Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

tư tưởng giáo dục trong triết học của khổng tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.85 KB, 52 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NGÀNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN

ĐỀ TÀI:
TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC TRONG TRIẾT HỌC
CỦA KHỔNG TỬ

Giáo viên hướng dẫn:
TS.GVC. Lê Ngọc Triết

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Trọng Nhân
MSSV: 6106633

Cần Thơ, tháng 08 năm 2013


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài........................................................
4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................
5.

cấu..............................................................

PHẦN NỘI DUNG


Chƣơng 1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA…………
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học Nho gia………………………………….
1.1.1 Về phương diện chính trị....................................................................
1.1.2 Về phương diện kinh tế......................................................................
1.1.3 Về phương diện xã hội.......................................................................
1.2 Những nhà triết học tiêu biểu trong triết học Nho Gia…………………..
1.2.1 Khổng Tử (551 – 479 TCN) ………………………………………..
1.2.2 Mạnh Tử (372–289 TCN )………………………………………….
1.2.3 Tuân Tử (298 – 238 TCN)………………………………………….
1.3 Nội dung của triết học Nho Gia………………………………………….
2.1.1 Về đạo đức.........................................................................................
2.1.2. Về chính trị.......................................................................................
Chƣơng 2
TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA TRIẾT HỌC KHỔNG TỬ……………..
2.1 Nội dung của triết học Khổng Tử………………………………………...
2.1.1 Thuyết Tam Cương - Ngũ Thường………………………………….
2.1.2 Hành đạo……………………………………………………………
2.1.3 Học thuyết Chính Danh…………………………………………….
2.2 Quan điểm giáo dục của triết học Khổng Tử…………………………….
2.2.1 Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử………………………………….
2.2.2 Chủ trương giáo dục của Khổng Tử………………………………..
2.2.3 Nội dung giáo dục của Khổng Tử………………………………….
2.2.4 Phương pháp giáo dục của Khổng Tử………………………………


2.3 Những giá trị tích cực trong quan điểm triết học giáo dục của Khổng Tử.
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………..
TƢ LIỆU THAM KHẢO




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn một ngàn năm phong kiến, Việt Nam là đất nước chịu nhiều ảnh
hưởng của các tư tưởng Phật giáo, Lão giáo..., trong đó chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất
của tư tưởng Nho giáo mà người sáng lập nên là Khổng Tử. Tư tưởng triết học của
ông, đặc biệt là tư tưởng chính trị - đạo đức có dấu ấn rất lớn trong nhiều mặt của đời
sống từ xưa đến nay, trong đó có sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người Việt Nam.
Hơn các hoạt động khác, con người là chủ thể sáng tạo ra bản thân mình, nền
văn hóa và xã hội của mình. Song ý thức và hành động của các chủ thể ấy không phải
là như nhau, mà lại có sự khác ngược nhau. Điều này làm cho các nhà triết học của
các dân tộc, các thời đại phải thắc mắc, suy nghĩ. Các triết học cổ kim, đông tây, vì
vậy điều xem việc tìm hiểu và khám phá con người là một trong những nhiệm vụ của
mình.
Có một thực tế là, cũng vấn đề con người, song ở mỗi một nền triết học đều có
một phạm vi tìm hiểu riêng, cách tiếp cận riêng. Đưa đến tình trạng này không phải là
do ý thức chủ quan của nhà triết học mà là do bối cảnh lịch sử, do cơ cấu xã hội, do
thời đại của họ quy định. Ở phương Tây do các hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau
trong lịch sử có tính điển hình và do khoa học kĩ thuật hình thành và phát triển sớm,
nên các nhà triết học có điều kiện đi vào các vấn đề căn bản của con người, rồi từ đó
đề cập đến tính các nhân, tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại của con người,...
Còn ở Trung Quốc cổ đại, các hình thái kinh tế - xã hôi không đạt đến mức độ điển
hình, chỉ dừng lại ở phương thức sản xuất châu Á như C.Mác nói. Ở đó, tuy lực
lượng sản xuất có phát triển, tuy đấu tranh giai cấp có gay gắt, tuy con người đã có ý
thức về mình, song do hoàn cảnh sản xuất khép kín của xã hội, cũng như khoa học kĩ thuật chưa hình thành, nên các nhà triết học không có điều kiện đi sâu vào bản chất
con người. Người ta chỉ tìm hiểu vấn đề ý thức của con người, quan hệ của con người
và đạo làm người. Không những thế, họ cũng không có điều kiện giải thích cơ sở xã
hội cũng như cơ sở nhận thức các vấn đề đó.
Xã hội thời Khổng, Mạnh là xã hội hỗn loạn, “vua không ra vua, bề tôi không
ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con” (Luận Ngữ). Nguyên nhân thực sự của

tình hình đó, là do chế đọ phong kiến tông pháp với hình thức phân phong của nhà
Chu, do chế độ tôn ti trật tự của nhà Chu đã lỗi thời. Khổng tử và đa số các học trò
1


của ông không biết được điều đó. Lập trường giai cấp quý tộc của họ khiến họ chủ
trương khôi phục lại chế độ cai trị của nhà Chu lúc ban đầu – thời Tây Chu. Với lập
trường triết học duy tâm khiến họ quan niệm rằng trật tự xã hội là của nhà Chu là do
trời sắp đặt và tư tưởng của con người cũng là do trời phú cho, “thiên mệnh chi vị
tính” (Trung dung). Phạm vi vấn đề con người mà họ đề cập cũng như tính chất các
quan điểm của họ đều phụ thuộc vào lập trường xã hội và lập trường triết học trên.
Hiện nay, khi đất nước đang bước vào thời kì phát triển, vẫn còn những nhìn
nhận, đánh giá chưa chính xác: hoặc quá đề cao, hoặc phủ nhận sự ảnh hưởng tư
tưởng triết học về chính trị - đạo đức của Khổng Tử trong sự nghiệp giáo dục đào tạo
con người Việt Nam hiện nay. Vì vậy, viêc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị đạo đức của Khổng Tử và sự ảnh hưởng của nó đến sự nghiệp giáo dục đào tạo con
người hiện nay ở nước ta là điều rất cần thiết. Đó là lí do mà tôi chọn đề tài “Tư
tưởng giáo dục trong triết học của Khổng Tử” để nghiên cứu làm luận văn tốt
nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là tìm ra mặt tích cực, hạn chế trong tư tưởng triết học về
chính trị - đạo đức của Khổng Tử và những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng ấy trong
sự nghiệp giáo dục đào tạo con người Việt Nam hiện nay. Đồng thời thấy được sự
vận dụng sáng tạo những mặt tích cực của tư tưởng đó và tìm ra những nội dung,
phương pháp mới của Đảng và Nhà nước ta đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo con
người mới – con người trong thời kì đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới công
nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
Với mục đích như vậy, đề tài có nhiệm vụ trình bày khái quát tư tưởng triết học
của Khổng Tử về sự hình thành (trong đó có đề cập cụ thể đến tư tưởng chính trị đạo đức) và sự phát triển của chúng khi du nhập vào Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp

duy vật lịch sử, đồng thời với sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau: phương
pháp lịch sử – lôgíc, phương pháp quy nạp – diễn dịch, phương pháp phân tích – tổng
hợp, phương pháp so sánh đối chiếu...

2


4. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương với 6 tiết.

3


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học Nho Gia
Những năm đầu của nhà Chu, xã hội có trên có dưới, thứ bậc từ thiên tử cho
đến thứ dân. Theo sử sách ghi lại, thì có thể xem đó là một thời đại yên ổn, xã hội
có trật tự, có quy tắc. Thứ nhân thì phục tùng sĩ, sĩ phục tùng khanh đại phu, khanh
đại phu phục tùng chư hầu, chư hầu phục tùng thiên tử, trên thiên tử là ông trời
không nhìn thấy được, trời là đấng tối cao, có thẻ giám sát, khống chế thiên tử. Chế
độ phân phong bắt đầu hình thành từ thời kỳ nhà Chu. Nhà Chu bắt đầu thực hiện
việc phong đất đai cho người thân hoặc người có công trong chiến trận, lập nên các
nước chư hầu. Thiên tử triều đại nhà Chu là chủ của Toàn “thiên hạ”. Song, đến
thời Xuân Thu, chế độ này không còn giữ được nguyên tắc quan hệ ban đầu của nó,
các thiên Tử nhà Chu không còn khả năng nắm giữ quyền hành và cai quan đất
nước, các chư hầu không còn nghe theo mệnh lệnh của thiên tử, thậm chí có chư
hầu công khai phản kháng lại. Cùng với sự mất uy tín của thiên tử, các chư hầu lần

lượt tự mình quết định mọi việc, không tuân theo sự phân cấp của nhà Chu.
Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, sự băng hoại của chính trị đương thời, sự
sụp đỗ của chế độ phân phong, sự tấn công của các nước Di, Địch và chiến tranh
thôn tính lẫn nhau giữa các nước vùng trung nguyên đã làm cho xã hội Trung Hoa
trở nên biến động hỗn loạn. Trong thời kỳ này, người dân luôn phải sổng cảnh nước
sôi lửa bỏng, chịu muôn vàng khó khăn, khó có thể sinh tồn, nếu không bị chết đói,
thì cũng đào tẩu bốn phương. Các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, cảnh can qua
diễn ra không ngừng nghỉ ở khắp mọi nơi. Bên cạnh việc các nước chư hầu thôn
tính lẫn nhau, chiến tranh liên miên, thì người dân còn phải chịu thuế khóa nặng nề,
thuế ruộng đất tăng lên so với trước đó ít nhất ba bốn lần. Phân hóa xã hội sâu sắc
chưa từng có, trật tự xã hội cũ biến đổi vô cùng mạnh mẽ.
1.1.1 Về phƣơng diện chính trị
Các nước bá chủ suy yếu, các khanh đại phu dần dần chấp chính, chuyên
quyền, không còn chịu mệnh lệnh từ vương thất nữa. Khanh đại phu của các nước
chư hầu ngày càng ngang ngược, việc khanh đại phu giết vua hoặc đuổi vua ra khỏi
4


nước của mình trở thành phổ biến. Ngoài các khanh đại phu chấp chính, còn các bồi
thần. Bồi thần đối với khanh đại phu cũng giống hệt khanh đại phu đối với vua,
không chịu sự ước thúc, ngày càng trở nên hoành hành hơn. Điều đó cho thấy chính
quyền ngày càng đi xuống, chính trị quý tộc cũng do đó mà băng hoại. Trật tự xã
hội đã bị đảo ngược, kèm theo đó là chiến tranh loạn lạc.
Chế độ phong đất dần bị thủ tiêu. Người cai quản quận hay huyện là do vua
chỉ định, có thể được cất nhắc, có thể bị bãi nhiệm. Vì vậy, chế độ phong đất mang
tính cát cứ đặc quyền của giai cấp quý tộc dần dần trở thành chính quyền quan lại.
Các bậc vương công thường là dùng gạo hoặc vàng để thưởng cho quan lại, chứ rất
ít khi phong đất như trước đây. Do đó, quan lại đối với vua không còn tính chất
riêng tư, mà mang tính chất công việc chung, dẫn đến sự thay đổi hình thái quan hệ
xã hội

Trong thời kỳ phong đất cho tướng lĩnh có công, giai cấp quý tộc cũng chính
là thủ lĩnh quân sự. Đến thời kỳ Chiến Quốc, tướng cầm quân và quan lại trong triều
là hai chức vụ khác hẳn nhau, được phân chia rõ ràng và có vai trò khác nhau và
thường thì chức vụ quân sự lấn át chức vụ chính trị. Người cầm quân do có công
chiến trận, lại do nắm sức mạnh trong tay nên nhiều khi điều khiển cả quần thần.
1.1.2 Về phƣơng diện kinh tế
Dưới thời kỳ phong đất, nông dân không được sở hữu ruộng đất, giàu nghèo
chưa trở thành vấn đề bức xúc. Song đến cuối thời Xuân Thu đồng thời với việc các
tướng được phong đất là việc ruộng đất được tự do buôn bán. Thời kỳ này, sự sa sút
của giới quý tộc đã khiến họ phải bán phần lớn ruộng đất chiếm đoạt được. Nhờ
biện pháp của Thương Uưởng chế đô tư hữu về ruộng đất được xác lập ở nước Tần
và sau đó ruộng đất được buôn bán một cách tự do cũng diễn ra ở các nước khác, từ
đó giàu nghèo có sự phân hóa rõ rệt, đặt biệt đời sống của nông dân ngày càng khó
khăn.
Thời Xuân Thu việc canh tác đất đai dựa vào trâu bò và công cụ bằng sắt, đã
tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong xã hội.
Thời Chiến Quốc, trong mỗi một nước lớn đều hình thành các khu vực dân cư
mang tính tổ chức, trật tự cao, do đó thương nghiệp có điều kiện phát triển mạnh.
Thậm chí, giữa các nước có thể buôn bán hoặc trao đổi hàng hóa với số lượng lớn.
Muối của nước Tề, vải vóc của nước Sở, gạo, ngũ cốc của nước Tần, gia súc của hai
5


nước Yên và Triệu đều là những mặt hàng được trao đổi, buôn bán thường xuyên
giữa các nước.
Từ Xuân Thu đến Chiến Quốc, các nước đều không thể không chú ý đến công
thương, những nhà buôn trở thành những bậc đại phú, tạo nên sự tôn trọng của nhà
vua dối với họ. Cuối thời Xuân Thu, dương như chỉ có một số ông chủ nhỏ trong
các nước, song đến thời Chiến Quốc thì ngày càng xuất hiện nhiều người mở nhà
xưởng lớn với vô số nô lệ và các thợ thủ công. Họ kinh doanh gạo, sản xuất tơ, làm

muối, hoặc rèn sắt, cũng có người nuôi gia súc với số lượng lớn,… Những người đó
ngày càng giàu có, vượt qua cả các vua chúa đương thời và tất nhiên, thế lực của họ,
ảnh hưởng của họ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trường hợp Lã Bất Vi thao
túng chính trị nhà Tần là một ví dụ điển hình.
Tuy từ đời nhà Thương dã có dấu hiệu của việc sử dụng tiền tệ, song trên thực
tế, đến cuối thời Xuân Thu, tiền vẫn chưa được lưu hành rội rãi. Đầu thời chiến
quốc Chiến Quốc, do sự phát triển của công thương nghiệp mà tiền được chế ra
nhiều và được đưa vào sử dụng một cách phổ biến. Thời kỳ này vàng cũng được
đưa vào giao dịch và được sử sách ghi chép lại rất nhiều.
1.1.3 Về phƣơng diện xã hội
Đầu thời Tây Chu, giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là chủ nô, Họ là quý tộc,
được hưởng vô số đặc quyền đảm đương nhiệm vụ của các thiên tử, chư hầu, khanh
đại phu. Nhưng đến thời Xuân Thu, tình hình có khác. Một số người bình dân do có
công trong chiến trận mà trở nên có quyền lực, ỷ vào quyền đó đã bao chiếm ruộng
đất công thành tư hữu; một số người khác đã dùng tiền để mua ruộng đất và mua
chức tước; bước vào thang bậc trên của xã hội; một số người giàu khác do bản than
hoặc tập hợp những người nghèo khổ tiến hành phát hoang, khai phá ruộng đất mới
và trở thành chủ sở hữu lớn về ruộng đất,… Tất cả họ hợp lại thành giai cấp địa chủ
vừa giàu có về kinh tế, vừa đòi hỏi quyền lực về chính trị. Họ tham gia vào giai cấp
thống trị xã hội, sánh vai cùng giai cấp chủ nô.
Đến cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc, do cạnh tranh khốc liệt mà giai cấp
quý tộc do nuôi dưỡng trong điều kiện quá thuận lợi đã mất đi tính tiến bộ, tính
tranh đấu. Giai cấp này ngày càng mục nát, hủ bại, nhân tài ngày càng ít. Chính vì
vậy mà đến thời Chiến Quốc, vua các nước thường bắt giết các quý tộc. Chế độ
tông pháp nhà Tây Chu đi đến chỗ suy kiệt.
6


Những hiện tượng trên cho thấy tôn ti , trật tự được hình thành từ thời Tây Chu
theo thang bậc từ trên xuống dưới, đối với đương thời chỉ là danh nghĩa, hình thức.

Trong thực tế ít người có ý thức tuân thu địa vị và danh phận đã quy định. Những
thang bậc trong xã hội đang đứng trước những thử thách của sự biến lịch sử.
Nguyên nhân thực sự và chủ yếu của các sự kiện lịch sử nói trên là do lực
lượng sản xuất phát triển không phù hợp với quan hệ sản xuất vốn có của nó. Việc
phát hiện ra sắt và chế tạo công cụ sản xuất bằng sắt đã tao ra một bước ngoặt mới
của sản xuất lúc bấy giờ. Công cụ bằng sắt tốt hơn công cụ bằng đồng, năng xsuaats
lao động nhờ đó mà cao hơn trước, nghề nông, nghề thủ công đều có sự phát triển
mới, dẫn đến sự thay đổi trong sản xuất. Nếu như vào đầu thời Tây Chu, quan hệ
sản xuất chủ yếu là giữa chủ nô và nô lệ thì đến thời Xuân Thu, quan hệ đó đã rạn
nứt và quan hệ sản xuất với hai giai cấp mới là địa chủ và nông dân dần dần được
xác lập, tồn tại xen kẽ với chủ nô – nô lệ. Giai cấp địa chủ ngày càng có xu thế lấn
át giai cấp chủ nô trong việc chi phối mọi sinh hoạt của xã hội. Không thõa mãn với
trật tự xã hội cũ, giai cấp địa chủ mới có nhu cầu xây dựng xã hội mới.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất diễn ra không đồng đều ở các nước chư
hầu. Có nước sản xuất phát triển nhanh, tạo nên sức mạnh kinh tế, quân sự ngày
một lớn, có sức lấn át các nước khác; có nước sản xuất phát triển chậm, ở vào thế bị
thua kém và dẫn đến bị thôn tính. Đến thời Đông Chu tình trạng các nước lớn gọi là
bá chủ thôn tính nhiều nước nhỏ đã xuất hiện. Người đương thời đã từng lên án các
bá chủ đó là hung bạo, là vô đạo, là không có nghĩa,… nhưng xét về xu thế phát
triển của xã hội thì hợp nhất, thôn tính giưa các cộng đồng người theo nhiều hình
thức khác nhau là điều tất yếu.
1.2 Những nhà triết học tiêu biểu trong triết học Nho Gia
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã hơn
2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều nước
phương Đông. Sự ảnh hưởng này, được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là
trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng như hiện nay. Và để có sự ảnh hưởng lan tỏa
mạnh mẽ đó chúng ta không thể không nhắc đến những bậc tiền nhân đã góp phần
hình thành trường phái Nho gia. Có thể kể đến như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử,…


7


1.2.1 Khổng Tử (551 – 479 TCN)
Khổng Tử, còn gọi là Khổng Phu Tử, sinh ngày 27 tháng 8 âm, 551 479 TCN là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Hoa, ông
là người sáng lập ra trường phái Nho giáo, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh
hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.Người
Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời).
Chính phủ Trung Quốc hiện nay, trong nỗ lực truyền bá văn hóa Trung Hoa ra thế
giới, đã cho thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.
Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị
bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", sự chính xác của các
mối quan hệ xã hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức
tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên
mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều
đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống
triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo còn được xem là một tôn giáo lớn của
loài người, nhất là dân tộc Trung Hoa.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một
tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi
ông qua đời do các học trò của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho
là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh
Dịch, Kinh Xuân Thu(Kinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên còn lại Ngũ
Kinh).
Bôn ba cuộc đời với biển lớn tri thức, sau một thời gian Khổng Tử có ra làm
quan cho nước Lỗ, song ông không được trọng dụng. Sau đó, ông rời nước Lỗ và
từng làm quan ở các nước Tống, Vệ, Trần, Thái. Tuy nhiên, cuộc đời trầm luân
không dứt, ông chán nản canh quan trường và quyết định về quê dạy học, với tinh
thông học thức học trò của ông ngày càng đông, từ đây Khổng Tử bắt đầu nghiên
cứu xây dựng học thuyết của mình và ông bắt đầu truyền bá. Ông qua đời ở tuổi 73

tại quê nhà nước Lỗ.
Khổng Tử sống vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc lúc này xã hội có
những chuyển biến trọng đại. Nhà Chu thành lập vào năm 1027 TCN, Thiên tử đầu
tiên của nhà Chu là Chu Vũ Vương đã dẫn quân đi chinh phạt nhà Thương và lập
8


nên triều Đại nhà Chu. Sau khi Chu Thành Vương kế vị, do còn nhỏ tuổi không
quyết định đến toàn đại cuộc nên công việc triều chính , quốc gia đại sự đều do chú
là Chu Công Đán quyết định thay. Chu Công Đán sau khi ổn định nội chính đã dẫn
quân chinh đông dẹp yên phiến loạn. Dưới sự điều hành của Chu Công Đán đã đề
them những biện pháp nhằm củng cố những thành quả thắng lợi. Thời Chu Thành
Vương và Chu Khang Vương nhiếp chính được các nhà sử học gọi là “Thành
Khang Chí tri”. Thời Xuân Thu bắt đầu từ năm 770 TCN đến năm 476 TCN cùng
với sự phát triển về kinh tế và sự gia tăng dân số, giữa các nước đã có sự giành giật
quết liệt về quyền bá chủ. Trong xã hội cũng có nhiều biến đổi quan hệ sản xuất cũ
suy vong, quan hệ sản xuất mới đang được hình thành, trật tự quản lí xã hội cũ bị
băng hoại, trật tự quản lí xã hội mới cũng được hình thành. Giai đoạn này cũng bắt
đầu hình thành nên các trường phái “Bách gia”, các nhà tư tưởng Trung Quốc tranh
nhau đề xuất con đường, phương châm, sách lược, chiến lược trị vì quốc gia. Đây
cũng là thời kỳ học thuật sôi nổi, từ đó hình thành nên những hệ thống triết học đồ
sộ và sâu sắc. Nho gia cũng là một trong những trường phái của “Bách gia tranh
minh”. Khổng Tử muốn dùng học thuyết của mình để cải tạo xã hội, giữ gìn kĩ
cương cho xã hội. Ông muốn dựa vào mối quan hệ phép tắc giữa người với người
để điều chỉnh hành vi của họ. Từ đó Nho học được hình thành và trở thành hệ tư
tưởng phong kiến trong suốt lịch sử trung đại của Trung Quốc.
Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại
cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan
trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế,
ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý

thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình
phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ
yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh
Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).
Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt
giữa các nướcchư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên
hạ" (mọi thứ dưới gầm trời, ở đây nghĩa là Trung Quốc) và mang lại hòa bình, thịnh
vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ
nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đã sử dụng
9


(và có thể cố ý bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một
hệ thống chính trị mới của riêng mình. Ông mơ ước về sự khôi phục một vương
quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn xứng đáng theo đạo
đức (nhưvua Nghiêu, vua Thuấn) chứ không phải theo dòng họ. Những người cai trị
phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy
có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng
pháp luật và quy định. Ngược lại, một vị vua hoang dâm bạo ngược thì không còn
tư cách ngồi trên ngai vàng, và người dân có quyền lật đổ vị vua đó.
Nhiều khía cạnh tư tưởng của Khổng Tử vẫn còn lưu truyền và phát huy đến
tận ngày nay. Có được sự trường tồn đó, là ở tinh thần đam mê học hỏi và thái độ
nghiêm túc đối với việc học của Khổng Tử. Ông nói: “Ta đi học là học cho ta, để
gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm
được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình”.
Theo Ông, đã không học thì thôi chứ đã học là phải “Học cho rộng, hỏi cho kỹ; nghĩ
cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học nhưng đã
học điều gì thì phải học cho kỳ được. Có điều không hỏi, nhưng khi đã hỏi điều gì
thì phải hỏi cho thật hiểu. Có điều không nghĩ nhưng đã nghĩ điều gì thì phải nghĩ
cho ra. Có điều không phân biệt nhưng đã phân biệt điều gì thì phải phân biệt cho

minh bạch. Có điều không làm nhưng đã làm điều gì thì phải cố hết sức mà làm cho
bằng được… Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu mà cũng thành sáng, yếu đuối
rồi cũng thành ra khoẻ mạnh”.
Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "Lễ và Nhạc", coi hai thứ
đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và
quy phạm trong việc đối nhân xử thế; còn Nhạc (âm nhạc, văn nghệ) là để thống
nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ gìn đức hạnh. Ông nói thêm rằng
lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông.
Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của
anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như Ngũ
Thường (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê
(vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được
cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, thì thần dân cũng phải can ngăn
khi nhà vua sai lầm.
10


Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân trước tiên, sau đó nuôi
dưỡng gia đình, rồi mới đến cai trị thiên hạ bằng lòng nhân từ: "Tu thân, Tề gia, Trị
quốc, Bình Thiên hạ". Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín". Nhân là lòng từ thiện, Nghĩa là làm tròn bổn phận, Lễ là sự tôn ti trật tự hay
quy tắc trong việc đối nhân xử thế với người trên kẻ dưới, Trí là trí tuệ minh mẫn
làm việc gì cũng phải suy nghĩ, Tín là lòng thành thực hiện điều đã nói. Người ta
phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.
Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông hệ thống
thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều
thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách
quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo. Sau
hơn 1.500 năm, học giả Chu Hi đã diễn giải ý tưởng Khổng giáo theo một cách
hoàn toàn mới, được gọi là Tân Khổng giáo, để phân biệt với những ý tưởng trong

cuốn Luận Ngữ. Tân Khổng giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc, Triều
Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác cho tới tận thế kỷ 20.
Tư Mã Thiên đã có lời bình về Khổng Tử: “Trong kinh “Thi” có câu nói như
thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại
Đạo khiến người ta tuân theo. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người
tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết
đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những
người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả
nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là
chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.
1.2.2 Mạnh Tử (372–289 TCN )
Sau Khổng Tử, Mạnh Tử đáng tôn là bực Nho gia đại sư. Về Mạnh Tử, trong
sách Sử ký có chép Mạnh Tử và Tuân Khanh liệt truyện, trong đoạn đầu phần Mạnh
Tử có viết : " Thái sử công nói rằng : Ta đọc Mạnh Tử, đến thiên Lương Huệ
Vương, hỏi về chuyện lấy gì làm " lợi " cho nước, mà buông sách than thở và nói
rằng : " Hỡi ôi ! Lợi là cái bắt đầu cho loạn vậy ! "
Mạnh Tử (372–289 trước công nguyên)có một số tài liệu khác ghi là: 385–
303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nốiKhổng Tử.
11


Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà
Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là
Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới với cái tên
Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được
ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu,
Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì
vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu
xuất sắc của Nho giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các

trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia...(thời kỳ bách gia tranh
minh)và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau
gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở. Tư tưởng của Mạnh
Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò
của ông vua như Khổng Tử, ông chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh
ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác
của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn
người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa",
"Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các
nước chư hầu nhưTề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng),
Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy
học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng
của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn
làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có "Hạo nhiên chính khí", cần
"Lấy Đức thu phục người khác", "Người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù
nào".
Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của một
người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên thượng. Mọi
người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân,
anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử
chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4
12


tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm
khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ” (trích từ “Cuốn đầu
tay của Công Tôn Sửu" trong „các tác phẩm của Mạnh Tử‟). Bốn đặc tính của con
người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức

tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.
Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân
tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào
cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
1.2.3 Tuân Tử (298 – 238 TCN)
Sau Mạnh Tử, Tuân Tử cũng là một Nho gia đại sư, cho nên các học giả đời
sau, hễ nhắc đến Mạnh Tử là nhắc luôn Tuân Tử. Sách Sử ký hợp Mạnh Tử và Tuân
Tử lại làm một truyện, cũng vì lý do ấy.
Tuân Tử tên Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt tên sách
của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân Tử".
Tuân Tử người nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ, chỉ biết "Niên giám
Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ năm Triệu Huệ Văn Vương
nguyên niên, tức 298 tr. KN. TL và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo Liệt Vương, tức
238 tr. CN. Đại để là, trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về việc trau dồi học vấn,
khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, từ 60 tuổi trở đi, những năm đầu
làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học, y như
Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi, Tuân Tử đến nước Tề. Tuy
được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm "Tế tửu , một danh hiệu
vinh dự trong buổi "quốc yến", nhưng rốt cuộc chẳng được trọng dụng. Sau khi rời
Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần là một cường
quốc, thường ỷ thế mạnh đe dọa chư hầu. Phạm Tuy hỏi cảm nghĩ của khách ra sao,
đối với Tần. Đáp lại câu hỏi đó, trước hết, Tuân Tử ca ngợi Tần là một nước có tập
tục tốt, núi non đẹp, hơn nữa là, quan lại dốc lòng vì dân, triều đình làm việc mau
mắn. Nhưng tiếp theo thì vuốt mặt chẳng nể mũi, thẳng lời phê bình nước Tần hãy
còn khiếm khuyết đạo Nho. Chiếu theo tiêu chuẩn của Tuân Tử thì, thiếu đạo Nho
tức là thiếu Lễ nghĩa, mà lễ nghĩa là linh hồn của quốc gia. Tuân Tử khen điều hay,
chê điều dở của Tần một cách thẳng thắn, chẳng ngại mếch lòng ai như vậy là thái
13



độ nhận chân nghiêm túc, phải là phải, trái là trái của con người Nho học. Song
cũng vì thế, nên Tuân Tử đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính
trị của mình, đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà, Tuân Tử từng biện
luận phép dụng binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương. Lâm
Vũ Quân dựa vào nguyên tắc "xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị" của Tôn Tử binh pháp,
cho ràng kẻ dùng binh giỏi, bao giờ cũng "quyền mưu thế lợi " và "công đoạt biến
trá", nghĩa là không từ bỏ bất cứ thủ đoạn gian trá nào. Ngược lại, Tuân Tử có quan
điểm khác hẳn, Người nhấn mạnh kẻ giỏi về quân sự là biết "thiện phụ dân", tức là
dựa vào sức mạnh của dân một cách hiệu quả. Tuân Tử cho rằng, được dân ủng hộ
mới nắm chắc phần thắng, cho nên "thiện phụ dân", là cái vốn quý nhất của người
điều khiển chiến tranh.
Tiếc thay, ngay tại bản quốc cũng không đắc chí Tuân Tử lại tái xuất ngoại,
sang nước Sở. Tại Sở, Tuân Tử được Xuân Thân Quân bổ làm huyện lệnh huyện
Lan Lăng, rồi từ đó định cư luôn tại chỗ, không trở về cố quốc nữa. Vào những năm
cuối cùng, lúc tuổi về già, Tuân Tử mở trường tư thục dạy học và viết sách, sáng lập
ra học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho xứ này. Từ đó, học trò
Lan Lăng hay lấy chữ "Khanh" đặt tự, để kỷ niệm thầy Tuân Tử.
Người đời sau hay hiểu một cách tổng quát là, lúc về già, Khổng Tử cùng
Mạnh Tử đều cáo lão về vườn, lập ngôn và trước tác. Thật ra, bảo trọng Khổng Mạnh lập ngôn là đúng, nhưng viết sách vị tất đã đúng. Riêng Tuân Tử, trong thời
gian ở Lan Lăng, chẳng những đã lập ngôn, mà còn lập thư nữa. Ba mươi ba thiên
trong cuốn sách mà Tuân Tử đã viết, là một bộ tác phẩm, có hệ thống tư tưởng hoàn
chỉnh nhất của phái Nho học thời Chu - lân. (Nói như vậy, không có nghĩa là cuốn
"Tuân Tử" ngày nay, hoàn toàn do một tay Tuân Tử viết ra, bởi cổ tịch nào cũng có
phần tả thêm, hoặc ít hoặc nhiều ngôn luận của các nhà Nho đời sau). Tuy rằng,
trong triết lý tư tưởng của Tuân Tử, có một số khác biệt với Khổng - Mạnh, nhưng
về lập trường căn bản của Người đối với thế sự, nhất là thái độ khẳng định giá trị lý
tưởng chính trị của nhà Nho, thì chẳng có khác gì với Khổng - Mạnh. Có lẽ cũng vì
thế mà cuộc đời của Tuân Tử cũng chẳng khác chi mấy, so với Khổng Tử và Mạnh
Tử.


14


Tuân Tử cũng như Mạnh Tử, cả hai đều là nhân vật lịch sử, thừa kế tư tưởng,
phát triển học thuyết của đức thầy Khổng Tử, nhưng kết cuộc thì khác nhau về tao
ngộ. Trên lịch sử Trung quốc, Mạnh Tử đã giành được một địa vị chỉ có dưới một
nấc, so với Khổng Tử, sách "Mạnh Tử" được liệt vào mười ba kinh thư, mà tầng lớp
trí thức cổ kim, ai nấy đều nên học hỏi theo truyền thống. Còn sách "Tuân Tử" thì
trái lại, không được người đời coi trọng, thậm chí có chỗ còn bị coi như dị đoan".
Xét ra thì có hai nguyên nhân, tạo nên hiện lượng bất thường này: Một là, vì Tuân
Tử đề ra "Tính ác", ngược lại với "Tính thiện" của Mạnh Tử; hai là, có hai đệ tử của
Tuân Tử sau này, là Hàn Phi cùng Lý Tư, đều là nhân vật chủ chốt, trong thế cuộc
dẫn tới bạo chính của nhà Tần.
Người ta đã so sánh phần dị biệt về tư tưởng, giữa Tuân Tử với Mạnh Tử,
ngoài vấn đề "tính ác" với "tính thiện" ra, còn có những điểm sau đây:
Mạnh Tử thuộc về chủ nghĩa "tiên nghiệm"; Tuân Tử thuộc về chủ nghĩa
"kinh

nghiệm".
Mạnh Tử chú trọng về "tâm tính", nhằm xây dựng một hệ thống triết lý cho

Nho học; Tuân Tử thì để ý về vấn đề chính trị, xã hội nhiều hơn, nhằm giải quyết sự
việc thật.
Trong phần tu dưỡng tâm tính, Mạnh Tử chủ trương "quả dục"; Tuân Tử chủ
trương "túc dục".
Về phần bổng lộc, Mạnh Tử vẫn giữ nguyên thể chế thế tập với thái độ bảo
thủ; Tuân Tử thì chủ trương "vô đức bất quý, vô năng bất quan". (kẻ thiếu đức
không đáng hưởng địa vị cao sang, người thiếu tài không được làm quan), có
khuynh hướng chống quy tắc thế lộc (con cháu được hưởng lộc ông cha), muốn giải
thoát con người ra ngoài cương tỏa của chế độ phong kiến.

Mạnh Tử cố chấp về giá trị lý tưởng cao cả, coi nhẹ việc làm cho quốc gia giầu
mạnh; Tuân Tử thích ứng với trào lưu mới hơn, luôn luôn nhấn mạnh, phải làm thế
nào cho quốc gia phú cường.

15


Tuy nhiên, người ta công nhận, giữa Mạnh Tử và Tuân Tử cũng có nhiều điểm
tương đồng sau đây:
Cả hai đều tôn sùng Chu công và Khổng Tử, và có ý thức quý dân hơn vua.
Đều nhấn mạnh, tánh cách quan trọng của đạo đức và nhân phẩm con người.
Khinh miệt thuyết "hợp tung", "liên hoành" của Tô Tần và Trương Nghi.
Phê phán rất nghiêm khắc, các học thuyết khác đương thời.
Nói chung, tư tưởng của Tuân Tử có những điểm nổi bật sau đây:
Luận tâm theo lý tít Tuân Tử bảo: "Tâm tri đạo, nhiên hậu khả đạo; khả đạo
nhiên hậu năng thủ đạo dĩ cấm phi đạo". (Khi lòng người đã hiểu đạo thì đạo mới
hành; đạo có hành thì người ta mới giữ theo đạo và ngăn ngừa những gì trái đạo).
Theo Tuân Tử thì, công dụng của "tâm" là để "tri đạo" nghĩa là đạo Ơ ngoài tâm, là
đối tượng để cho tâm tìm hiểu một cách khách quan. Như vậy thì khác với tư tưởng
của Khổng - Mạnh. cho là đạo ở ngay trong lòng người (tâm). Cũng bởi khác nhau
về trạng thái tâm linh, cho nên Khổng - Mạnh đã trở thành giáo phái, Tuân Tử thì tự
thành học phái. Kẻ thành giáo phái thuộc mẫu "Chúa cứu thế”; người thành học
phái thuộc mẫu "nhà học vấn". Tư tưởng của hai đàng sở dĩ khác nhau, là bởi hai
mẫu người khác nhau.
Khi luận về trí thức, Tuân Tử rằng: "Phàm dĩ tri, nhân chi tính giã; khả dĩ trì,
vật chi lý giã". (Sự hiểu biết là bản tính của con người; những gì mà người ta biết
được, đó là lý lẽ của sự vật). Câu trước có hàm nghĩa "năng tri", câu sau có hàm
nghĩa "Sở tri", năng tri và sở tri kết hợp nhau, là thành trí thức.
Luận về Trời (Tạo hóa), Tuân Tử giữ thái độ hoài nghi, phủ định tính cách chủ
tể của Trời, cho rằng Trời chẳng có liên can gì tới vấn đề trị loạn, hưng vong của

thế gian. Thái độ này là điều kiện tất yếu cho nhà khoa học, trong số các nhà triết
học truyền thống cổ Trung Quốc, ít ai có được lối nhìn quý hóa này.
Tuân Tử chú trọng đặc biệt về trí thức, chủ trương để trí thức quyết định cho
hành vi của con người. Điểm này có giá trị đặc biệt, bổ khuyết cho học thuyết
16


Khổng - Mạnh, bởi trong suốt cuộc đời, Khổng Tử chưa hề có lời khẳng định, tầm
quan trọng của kinh nghiệm và trí thức.
Dầu cho tư tưởng của Tuân Tử, có khác biệt với Khổng - Mạnh, nhưng Người
không phủ định hẳn truyền thống nhà Chu, chẳng qua là, văn hóa nhà Chu đối với
Khổng Tử, thì có ý nghĩa về đạo đức cùng giáo hóa, khi đến tay Tuân Tử thì áp
dụng vào lý luận trí thức, xây dựng thành hệ thống Lễ, Nghĩa của quốc gia, xã hội.
Đặc điểm này của Tuân Tử, rất ăn khớp với câu "Trí thức tức là đạo đức danh ngôn
của triết gia Tây phương Sơcrates. Tiếc rằng, Tuân Tử chưa hoàn thành được toàn
bộ triết lý theo quan niệm "trí thức luận", có lẽ Vì nguồn tư tưởng của Người đã bị
giới hạn vô hình, bởi nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc chăng.
Ngoài năm điểm trên, trong tư tưởng của Tuân Tử, còn một điểm nổi bật nữa
là, thuyết "Tính bản ác". Phần đông người ta đã hiểu lầm chân ý của Tuân Tử về
tính ác của con người. Thật ra thì Tuân Tử có bảo: "Tính giả thiên chi tựu”. Nghĩa
là khi sinh ra, người ta đã sẵn cái nhân tính tự nhiên. Nhân tính đó, ví như tờ giấy
trắng, được nhuộm màu gì sẽ ra màu ấy. Sở dĩ nhân tính có thể thành ra ác, là bởi
lòng người nảy sinh dục vọng, như Tuân Tử đã bảo: "Kim nhân chi tính, sinh nhi
háo lợi yên, thuận chi, cố tranh đoạt sinh, nhi từ nhượng vong yên... Sinh nhi hữu
nhĩ mục chi dục, hữu háo thanh sắc yên, thuận chi, cố dâm loạn sinh, nhi lễ nghĩa
văn lý vong yên. Nhiên tắc, túng nhân chi tính, thuận nhân chi tình, tất xuất ư tranh
đoạt, thạp ư phạm nhân loạn lý, nhi quy ư bạo... Dụng thử quan chi, nhiên tắc nhân
chi tính ác minh dĩ". (Tính người ngày nay, trời sinh có kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh
ra vấn đề tranh đoạt mà mất đi đức tính khiêm nhường... Trời sinh người ta có thứ
dục vọng bởi tai mắt, thích nghe cái hay, nhìn cái đẹp do đó. mới sinh ra vấn đề

dâm loạn, mà mất đi lễ nghĩa, đạo lý văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo tính và
thuận theo tình của con người, thì sẽ diễn ra cảnh tranh giành, phạm tội loạn ly, rồi
quy hết về bạo lực... Cứ nhìn theo đó thì đã quá rõ ràng, tính người là ác vậy). Đấy
là lý luận của Tuân Tử, giải thích tại sao bản tính của con người, từ chỗ trong trắng
dẫn tới chỗ ác hại. Vậy phải làm sao để khử được ác, giúp cho con người hướng về
thiện? Tuân Tử nhận định rằng, hành động tội ác của con người, là do hậu quả bị
ảnh hưởng, bởi những yếu tố phản đạo lý trong văn hóa, vậy thì phải cậy những yếu
tố hạp đạo lý trong văn hóa, mới có thể chữa trị được. Nói cách khác, phương pháp
17


trừ ác của Tuân Tử là phát huy công dụng giáo hóa của Lễ và Nghĩa, rồi cậy Lễ,
Nghĩa kìm hãm hành vi tham lam của con người. Thật ra, cách trừ ác của Tuân Tử
nói trên, vốn là một lối phổ thông nhất, trong xã hội lễ giáo mà Trung Quốc đã có
sẵn cái truyền thống đó. Chẳng qua vì người ta chỉ để ý đến cách giáo hóa bằng
lòng "Nhân" của Khổng Tử và bằng đức "Nghĩa" của Mạnh Tử, mà chẳng nhớ tới
cách giáo hóa Lễ, Nghĩa bằng phép vua của Tuân Tử đó thôi.
Vê mặt tư tưởng chính trị của Tuân Tử, một phần là thừa kế chủ thuyết của
Khổng - Mạnh; phần khác là thuộc về sáng kiến riêng của Người. Trong phần thừa
kế, có hai điểm rõ rệt nhất là "quý dân" và "thượng hiền". Sách "Tuân Tử" có rất
nhiều chỗ nói về "quý dân" tựu trung có ba điểm chính:
Thương dân nước sẽ mạnh, như câu "ái dân giả cường, bất ái dân giả nhược".
(Kẻ thương dân thì mạnh, kẻ không thương dân là yếu)
Thương dân thì chúa sẽ an vị, như câu "Quân giả châu giã; thứ nhân giả, thủy
giã; thủy tắc tải châu, thủy lắc phúc châu, thử chi vị giã. Cố quân nhân giả, dục an,
tắc mạc nhược bình chính ái dân dĩ". (Vua ví như thuyền; dân ví như nước; nước
chở được thuyền thì cũng lật được thuyền. Cho nên kẻ nắm quyền cai trị nếu muốn
được an vị, thì chẳng còn cách nào hay bằng, thực hiện chính trị hòa bình và biết
thương dân).
Lập luận dân quý vua khinh, như câu "Thiên chi sinh dân, phi vi quân giã;

thiên chi lập quân, dĩ vi dân giã". (Trời sinh ra dân, chẳng phải vì vua; trời lập ra
vua ấy là vì dân). Điểm này hoàn toàn phù hợp với lời "Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh", của Mạnh Tử. Về phần "thượng hiền", cũng có ba quan điểm rõ rệt
là: “Chọn hiền sĩ có thể giúp cho vua an vị, như câu tuyển hiền trưởng... như thị tắc
thứ nhân an chính; thứ nhân an chính, nhiên hậu quân tử an vị". (Tuyển dụng kẻ
hiền tài giúp việc nước... như thế là dân sống yên nhờ chính trị tốt; dân có yên
chính, thì chúa mới yên vị được). Đức phải xứng với vị, như câu "Vô đức bất quý,
vô năng bất quan, vô công bất thưởng, vô tội bất phạt... (Kẻ thiếu đức không được ở
địa vị cao sang, người kém tài thì không được làm quan, chẳng có công thì đừng
thưởng, chẳng có tội thì đừng phạt...). Phê phán kẻ bất kính hiền, khác nào loài

18


cầm thú, như câu "Nhân hiền nhi bất kính, tắc thị cầm thú giã". (Không biết kính
trọng kẻ hiền sĩ, tức là loài cầm thú vậy).
Riêng về phần sáng kiến độc đáo của Tuân Tử, tức là chủ nghĩa Lễ trị. Điều
này sở dĩ khác biệt với Khổng - Mạnh, là vì trong vấn đề trị nước, Khổng - Mạnh
định luận theo ý niệm đạo đức, có tính cách chủ quan; còn Tuân Tử thì định luận
theo giáo hóa Lễ, Nghĩa, có tính cách khách quan. Lý do rất giản dị là, xã hội Trung
Quốc lúc bấy giờ, chẳng phải là thứ xã hội pháp trị. nên chỉ trọng vào phép vua để
trị nước chưa đủ, còn phải cậy vào Lễ, Nghĩa để giáo hóa và bổ túc, mới được hoàn
hảo hơn. Do đó, Tuân Tử coi Lễ, Nghĩa là nền tảng của chính trị quốc gia, chẳng
những là pháp chế để thống ngự thần dân, đồng thời còn là then chốt của cuộc trị
loạn, hưng vong của một nước.
Ngoài ra trường phái Nho gia cũng còn những bậc học tài uyên bác như: Hữu
Nhược, Tăng Sâm, Bốc Thương,…
1.3 Nội dung của triết học Nho Gia
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết
lý và tôn giáo do Đức Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho

giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn
Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được
gọi là các nhà Nho hay Nho sĩ hay nho sinh. Hiện tại có khoảng 150 triệu người
theo Nho giáo tại châu Á.
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu người lý tưởng này gọi là quân tử. (quân là kẻ làm vua, quân tử là chỉ tầng lớp trên
trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau
Khổng Tử dùng từ "quân tử" để chỉ phẩm chất đạo đức: "Quân tử sở tính Nhân
nghĩa lễ trí" phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức). Để trở thành
người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu
thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản
chỉ là đạo lí. Đạo ở đây là con đường để hoàn thiện chính mình, hoà hợp đất trời trở
về bản ngã “bổn thiện”).

19


Trong cuốn Đại Học (Một trong Tứ thư, những cuốn sách chính của Nho
giáo) có ghi chép: “Khi bản thân tu luyện, gia tộc hài hòa. Khi gia tộc hài hòa, đất
nước mới được thịnh trị. Khi đất nước được thịnh trị, khắp nơi sẽ thái bình. Từ bậc
quân vương cho đến kẻ dân thường trăm họ, tất cả phải coi tu luyện bản thân là điều
quan trọng nhất”. Thuyết về quản lý thế giới và làm lợi cho dân của Nho giáo là
một phần của văn hóa Trung Quốc truyền thống vốn rất sâu sắc. Nó đã tự thiết lập
cho mình những lý tưởng về đạo đức và hệ thống tiêu chuẩn giá trị mà đã đặt định
ra nền tảng cho cả xã hội Trung Quốc trong hàng ngàn năm. Nó giúp gìn giữ các
tiêu chuẩn đạo đứccủa xã hội ở một mức khá cao.
Dân tộc Trung Hoa đã nhiều lần bị ngoại tộc (Mông Cổ, Mãn Thanh...) xâm
chiếm, nhưng văn hiến của họ thì không gươm giáo nào hủy hoại được, ngược lại
còn đồng hóa luôn những kẻ đã chinh phục họ, ấy là nhờ một phần lớn ở những tư
tưởng sâu xa của Nho giáo đã trui rèn nên một tầng lớp Nho sĩ thông thuộc kinh sử

và giàu phẩm chất đạo đức.
Nhờ Nho giáo, người Trung Quốc không ai không xem trọng giáo dục.
Khi nhà Hán lập quốc, chính sách của quốc gia có tám chữ“Dựng nước an dân, giáo
dục làm đầu”. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, hoàn toàn dùng giáo dục.
Do vậy Trung Hoa trải qua hơn 2.000 năm, dù thịnh suy mỗi lúc khác nhau, nhưng
đất nước của họ vẫn không hề lụn bại, trong khi các đế chế khác như La Mã,Ba
Tư... cứ lần lượt xuất hiện rồi sụp đổ. Việc này ngay đến người ngoại quốc cũng
khen ngợi. Không phải chính trị, không phải vũ lực của Trung Quốc, cũng không
phải là kinh tế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc, mà chính văn hiến của Trung
Quốc mới là vũ khí mạnh nhất của họ, giúp đất nước họ trường tồn. Mà gây dựng
nên nền văn hiến đó, công đầu thuộc về Nho giáo.
Xã hội hiện đại ngày nay, càng vǎn minh, con người dường như càng ít quan
tâm đến đạo đức, ít quan tâm đến nhau. Học nhiều tri thức không có nghĩa là có đạo
đức. Tri thức rất cần cho phát triển nhân loại nhưng thiếu đạo đức thì xã hội sẽ rối
loạn, nhân loại sẽ suy đồi. Khoa học kỹ thuật tiến bộ rất nhanh trong thế kỷ 20, nên
đời sống vật chất cải thiện rất nhiều. Nhưng đời sống vật chất càng tiến bộ, thì
nền đạo đức và quan hệ giữa người với người càng xấu đi, nhất là làm cho mọi

20


người mất niềm tin với nhau. Nho giáo từ hơn 2.500 năm trước đã thấy rõ được điều
này.
2.1.1 Về đạo đức
Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản nhất, bao quát nhất của Nho giáo, của học
thuyết Khổng Mạnh. Theo Khổng Tử, “đạo” của con người là 5 mối quan hệ trong xã
hội - “Ngũ luân”, trong đó có 3 quan hệ giường cột là “Tam cương”.
Theo quan điểm của Khổng Tử, “đạo” và “đức” gắn chặt với nhau. Bao quát
những quan hệ lớn nhất theo Nho giáo, Kinh Lễ nêu ra mười đức là: “cha từ, con
hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn,

vua nhân, tôi trung”. Đặc biệt khổng tử bàn về đạo làm người như sau:
"Đạo làm người" là khái niệm được hình thành từ rất lâu, nhưng ngày nay,
luận bàn về nó không phải là một điều đã cũ, cổ hủ. Bởi lẽ, từ khi có con người và
xã hội loài người thì những mối quan hệ giữa con người với con người, con người
với tự nhiên, con người với chính bản thân mình luôn nảy sinh và do vậy, "Đạo làm
người" luôn vận hành. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển, trình độ nhận thức của
con người không ngừng được nâng cao, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
xã hội và chính bản thân mình nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thì "Đạo làm người"
lại càng được chú ý hơn bao giờ hết.
Khi bàn đến "Đạo làm người", Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân”, "Đạo
làm người". Theo nghĩa đó, “Đạo làm người” được hiểu là nguyên tắc chính trị, là
quy phạm đạo đức và luân lý, là đạo lý trị quốc và xử thế của con người. Nói cách
khác, đạo làm người được hiểu là đường lối, nguyên tắc đạo đức mà con người có
bổn phận gìn giữ và tuân theo trong đời sống. Đó là nhân sinh quan, là quan niệm
sống trong sạch, thuận theo lẽ phải.
Nguyên tắc chính trị là tư tưởng chỉ đạo việc trị quốc, bình thiên hạ, phản
ánh hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Quy phạm đạo đức, luân lý theo quan niệm
của Nho giáo chính là tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tam tòng, tứ đức,… Đạo
làm người của Nho giáo bao quát các mối quan hệ trong xã hội ở một phạm vi rất
rộng. Một người có đạo đức, có “đạo làm người” là cơ sở để người đó thực hiện tốt
mối quan hệ trong quan hệ với tự nhiên, trong ứng xử xã hội, ứng xử với chính bản
thân mình theo danh phận
21


×