của quần chúng, giáo dục ý thức tự giác thực hiện các nghĩa vụ
công dân của họ, chính là yếu tố cốt lõi góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của
nhà nước.
Sinh thời Bác H đã từng nói: Trong mỗi con người đều có mặt thiện và
mặt ác, nhiệm vụ của chúng ta là làm cho mặt thiện sinh sôi, nảy nở, mặt ác phải
8

Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 3/6/1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn cách mạng mới.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 9

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

đẩy lùi. Suy cho cùng mọi việc lãnh đạo đề ra đều do các công dân và các tổ
chức cơ sở thực hiện, vậy ai làm tốt, tập thể nào làm tốt phải biết và khen ngợi,

phải tuyên dương để học tập. Có như vậy những việc tốt, việc tích cực mới
nhiều lên, mới phát triển lấn át và đẩy lùi cái xấu, tiêu cực. Vì vậy, khen thưởng
là một khâu quan trọng trong quá trình tổ chức và chỉ đạo nhiệm vụ của Đảng và
Nhà nước, của mọi cơ quan, tổ chức, là biện pháp quan trọng trong việc đánh giá
kết quả, thành tựu, đánh giá mức độ cống hiến của một tổ chức, một cơ quan và
của mỗi cá nhân. Sử dụng thi đua, khen thưởng như một công cụ quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội chính là phát huy nhân tố con người trong công
tác thi đua, khen thưởng, thông qua hoạt động có chủ định của con người để tác
động vào các yếu tố của quá trình sản xuất, lao động, học tập, nghiên cứu khoa
học và trong quá trình quản lý, lãnh đạo. Đó chính là việc phát huy sức mạnh
của mỗi cá nhân và của cả tập thể vào giải quyết những vấn đề khó, những
nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc, tạo ra phong trào quần chúng để tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ.
- Có thể nói công tác thi đua, khen thưởng trong bất kỳ thời kỳ nào cũng
có vị trí, vai trò quan trọng, là biện pháp cần thiết để xây dựng con người mới,
phát triển toàn diện. Trong công tác lãnh đạo, quản lý việc tạo dựng, đẩy mạnh
phong trào thi đua, hướng phong trào thi đua vào việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thi đua, khen thưởng có nhiệm vụ phát huy mọi ngu n lực, góp phần nâng
cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ, gắn với việc nâng cao dân trí, đào
tạo ngu n nhân lực, b i dưỡng nhân tài, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
đất nước. Tinh thần thi đua yêu nước thiết thực còn thể hiện ở ý chí r n luyện
phẩm chất chính trị, ra sức học tập, nghiên cứu khoa học, tiếp thu những thành
tựu của khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Thi đua tạo ra môi trường
lành mạnh, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc.
1.2. Quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng:
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen
thưởng:
Công tác thi đua, khen thưởng ngày càng trở thành một trong những công
cụ hỗ trợ đắc lực trong quản lý Nhà nước; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng

không những góp phần tạo ra động lực cho phong trào hành động cách mạng của
quần chúng mà qua phong trào đó, những nhân tố tích cực được phát hiện và
khen thưởng kịp thời sẽ tác động không nhỏ động viên tinh thần trách nhiệm,
lòng nhiệt tình, sự say mê sáng tạo của quần chúng dẫn đến việc hoàn thành
nhiệm vụ công tác đạt chất lượng cao, đem lại nhiều của cải vật chất cho xã hội,
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 10

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

qua đó cho chúng ta thấy được sự cần thiết phải quản lý nhà nước về công tác thi
đua, khen thưởng.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng:
1.2.2.1. Quy định về thi đua và các danh hiệu thi đua
- Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập
thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc9.
- Mục tiêu thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi
cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo, vươn lên
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
- Về nguyên tắc thi đua: Có hai nguyên tắc g m "Tự nguyện, tự giác, công
khai" và "Đoàn kết, hợp tác, cùng phát triển"10. Đây là hai nguyên tắc thể hiện
bản chất, tính ưu việt của thi đua xã hội chủ nghĩa, quyền dân chủ của công dân
khi quyết định tham gia phong trào thi đua và là cơ sở đảm bảo tính chính xác
trong khen thưởng.
- Về hình thức thi đua11: Thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt (hoặc thi

đua theo chuyên đề).
+ Thi đua thường xuyên được tổ chức thực hiện hàng ngày, hàng tháng,
hàng quý, hàng năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu và chương trình công tác
đề ra.
+ Thi đua theo đợt (hoặc thi đua theo chuyên đề) được tổ chức để thực
hiện những nhiệm vụ công tác trọng tâm, đột xuất theo từng giai đoạn và thời
gian được xác định.
- Đối tượng thi đua12: Công dân Việt Nam, các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài; người nước ngoài,
cơ quan tổ chức nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam.
- Danh hiệu thi đua:13
+ Các danh hiệu thi đua đối với cá nhân: "Chiến sĩ thi đua toàn quốc";
"Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương"; "Chiến sĩ thi đua cơ
sở"; "Lao động tiên tiến", "Chiến sĩ tiên tiến".
9

Khoản 1, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003.
Khoản 1, Điều 6, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003.
11
Khoản 1, Điều 15, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, Điều 6 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, ngày
15 tháng 4 năm 2010
12
Điều 2, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, Điều 2 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP.
13
Điều 7, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11; Điều 11 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP.

10


GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 11

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

+ Các danh hiệu thi đua đối với tập thể: "Cờ thi đua của Chính phủ"; "Cờ thi
đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương"; "Tập thể lao động xuất sắc", "Đơn
vị quyết thắng"; "Tập thể lao động tiên tiến", "Đơn vị tiên tiến"; Thôn, bản, làng,
ấp, tổ dân phố văn hóa và tương đương.
+ Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình là "Gia đình văn hóa".
- Căn cứ xét danh hiệu thi đua: Phong trào thi đua, đăng ký tham gia thi đua,
thành tích thi đua và tiêu chuẩn thi đua:
+ Phong trào thi đua là căn cứ quan trọng nhất làm căn cứ xét tặng danh
hiệu thi đua. Nếu phong trào thi đua không được phát động, sẽ không có tập thể,
cá nhân tham gia và không có điển hình tiên tiến để xét tặng các danh hiệu thi
đua.
+ Đăng ký tham gia thi đua là một trong những biện pháp triển khai thực
hiện phong trào thi đua, khởi đầu cho một phong trào thi đua cụ thể. Tập thể, cá
nhân phải đăng ký tham gia phong trào thi đua, không có tập thể, cá nhân đăng
ký tham gia sẽ không có phong trào thi đua.
+ Thành tích thi đua là kết quả thi đua đạt được của cá nhân, tập thể
trong quá trình tham gia, kết quả đạt được trong phong trào thi đua càng xuất sắc
thì hình thức khen thưởng danh hiệu thi đua càng cao.
+ Tiêu chuẩn thi đua là những quy định của pháp luật đối với từng hình
thức thi đua, từng danh hiệu thi đua.
- Tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua: Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua được qui

định từ Điều 21 đến Điều 31 Luật Thi đua, Khen thưởng và từ Điều 12 đến Điều 19
Nghị định số 42/2010/NĐ-CP của Chính phủ, với mỗi loại danh hiệu thi đua được
quy định các tiêu chuẩn cụ thể, thành tích thi đua tương ứng với mức độ đóng góp
cho sự nghiệp chung của đất nước, của Bộ, ngành, địa phương và đơn vị.
1.2.2.2. Quy định về khen thưởng và các hình thức khen thưởng
- Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và
khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc14.
- Nguyên tắc khen thưởng 15:
+ Chính xác, công bằng, công khai và kịp thời: Khen thưởng phải chính
xác, đúng đối tượng, đúng hình thức, đúng thành tích. Thực hiện công khai trong
bình xét, khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng; công khai trong việc
trao tặng, tuyên truyền các tập thể, cá nhân được khen. Khen thưởng phải công
14
15

Khoản 2, Điều 3, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003.
Khoản 2, Điều 6, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 12

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

bằng, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi... và phải kịp thời,
đảm bảo thời gian mới có ý nghĩa, tác dụng.

+ Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng:
Trong quá trình học tập, lao động và công tác của các cá nhân và tập thể có thể
lập được nhiều thành tích khác nhau trên nhiều lĩnh vực; khi xem xét đề nghị
khen thưởng phải căn cứ vào thời gian, phạm vi ảnh hưởng, công lao đóng góp,
hình thức và điều kiện lập được thành tích. Thành tích đạt được, công lao đóng
góp trong điều kiện và hoàn cảnh khác nhau nhưng đạt tiêu chuẩn của một mức
hình thức khen thưởng, thì có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng.
+ Bảo đảm tính thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen
thưởng: Tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng có liên quan chặt chẽ với
nhau. Tính chất ở đây là tính chất công việc hoặc lĩnh vực công tác của từng tập
thể, cá nhân. Hình thức khen thưởng từ thấp đến cao đã được quy định như:
Giấy khen, Bằng khen, Huân chương... Đối tượng khen thưởng là tập thể, cá
nhân công tác trong một lĩnh vực hoặc một công việc cụ thể. Hình thức khen
thưởng phải phản ánh đúng thành tích đạt được trong từng lĩnh vực công tác cụ
thể. Đối tượng được khen thưởng cũng phải phản ánh đúng hình thức và thành
tích.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa động viên về tinh thần phải đi đôi với thưởng về
vật chất: Khen đi đôi với thưởng là một yêu cầu không thể thiếu bởi vì như quan
niệm của nhân dân ta "trăm đ ng tiền công không bằng một đ ng tiền thưởng",
để động viên những cá nhân và tập thể có thành tích xuất sắc đóng góp cho việc
thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên,
khen thưởng chủ yếu vẫn mang ý nghĩa tinh thần, động viên, khuyến khích, để
tạo ra sức hút, động lực của phong trào thi đua.
- Các hình thức khen thưởng16: Khen thưởng có 07 hình thức khen
thưởng chủ yếu bao g m: Huân chương; Huy chương; Danh hiệu vinh dự Nhà
nước; Giải thưởng H Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước; K niệm chương, Huy
hiệu; Bằng khen; Giấy khen.
Tương ứng với 07 hình thức khen thưởng trên có 29 loại khác nhau, bao
g m 10 loại huân chương; 04 loại huy chương; 08 loại danh hiệu vinh dự Nhà
nước; 02 loại giải thưởng, 01 loại k niệm chương; 01 loại huy hiệu; 02 loại

bằng khen và 01 loại giấy khen, cụ thể như sau:
+ Huân chương: Để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có
công trạng, lập được thành tích thường xuyên, đột xuất hoặc có quá trình cống
16

Điều 8, Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 13

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

hiến, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huân chương có 10
loại, hình thức các loại, hạng huân chương được phân biệt bằng màu sắc, số sao,
số vạch trên dải và cuống huân chương, g m: "Huân chương Sao vàng"; "Huân
chương H Chí Minh"; "Huân chương Độc lập" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
"Huân chương Quân công" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; "Huân chương Lao
động" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhất,
hạng nhì, hạng ba; "Huân chương Chiến công" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
"Huân chương Đại Đoàn kết dân tộc"; "Huân chương Dũng cảm"; "Huân
chương Hữu nghị".
+ Huy chương: Để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng làm việc trong các đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân
dân và người nước ngoài đã có thời gian cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huy chương có 04 loại, hình thức các loại, hạng huy

chương được phân biệt bằng màu sắc, số vạch trên dải và cuống huy chương,
g m: "Huy chương Quân kỳ quyết thắng"; "Huy chương Vì an ninh Tổ quốc";
"Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; "Huy chương
Hữu nghị".
+ Danh hiệu vinh dự Nhà nước: Để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng
cho tập thể có những đóng góp đặc biệt xuất sắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Danh hiệu vinh dự Nhà nước có 08 loại g m có: "Tỉnh anh hùng",
"Thành phố anh hùng"; "Bà m Việt Nam anh hùng"; "Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân"; "Anh hùng Lao động"; "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú";
"Thầy thuốc nhân dân", "Thầy thuốc ưu tú"; "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ sĩ ưu
tú";- "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú".
+ "Giải thưởng H Chí Minh", "Giải thưởng Nhà nước": Để tặng cho tác
giả của một hoặc nhiều công trình, tác phẩm đã được công bố, sử dụng kể từ
ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoặc để tặng cho người nước
ngoài có tác phẩm, công trình nghiên cứu về Việt Nam.
+ K niệm chương, Huy hiệu: Để tặng cho cá nhân có đóng góp vào quá
trình phát triển của bộ, ban ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội. Tên k niệm chương, tên huy hiệu, đối tượng và tiêu chuẩn do bộ,
ban ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội qui định.
K niệm chương, Huy hiệu phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng ở Trung ương.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 14

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"


+ Bằng khen: Để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân và tặng cho tập thể lập
được thành tích thường xuyên và đột xuất. Ngoài ra còn tặng hoặc truy tặng cho
cá nhân có thành tích trong thời kỳ kháng chiến.
+ Giấy khen: Để tặng cho cá nhân và tập thể lập được thành tích thường
xuyên và đột xuất.
- Đối tượng khen thưởng: Cũng giống như đối tượng thi đua, đối tượng
khen thưởng rất rộng bao g m: Công dân Việt Nam, các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, đơn vị
lực lượng vũ trang nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài; người nước ngoài,
cơ quan tổ chức nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam.
Các đối tượng khen thưởng được qui định hầu hết trong các hình thức
khen thưởng và các loại hình khen thưởng. Tuy đối tượng khen rộng, nhưng
từng đối tượng đều có qui định tiêu chuẩn và chính sách khen thưởng cụ thể, căn
cứ vào công lao đóng góp, phạm vi và ảnh hưởng của thành tích đã lập được cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam để khen thưởng từng hình
thức, loại hình khen thưởng và chính sách khen thưởng thích hợp.
- Căn cứ để xét khen thưởng: Theo khoản 2 Điều 10 của Luật Thi đua,
Khen thưởng, căn cứ để xét khen thưởng bao g m tiêu chuẩn khen thưởng,
phạm vi, mức độ ảnh hưởng của thành tích và trách nhiệm, hoàn cảnh cụ thể lập
được thành tích.
+ Tiêu chuẩn khen thưởng là những qui định để xét tặng cho từng thành
tích, hình thức và mức hạng khen thưởng. Thành tích xuất sắc, công lao đóng
góp to lớn thì hình thức, mức khen thưởng cao và ngược lại.
+ Phạm vi, mức độ đạt được của thành tích là kết quả đạt được trong
phong trào thi đua, mức độ công lao đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp chung của
đất nước, của bộ, ngành, đoàn thể Trung ương hoặc của từng địa phương.
+ Trách nhiệm, hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích là một trong những
căn cứ để đánh giá phạm vi mức độ của thành tích đã đạt được. Trách nhiệm tuy

thấp, nhưng thành tích đạt được đặc biệt xuất sắc, phạm vi ảnh hưởng lớn và lập
được trong điều kiện khó khăn, gian khổ thì hình thức và mức hạng khen thưởng
cao và ngược lại.
- Tiêu chuẩn khen thưởng: Tiêu chuẩn khen thưởng cho từng hình thức,
loại hình khen thưởng, từng mức hạng, từng chính sách khen thưởng, được quy
định từ Điều 32 đến Điều 76 Luật Thi đua, Khen thưởng và từ Điều 20 đến
Điều 50 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP. Tiêu chuẩn khen thưởng tương ứng với
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 15

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

thành tích, kết quả đạt được trong phong trào thi đua, tương ứng với mức độ
công lao đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước, của các bộ,
ngành hoặc của từng địa phương và đơn vị. Có loại hình thức khen thưởng được
qui định bằng nhiều tiêu chuẩn, nhưng cũng có loại hình thức khen thưởng chỉ
qui định bằng một tiêu chuẩn.
- Các phương thức khen thưởng: Căn cứ vào từng hình thức, loại hình
khen thưởng và thành tích tương ứng đạt được trong phong trào thi đua hoặc căn
cứ vào với mức độ thành tích đạt được... Nhà nước qui định các phương thức
khen thưởng chính g m: Khen thưởng thường xuyên, khen thưởng theo đợt
(hoặc theo chuyên đề), khen thưởng đột xuất, khen thưởng quá trình cống hiến,
khen thưởng theo niên hạn, khen thưởng đối ngoại.
+ Khen thưởng thường xuyên: Là hình thức khen thưởng được tiến hành
thường xuyên hàng năm cho tập thể, cá nhân đạt được thành tích xuất sắc sau
khi kết thúc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch hàng năm hoặc nhiều năm.

Căn cứ để xét khen thưởng thường xuyên, cá nhân và tập thể được khen
thưởng ngoài qui định về thời gian và thành tích đã lập được, còn phải đạt được
danh hiệu thi đua và được tặng thưởng các hình thức khen thưởng cụ thể.
+ Khen thưởng theo đợt (hoặc chuyên đề): Là hình thức khen thưởng cho
tập thể, cá nhân đã đạt được thành tích xuất sắc sau khi kết thúc thực hiện một
đợt thi đua (hoặc một chương trình, một chuyên đề công tác) do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tổ chức.
Căn cứ để xét khen thưởng theo đợt (hoặc chuyên đề) không nhất thiết
phải căn cứ vào danh hiệu thi đua hàng năm và hình thức khen thưởng đã đạt
được, mà căn cứ vào thành tích đạt được của cá nhân, tập thể đối với chuyên đề đó,
các qui định này thể hiện trong kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua
theo chuyên đề. Việc khen thưởng theo đợt (hoặc chuyên đề) chủ yếu áp dụng
các hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền phát động thi đua (cấp nào phát
động phong trào thi đua thì cấp đó khen thưởng các hình thức thuộc thẩm
quyền). Những trường hợp đặc biệt xuất sắc mới đề nghị cấp trên khen thưởng.
+ Khen thưởng đột xuất: Là hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân
đã lập thành tích xuất sắc, đột xuất trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; đấu
tranh phòng chống tội phạm, dũng cảm bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản và tính
mạng nhân dân...; thành tích có tác dụng nêu gương trong địa phương hoặc Bộ,
ngành hoặc toàn quốc.
Thành tích đột xuất là những thành tích đạt được ngoài công việc thường
xuyên, bình thường của tập thể, cá nhân và căn cứ vào mức độ ảnh hưởng của
thành tích để xem xét hình thức đề nghị khen thưởng cho phù hợp.
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 16

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu



Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

+ Khen thưởng quá trình cống hiến: Là chính sách khen thưởng cho cá
nhân tham gia trong các giai đoạn cách mạng (giữ các chức vụ, trọng trách được
giao), có công lao, thành tích xuất sắc đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và Nhà nước.
Căn cứ xét khen thưởng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý có quá trình cống
hiến là mốc giai đoạn tham gia công tác, thời gian tham gia công tác, số năm giữ
chức vụ lãnh đạo và các hình thức k luật (nếu có). Chính sách khen thưởng này
không căn cứ vào tiêu chuẩn danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng đã đạt
được. Đối tượng tham gia công tác giai đoạn khác nhau, thời gian và chức vụ
tham gia công tác khác nhau thì hình thức và mức hạng khen thưởng cũng khác
nhau.
+ Khen thưởng theo niên hạn: Là chính sách khen thưởng cho cá nhân
thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, có thành tích, có thời gian xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Khen thưởng theo niên hạn không căn cứ vào tiêu chuẩn danh hiệu thi
đua và hình thức khen thưởng đã đạt được, mà căn cứ thời gian tham gia lực
lượng vũ trang, có tinh thần tích cực công tác, học tập, hoàn thành nhiệm vụ
được giao, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
+ Khen thưởng đối ngoại: Là chính sách khen thưởng cho tập thể, cá
nhân người nước ngoài có thành tích, có công đóng góp vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh
- quốc phòng.
Căn cứ xét khen thưởng đối ngoại là thành tích tiêu biểu và những đóng
góp xuất sắc của tập thể, cá nhân và tổ chức nước ngoài vào công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Việt Nam hoặc có thành
tích xuất sắc trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị và sự hợp
tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, khoa
học kỹ thuật, công nghệ, bảo vệ môi trường, văn hóa và xã hội giữa Việt Nam

với các nước, các tổ chức quốc tế… Chính sách khen thưởng này không căn cứ
vào tiêu chuẩn danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng.
1.2.2.3. Quy định về thẩm quyền, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng
- Thẩm quyền quyết định khen thưởng: Được quy định từ Điều 77 đến
Điều 80 Luật Thi đua, khen thưởng, theo đó:
+ Chủ tịch nước quyết định tặng thưởng Huân chương, Huy chương,
"Giải thưởng H Chí Minh", "Giải thưởng Nhà nước", Danh hiệu vinh dự Nhà
nước.
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 17

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

+ Chính phủ quyết định tặng "Cờ thi đua của Chính phủ".
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng thưởng các danh hiệu:, "Chiến sĩ
thi đua toàn quốc", "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ".
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở Trung ương của các đoàn thể, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định tặng "Bằng khen cấp bộ,
ngành, tỉnh, đoàn thể Trung ương"; danh hiệu: "Cờ thi đua cấp Bộ, ngành, tỉnh,
đoàn thể Trung ương", "Tập thể Lao động xuất sắc", "Đơn vị Quyết thắng".
+ Thủ trưởng cơ quan, tổ chức thuộc Bộ, ban ngành cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội đ ng Quản trị, Tổng Giám đốc, Giám
đốc các doanh nghiệp Nhà nước; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn và tương
đương thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

quyết định công nhận các danh hiệu: "Tập thể Lao động tiên tiến", "Đơn vị tiến
tiến"; Danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở", "Chiến sĩ tiên tiến" và giấy khen.
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện quyết định công nhận danh hiệu
"Thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa".
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định công nhận danh hiệu "Gia
đình văn hóa".
- Thẩm quyền trao tặng: Theo qui định tại Điều 81 của Luật Thi đua,
Khen thưởng, người có thẩm quyền quyết định tặng hình thức khen thưởng nào
thì trực tiếp trao tặng hoặc ủy quyền trao tặng hình thức khen thưởng đó.
Đại sứ hoặc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được ủy quyền trao tặng các hình thức
khen thưởng của Nhà nước Việt Nam cho tập thể và cá nhân ở nước sở tại.
- Tuyến trình khen thưởng: Theo qui định tại Điều 53 Nghị định số
42/2010/NĐ-CP: Cấp nào quản lý về tổ chức cán bộ và quỹ lương thì cấp đó có
trách nhiệm xem xét trình cấp trên khen thưởng đối với các trường hợp thuộc
phạm vi quản lý. Ngoài ra còn quy định cụ thể đối với một số đối tượng sau:
+ Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và các tập thể cơ quan
của Quốc hội do Văn phòng Quốc hội làm đầu mối tổng hợp h sơ, trình Thủ
tướng Chính phủ;
+ Đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương và đại biểu Hội đ ng
nhân dân chuyên trách, tập thể Hội đ ng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương do Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đ ng nhân dân tổng

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 18

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu



Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

hợp h sơ, thủ tục trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng.
+ Các hội là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trình
Thủ tướng Chính phủ khen thưởng g m: Hội có tổ chức Đảng đoàn hoặc tổ chức
Đảng trực thuộc Đảng bộ khối cơ quan Trung ương;
+ Các hội là thành viên do Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt
Nam quyết định thành lập do Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam
khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng;
+ Các hội nghề nghiệp khác ở trung ương do Bộ quản lý nhà nước
chuyên ngành về lĩnh vực đó khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng;
+ Các hội là tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp thuộc địa
phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng.
+ Đối với các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cấp nào quyết
định cổ phần hóa, quyết định thành lập hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho tổ chức đó thì cấp đó trình khen thưởng.
+ Đối với các công ty, tổng công ty nhà nước (đã cổ phần hóa) thuộc Bộ,
ngành quản lý nhà nước do Bộ, ngành đó khen thưởng hoặc trình cấp trên khen
thưởng, kể cả các công ty, tổng công ty đã chuyển giao phần vốn nhà nước về
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước quản lý.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trụ sở đóng trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương khen thưởng hoặc trình cấp trên khen thưởng
(trừ những đơn vị là thành viên thuộc các Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty nhà
nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập).
+ Đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất đóng trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố đó khen thưởng và trình cấp trên khen thưởng.
+ Đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước do Thủ tướng
Chính phủ thành lập, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố H
Chí Minh:
Việc tặng thưởng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, ngành, tỉnh, đoàn
thể Trung ương" cho cá nhân do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ xem xét, quyết định.

GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 19

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

Việc đề nghị tặng thưởng "Cờ thi đua của Chính phủ", danh hiệu "Chiến
sĩ thi đua toàn quốc", "Anh hùng Lao động", "Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân", căn cứ đề nghị của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, Đại
học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố H Chí Minh, Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang Bộ xem xét trình Thủ tướng Chính phủ.
Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty Nhà nước, Đại học Quốc gia Hà Nội và
Đại học Quốc gia thành phố H Chí Minh trình trực tiếp trình Thủ tướng Chính
phủ về khen thưởng Huân chương, Huy chương các loại, Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ.
- Thủ tục và h sơ đề nghị khen thưởng: Theo quy định tại Điều 83 Luật
Thi đua, Khen thưởng và từ Điều 53 đến Điều 65 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP,
thủ tục, h sơ đề nghị khen thưởng được thực hiện như sau:
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc

Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở Trung ương của các đoàn thể, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ, đề nghị Chủ tịch
nước tặng thưởng huân chương, huy chương, "Giải thưởng H Chí Minh", "Giải
thưởng Nhà nước", danh hiệu vinh dự nhà nước;
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở Trung ương của các đoàn thể, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đề nghị Chính phủ quyết định tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; đề
nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính
phủ", danh hiệu "Chiến sĩ Thi đua toàn quốc".
+ Các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng khác do cấp dưới trực
tiếp của người có thẩm quyền quyết định danh hiệu thi đua, hình thức khen
thưởng đề nghị.
+ Cơ quan chức năng về thi đua, khen thưởng tiếp nhận, xem xét h sơ
và tham mưu cho người có thẩm quyền quyết định việc khen thưởng.
Ngoài thủ tục chung nói trên, đối với một số danh hiệu thi đua và hình
thức khen thưởng phải thực hiện các quy định sau:
+ Việc xét tặng hoặc truy tặng "Huân chương Sao vàng", "Huân chương
H Chí Minh" cho cá nhân thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý do Bộ
Chính trị, Ban Bí thư xem xét, kết luận. Việc xét tặng "Huân chương Sao vàng",
"Huân chương H Chí Minh" cho tập thể do Ban Cán sự Đảng Chính phủ xem
xét, kết luận; trường hợp đặc biệt, Ban Cán sự Đảng Chính phủ báo cáo Bộ
Chính trị, Ban Bí thư. Trên cơ sở kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 20

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu



Luận văn: "Quy định pháp luật hiện hành về Thi đua - Khen thưởng và thực tiễn áp dụng tại Truyền Tải Điện Miền Tây"

Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trình khen
thưởng theo quy định.
+ Đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy Đảng quản lý trước khi trình các
hình thức khen thưởng từ Huân chương Độc lập trở lên, danh hiệu "Nhà giáo
nhân dân", "Thầy thuốc nhân dân", "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ nhân nhân dân",
danh hiệu Anh hùng, danh hiệu "Chiến sĩ thi đua toàn quốc", phải có ý kiến Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương, Ban cán sự Đảng, Đảng
đoàn các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương.
+ Đối với các trường hợp cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đề nghị
hình thức khen thưởng từ Huân chương trở lên, danh hiệu Anh hùng và "Chiến
sĩ Thi đua toàn quốc", trước khi trình khen thưởng, Ban Thi đua - Khen thưởng
Trung ương xin ý kiến Ban Tổ chức Trung ương về các nội dung quản lý cán bộ:
Quá trình công tác, chức vụ và thời gian đảm nhận chức vụ, các hình thức khen
thưởng và k luật (nếu có).
+ Đối với việc xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu
tú", "Thầy thuốc nhân dân", "Thầy thuốc ưu tú", "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ sĩ
ưu tú", "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú", "Giải thưởng H Chí Minh",
"Giải thưởng Nhà nước"; căn cứ vào các đề nghị của Bộ, ngành, địa phương,
Hội đ ng cấp nhà nước của các danh hiệu, giải thưởng trên xét phong tặng
(thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm). Trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch Hội đ ng
Nhà nước xét tặng các danh hiệu trên, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương
tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.
+ Đối với danh hiệu anh hùng: Căn cứ đề nghị của Bộ, ngành, địa
phương và ý kiến của các cơ quan liên quan, Hội đ ng Thi đua - Khen thưởng
họp, thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Những trường hợp đạt số phiếu đ ng ý của
các thành viên Hội đ ng từ 90% trở lên, Thường trực Hội đ ng báo cáo Thủ
tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đ ng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, trên
cơ sở đó Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổng hợp h sơ trình Thủ

tướng Chính phủ.
- Hiệp y khen thưởng: Là hình thức lấy thêm thông tin của các cơ quan
liên quan để có thêm căn cứ khi quyết định khen thưởng, hiệp y khen thưởng
được qui định tại khoản 13 và khoản 15 Điều 53, Nghị định số 42/2010/NĐ-CP.
Cơ quan thẩm định h sơ có trách nhiệm lấy ý kiến hiệp y của các cơ
quan có liên quan. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương lấy ý kiến hiệp y của
bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương có chức năng quản lý ngành và lĩnh vực đối
với các cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp
trưởng của các đơn vị này, khi trình các hình thức khen thưởng: ''Bằng khen của
GVHD: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên

Page 21

SVTH: Nguyễn Trung Hiếu


×