Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

phát triển bền vững kinh tế biển ở kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN Ở KIÊN GIANG
Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: ML1068A1

Giảng viên hướng dẫn:
TS – GVC. Trần Văn Hiếu

Sinh viên thực hiện:
Lê Thị Kim Ngân
MSSV: 6106630
Lớp: Sp - GDCD 01 – K36

Cần Thơ, 12/2013


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Bốn năm dưới giảng đường Đại học, em đã được tiếp thu nhiều kiến thức. Tuy
nhiên, muốn hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp không phải đơn giản, với trình độ
còn hạn hẹp và ít kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học nên trong quá trình thực


hiện đề tài luận văn tốt nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nhưng được sự giúp đỡ tận tình
và những đóng góp quý báu của quý thầy, cô và các bạn đã giúp cho em hoàn thành
tốt luận văn.
Qua đó em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến:
- Người trực tiếp hướng dẫn dề tài luận văn cho em: Thầy Trần Văn Hiếu.
Trong quá trình làm luận văn em đã gặp không ít khó khăn, thầy đã có những ý
kiến, đóng góp và điều chỉnh để em hoàn thành luận văn.
- Tất cả quý thầy, cô trong khoa Khoa học chính trị, thư viện khoa, giảng viên
trường Đại học cần thơ đã cung cấp nhiều kiến thức trong suốt quá trình em theo
học tại trường.
- Tỉnh ủy , Sở NN&PTNT, Ban kinh tế tỉnh, Chi cục quản lý và bảo vệ nguồn
lợi thủy sản, Ban tuyên giáo, Thư viện tỉnh Kiên Giang.
- Tập thể lớp Sư phạm Giáo dục công dân 01 k36.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Kim Ngân

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU: .................................................................................................... 1

1.Lý do chọn đề tài: .................................................................................................. 1
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:........................................................................ 2
2.1. Đối tượng nghiên cứu: .................................................................................. 2
2.2. Phạm vi nghiên cứu: ..................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ...................................................................... 2
3.1. Mục đích nghiên cứu: ................................................................................... 2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: .................................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................... 3
5. Kết cấu: ................................................................................................................ 3
PHẦN NỘI DUNG: ................................................................................................ 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG ...................................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm về phát triển bền vững và phát triển kinh tế biển bền vững ............ 4
1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững ................................................................. 4
1.1.2. Phát triển kinh tế biển bền vững ................................................................... 7
1.2.Vai trò và lợi ích của phát triển bền vững .......................................................... 8
1.2.1. Vai trò của phát triển bền vững ............................................................... 9
1.2.2. Lợi ích của phát triển bền vững ............................................................... 14
1.3.Quan điểm của Đảng ta về phát triển bền vững ................................................. 15
SVTH: Lê Thị Kim Ngân

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở KIÊN
GIANG .................................................................................................................... 18

2.1. Vị trí, lợi thế và tiềm năng của biển trong phát triển kinh tế của tỉnh .............. 18
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế biển của tỉnh trong thời gian qua ........................ 21
2.2.1. Khai thác (đánh bắt) thủy sản .................................................................. 22
2.2.2. Phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản ............................................... 28
2.2.3. Công nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản cũng tăng trưởng khá ...... 31
2.3. Những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến phát triển kinh tế biển bền vững ......... 37
2.3.1. Hạn chế ...................................................................................................... 37
2.3.1.1. Khai thác, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản........................... 37
2.3.1.2. Chế biến và xuất khẩu thủy sản.......................................................... 38
2.3.1.3. Dịch vụ thủy sản................................................................................. 37
2.3.2. Nguyên nhân .............................................................................................. 39
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
BIỂN BỀN VỮNG Ở KIÊN GIANG .................................................................... 41
3.1. Phương hướng ................................................................................................... 41
3.2. Giải pháp ........................................................................................................... 45
3.2.1. Giải pháp tổ chức lại sản xuất.................................................................... 45
3.2.2. Giải pháp cơ chế, chính sách ..................................................................... 46
3.2.3. Giải pháp về vốn, đầu tư ............................................................................ 48
3.2.4. Giải pháp thị trường ................................................................................... 49
3.2.5. Giải pháp khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực................... 49
SVTH: Lê Thị Kim Ngân

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

3.2.6. Giải pháp bảo vệ môi trường ..................................................................... 52

3.2.7. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng ...................... 53
3.2.8 Giải pháp an ninh, quốc phòng ................................................................... 55
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 57
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 64

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đề cập đến vai trò của đại dương và biển, các chiến lược gia đều thống nhất
nhận định “Đại dương và biển là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về lương thực,
thực phẩm và các nguồn nguyên nhiên liệu ở thế kỷ XXI và tiếp tới”, việc sử dụng,
khai thác biển và đại dương là một truyền thống lâu đời của con người với mục tiêu
chinh phục môi trường biển để phục vụ đời sống của mình. Đặc biệt khi hiện nay
thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng thiếu tài nguyên thiên nhiên trên đất liền.
Thực tế lịch sử cũng cho thấy những đột phá phát triển mang tầm thế giới hầu như
đều bắt nguồn từ những quốc gia biển và mỗi thời đại phát triển đều gắn kết với
biển và đại dương.
Biển và đại dương là trụ cột chính trong phát triển và chống đói nghèo của
nhiều nước. Nhưng ý thức của con người về bảo vệ và phát triển các nguồn lợi từ
biển chưa cao, tác động của con người ngày càng nguy hại cho sức khỏe và hiệu
quả kinh tế của biển và đại dương. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao vừa đảm bảo

cuộc sống của con người mà không nguy hại, ảnh hưởng đến môi trường và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho thế hệ mai sau?
Theo nghiên cứu chung của các tổ chức trên thế giới như Tổ chức Lương Nông
Liên hợp quốc (FAO), Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức
Hàng hải quốc tế (IMO)… các tổ chức này đã đưa ra nhiều khuyến cáo cũng như
những ý kiến đề xuất để phát triển kinh tế biển trong đó đáng chú ý là đề xuất nuôi
trồng thủy sản.
Việt Nam là nước đứng thứ 27 trong tổng số 156 quốc gia có biển trên thế giới.
Từ lâu biển gắn bó mặt thiết và có ảnh hưởng lớn phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của mọi miền đất nước ta. Để khai thác, sử
dụng nguồn lợi biển của quốc gia có hiệu quả cần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát huy lợi thế của vùng ven biển, tạo động lực lan
tỏa hỗ trợ phát triển kinh tế nội địa, làm “bàn đạp” cho phát triển một nền kinh tế

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 1

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

hiệu quả và vững chắc, gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển quốc gia được xác
định là một trong những hướng ưu tiên có tính đột phá chiến lược để đưa nước ta
trở thành “Một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”.
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long phía Tây Nam
của tổ quốc với ngư trường khai thác rộng lớn vùng biển này đã đem lại nguồn thu

nhập đáng kể cho tỉnh góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhiều hộ dân sinh sống
ven biển và hải đảo. Tuy nhiên, trong những năm qua nguồn tài nguyên này đang có
nguy cơ suy giảm vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để có thể vừa đảm bảo cuộc
sống của người dân mà không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, không làm ô nhiễm
môi trường biển, bảo vệ an ninh vùng biển để người dân an tâm hoạt động khai
thác. Phát triển bền vững không chỉ là hoạt động khai thác mà nó còn kết hợp giữa
bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh quốc phòng, áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào hoạt động khai thác và nuôi trồng, tuyên truyền phổ biến kiến thức
pháp luật cho người dân và hàng loạt những vấn đề đặt ra mà cơ quan lãnh đạo cần
xem xét và đưa ra những chủ trương, biện pháp kịp thời nhằm phát huy thế mạnh
của tỉnh để đưa tỉnh phát triển xứng đáng với tinh thần Nghị quyết số 09- NQ/TW
khóa X“Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” nước ta trở thành quốc gia
mạnh về biển và làm giàu từ biển. Từ những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài
“Phát triển bền vững kinh tế biển ở Kiên Giang” cho luận văn tốt nghiệp ra
trường.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phát triển bền vững kinh tế biển
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: từ khi có Nghị quyết 09-NQ/TW khóa X Về phát
triển kinh tế biển đến nay.
- Không gian: tỉnh Kiên Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 2

MSSV:6106630



GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Đánh giá lại quá trình phát triển kinh tế biển ở Kiên Giang thời gian qua
từ khi có Nghị quyết 09-NQ/TW khóa X đến nay, qua đó thấy được những mặt
được và chưa được, khó khăn, tồn tại từ đó có những phương hướng, giải pháp cụ
thể, để phát triển kinh tế biển bền vững ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên Luận văn có ba nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của Phát triển bền vững và Phát triển bền vững
kinh tế biển.
Hai là, thực trạng và những tồn tại hạn chế làm ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế biển ở Kiên Giang.
Ba là, phương hướng, giải pháp để Phát triển bền vững kinh tế biển tỉnh
Kiên Giang trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây: phương pháp
logic, Phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu kham khảo,
gồm 3 chương, 8 tiết.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 3

MSSV:6106630



GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN CHUNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm Phát triển bền vững và phát triển kinh tế biển bền vững
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Từ khoảng hơn mười năm nay, Phát triển bền vững (Stable Development) đã
trở thành một khái niệm vô cùng phổ thông. Nói tới phát triển kinh tế và phát triển
xã hội, phát triển quốc gia hay phát triển địa phương, phát triển toàn cầu hoặc phát
triển khu vực, v.v. , “Phát triển” đều được hiểu theo nghĩa “Phát triển bền vững”.
Phát triển bền vững là hướng đi mà Tổ chức Liên hiệp quốc, Chính phủ các
quốc gia, các đoàn thể và công đoàn, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quần
chúng, v.v. đã tán đồng và ủng hộ. Các nước giàu cũng như các quốc gia có thu
nhập thấp đều chủ trương Phát triển bền vững, soạn thảo các chương trình và kế
hoạch kinh tế-xã hội theo hướng và trong tinh thần của sự Phát triển bền vững. Gần
đây, Ngân hàng thế giới đã chọn Phát triển bền vững làm đề tài cho phúc trình
thường niên 2003 với tựa là “Phát triển bền vững trong một thế giới năng động”.
Chủ trương “Không tăng trưởng” không thuyết phục được thế giới. Các nước
nghèo và chậm tiến cũng như các quốc gia có nền kinh tế giàu có đều chống đối
quan điểm của Câu lạc bộ La Mã, tuy với những lý do hoàn toàn khác nhau. Ngoài
ra, đứng về phương diện nhận thức kinh tế thì đã có những tiến bộ quan trọng mà
đáng ghi nhất là sự phân biệt giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế là sự nhận thức một chiều và phiến diện về hoạt động và sản xuất
kinh tế. Nó chú trọng tới số lượng sản xuất, phương diện vật chất của hoạt động
kinh tế. Trái lại, phát triển kinh tế là một khái niệm xuất hiện vào khoảng giữa thập

niên những năm 1960 từ một nhận thức mở rộng về kinh tế, không còn tính cách

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 4

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

máy móc, eo hẹp. Theo khái niệm mới này “thêm” không đồng nghĩa với “hơn”. Do
đó tăng trưởng kinh tế, sản xuất “thêm” không chắc chắn chỉ có lợi và thuần túy tích
cực mà có thể ảnh hưởng không tốt làm môi trường, môi sinh tiêu hao hoặc hư hại.
Ngược lại, phát triển kinh tế là một nhận thức toàn diện bao gồm các khía cạnh
tinh thần và vật chất, kinh tế và xã hội, phẩm và lượng. Phát triển kinh tế gợi ý phải
có đổi thay và tiến bộ không ngừng, về phẩm và lượng, để kinh tế-xã hội ngày một
“hơn” một cách toàn diện, cân đối, thống nhất. Như vậy, nếu tăng trưởng kinh tế
nghịch với yêu cầu bảo vệ môi trường, môi sinh, thì phát triển kinh tế lại có khả
năng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, di sản sinh thái, môi trường, môi sinh. Phát
triển kinh tế giữ được vai trò phát huy quan hệ hỗ tương giữa hoạt động kinh tế-xã
hội với môi trường, môi sinh để loài người có cuộc sống thực sự tiến bộ, có an sinh
và phúc lợi, có môi trường, môi sinh không ô nhiễm, có hệ sinh thái cân bằng xung
quanh.
Một năm sau Câu lạc bộ La Mã công bố phúc trình “Ngừng tăng trưởng” hoặc
“Giới hạn của tăng trưởng”, tổ chức Liên Hiệp Quốc triệu tập năm 1972 tại
Stockholm Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường. Hội nghị đã diễn ra trong bầu
không khí tranh cãi sôi nổi. Hội nghị đã đề nghị một khái niệm mới là “Phát triển

tôn trọng môi sinh” với chủ trương bảo vệ môi trường, tôn trọng môi sinh, quản lý
hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên, thực hiện công bằng và ổn định xã hội. Khái niệm
“Phát triển tôn trọng môi sinh” bị các nước phát triển và giàu có chống đối mạnh
mẽ. Cuối cùng hội nghị chỉ thảo luận vấn đề ô nhiễm và chấm dứt với sự tán đồng
quan điểm có mối liên hệ và ảnh hưởng hỗ tương giữa nếp sống của loài người với
môi trường, môi sinh, giữa phát triển kinh tế-xã hội với bảo tồn tài nguyên và ổn
định thiên nhiên. Ngoài ra các nước cũng thỏa thuận và cam kết hành động để bảo
vệ môi trường, môi sinh và thành lập những cơ quan quốc tế và quốc gia có nhiệm
vụ bảo vệ môi trường, môi sinh. Mặc dù đề nghị “Phát triển tôn trọng môi sinh”
không được chấp thuận, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng hướng tới sự khai
sinh khái niệm “Phát triển bền vững”.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 5

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Vào đầu thập niên những năm 1980, Liên hiệp Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên là tổ
chức đã đề khởi khái niệm Phát triển bền vững. Rồi năm 1987, khái niệm này đã
được Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển do bà Gro Harlem Brundtland
làm chủ tịch tiếp thu, khai triển và định nghĩa như sau trong phúc trình mang tựa
“Tương lai của chúng ta”.
“ Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện tại
nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu cầu của

chính họ”
Khái niệm Phát triển bền vững như vậy có một nội dung bao quát, không có
phạm vi nhất định, không bị gò bó bởi những chuẩn mực hoặc quy tắc đã định trước
và cũng không có tính cụ thể rõ rệt. Khái niệm có thể diễn nghĩa nhiều cách, theo
nhiều hướng khác nhau. Khái niệm có thể thi hành với những phương tiện hành
động uyển chuyển. Phát triển bền vững là một khái niệm co dãn, dễ áp dụng vào
điều kiện thực tế và hoàn cảnh xung quanh. Nói chung, Phát triển bền vững là một
hướng đi dung hòa chủ trương “Không tăng trưởng” và chính sách “Phát triển tôn
trọng môi sinh”.
Kể từ khi khái niệm này xuất hiện, nó đã gây được sự chú ý và thu hút sự quan
tâm của toàn nhân loại và được thế giới chấp nhận rộng rãi.
“Phát triển bền vững là sự phát triển đòi hỏi phải kết hợp đa mục tiêu để đạt
tới sự cân bằng về lợi ích, kinh tế, xã hội và môi trường. Tiêu điểm của sự Phát
triển bền vững là bảo vệ được môi trường sinh thái, sự phát triển thỏa mãn được
các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc
thỏa mãn các nhu cầu của họ”
Diễn tả cách khác, Phát triển bền vững chỉ có được khi nào bảo đảm được lâu
dài mọi nổ lực hiệu quả nhằm phát triển hài hòa, đồng bộ ba phương diện kinh tế,
xã hội và môi trường.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 6

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp


Một là, Về kinh tế - xã hội, phải đảm bảo phát triển kinh tế song song với việc
xây dựng một xã hội công bằng.
Hai là, Về kinh tế - môi trường, phải bảo đảm phát triển kinh tế cùng lúc với
việc duy trì một môi trường mà con người còn có thể tồn sinh.
Ba là, Về xã hội – môi trường, đó là phát triển xã hội sao cho môi trường vẫn
thích hợp cho con người sinh sống.
Ba mặt trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mật thiết và tác động lẫn nhau.
Song xử lý mối quan hệ ba mặt này là một quá trình lâu dài và phức tạp có thể làm
nãy sinh những mâu thuẫn và thách thức to lớn cần phải có nỗ lực chung và thống
nhất hành động của cả cộng đồng quốc tế.
Khái niệm này trở thành chìa khóa giúp các quốc gia xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chương trình hành động và giải pháp tháo gỡ bế tắt trong quá
trình phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo toàn cầu hóa khai thác và sử dụng tài nguyên
chưa hợp lý, ô nhiễm môi trường, tốc độ tăng dân số, nhu cầu tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, bảo vệ môi trường....đang là những lực cản rất lớn của Phát triển
bền vững.
1.1.2. Phát triển kinh tế biển bền vững
Việt Nam nằm ở rìa Biển Đông, vùng biển có vị trí địa kinh tế, chính trị đặc
biệt quan trọng và từ lâu đã là nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển
không chỉ của các nước xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc
hàng hải khác trên thế giới. Bên cạnh đó, vùng biển Việt Nam còn có nguồn tài
nguyên vô cùng phong phú và có tiềm năng lớn cho các ngành kinh tế phát triển.
Theo công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 thì Việt Nam hiện nay
không chỉ có phần lục địa “hình chữ S” mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu
km2 gấp hơn ba lần diện tích đất liền.
Dọc bờ biển có hơn 100 cảng biển, 48 vụng, vịnh và trên 112 cửa sông, cửa
lạch đổ ra biển. Vùng biển Việt Nam có hơn 3000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần

SVTH: Lê Thị Kim Ngân


Trang 7

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

đất nổi khoảng 1.636km2 được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam
với những đảo nổi tiếng giàu, đẹp và vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú Quốc,
Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Các Bà, Hoàng Sa, Trường Sa...
Tuyến biển có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường
(trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và
17 vạn người sống ở các đảo. Khai thác biển cho phát triển kinh tế là một cách làm
đầy hứa hẹn, mang tính chiến lược và được đánh giá là đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Từ bao đời nay, biển
luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam.
Do đó phát triển bền vững kinh tế biển có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội nước ta.
Phát triển bền vững kinh tế biển là “Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc
gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và
hợp tác quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến
dầu khí, hải sản, dịch vụ biển; đẩy nhanh ngành công nghiệp đóng tàu biển và khai
thác, chế biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước một số vùng kinh tế ven
biển và hải đảo”. [8; tr.361].
Tại Nghị quyết 09 - NQ/TW khóa X ngày 9-2-2007 “Về chiến lược biển Việt
Nam đến năm 2020” đã nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là “Thế kỷ của

đại dương”. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây
dựng chiến lược biển. Khu vực biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị
trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng.
Từ định nghĩa phát triển bền vững nói trên, có thể định nghĩa: “ Phát triển
kinh tế biển bền vững là sự phát triển kinh tế gắn với việc bảo vệ môi trường sinh
thái bền vững, bảo vệ sự đa dạng sinh học biển, khai thác gắn với bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên trên biển, tránh ảnh hưởng di hại cho các thế hệ tương lai.”
1.2. Vai trò và lợi ích của Phát triển bền vững

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 8

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Mục tiêu cuối cùng của Phát triển bền vững là thỏa mãn yêu cầu căn bản của
con người, cải thiện cuộc sống của tất cả và song song bảo toàn và quản lý hữu hiệu
hệ sinh thái, bảo đảm tương lai ổn định. Phát triển bền vững cho rằng cần phải hoạt
động sản xuất có giới hạn, tiêu dùng và thụ hưởng tiết kiệm, phân phối công bằng
thu nhập, điều hòa dân số và nhân lực, đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu có
khuynh hướng gia tăng nhanh với tài nguyên bị hạn chế. Phát triển bền vững đề cao
các giá trị nhân bản, tính cân bằng trong sản xuất, tiêu dùng và thụ hưởng. Nó nhằm
thực hiện và bảo đảm sự liên đới giữa các thế hệ, giữa các quốc gia, giữa hiện tại
với tương lai. Phát triển bền vững có tính chất đa diện, thống nhất, toàn bộ. Nó chủ
trương có sự tham gia đóng góp của các đối tượng thụ hưởng, tạo tính sở hữu kế

hoạch và kết quả hoạt động, xây dựng tinh thần trách nhiệm.
1.2.1. Vai trò của Phát triển bền vững
Vai trò của Phát triển bền vững thể hiện tính bền vững ở ba mặt chủ yếu:
Một là, kinh tế phát triển nhanh và duy trì tốc độ phát triển kinh tế trong
một thời gian dài.
Phát triển bền vững là mối quan tâm chung hiện nay, tuy nhiên mức độ nhận
thức và hành động nhằm Phát triển bền vững của các nước là khác nhau. Sự khác
biệt này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển cũng như hình thái phát triển của
mỗi nước: những nước phát triển, đang phát triển và đang trong quá trình chuyển
đổi.
Có một điều bắt cập về Phát triển bền vững đối với tất cả các quốc gia là luôn vì
lợi ích của mình mà quên đi lợi ích chung như việc các nước phát triển phải hoặc
bán rẻ những công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm cao cho những nước nghèo hoặc
bỏ tiền ra mua tài nguyên thô của những nước đang phát triển để phục vụ phát triển
công nghiệp của nước mình. Điều này đã đẩy nhanh quá trình làm cạn kiệt nguồn
tài nguyên thiên nhiên của những nước nghèo, gây mất cân bằng sinh thái, gây ra
thiên tai, lũ lụt, thoái hóa môi trường.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 9

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Với những nước đang phát triển là những nước mới bắt đầu bước ra khỏi sự phụ

thuộc quá nhiều vào thiên nhiên. Chính phủ cũng như người dân những nước này,
khai thác tài nguyên thiên nhiên để tồn tại, họ chỉ thấy cái lợi trước mắt là việc làm,
thu nhập… nên đã không có ý thức bảo vệ môi trường. Do điều kiện phát triển kinh
tế cũng như nhận thức của những nước này cũng không có tiền đề để lựa chọn
những giải pháp khác và để khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường do chính họ gây
ra.
Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi, do một thời kỳ lịch sử
phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung và hiện nay đang
trong giai đoạn đầu của phát triển. Lo ngại sự tục hậu về kinh tế so với thế giới cộng
với những nhận thức sai lầm về tăng trưởng và phát triển, các nước này vì thế
khuyến khích khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho sản
xuất, tăng tốc độ tăng trưởng với hy vọng đuổi kịp các nước trong thời gian ngắn.
Ngoài ra những nước đang trong quá trình chuyển đổi cũng đang mắc phải vấn
đề bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên giống như những nước đang phát triển
khác. Với những sai lầm về nhận thức và những khó khăn đã dẫn tới nguồn tài
nguyên thiên nhiên đến bên bờ của khủng hoảng cân bằng sinh thái.
Thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới đã làm rõ một nguyên lý cơ bản là, muốn
tăng trưởng kinh tế nhanh phải có phương thức huy động tối đa mọi tiềm năng,
nguồn lực hiện có cho đầu tư phát triển. Nhiều nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng
cao nhờ đầu tư lớn, khai thác mạnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thế nhưng,
việc chạy theo những chỉ tiêu về tốc độ thường kéo theo đầu tư tràn lan, tạo ra tình
trạng thiếu hiệu quả dẫn đến mất cân đối trong phát triển, đến một mức nào đó khi
khủng hoảng xảy ra sẽ làm tiêu tan rất nhanh chóng những gì đã đạt được.
Những nhà khoa học tiến bộ trên thế giới đã phát hiện ra rằng với xu thế kinh tế
thế giới như vậy, xã hội loài người sẽ đương đầu với nhiều nguy cơ và thảm họa
trong tương lai gần, đó là ô nhiễm môi trường sống, đào sâu hố ngăn cách giữa
nhóm người giàu và nhóm người nghèo, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Chẳng hạn:

SVTH: Lê Thị Kim Ngân


Trang 10

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

“Chỉ với sáu tỷ dân trên toàn thế giới như hiện nay, nếu tất cả các quốc gia điều
phát triển, có mức sống và lối sống như người Mỹ, thì nguồn tài nguyên cần thiết
cho quá trình phát triển ấy sẽ lớn bằng 15 lần Trái đất của chúng ta đang có”.
Vì thế vai trò của bền vững về kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải bảo đảm kết
hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với các yêu cầu phát triển văn hóa –
xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với các điều kiện nguồn lực, tài nguyên
thiên nhiên, khoa học, công nghệ, việc sử dụng hợp lý nguồn thiên nhiên không tái
tạo được và việc phát triển công nghệ sạch. Chúng ta phải biết bảo vệ và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Muốn có một cuộc sống hạnh phúc, ổn định để phát
triển, con người phải bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, biết xây
dựng và phát triển một nền kinh tế sinh thái bền vững.
Do đó chúng ta cần phải bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và duy trì tốc độ ấy
trong một thời gian dài. Cần phải phân biệt rõ giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với
việc bảo đảm, duy trùy sự tăng trưởng đó trong một thời gian dài. Tăng trưởng
nhanh thường đi liền với việc đầu tư lớn, khai thác tài nguyên thiên nhiều không
giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách để tăng sản lượng, tăng doanh thu và
tăng lợi nhuận. Và như thế thường mâu thuẫn với Phát triển bền vững, với xu hướng
muốn duy trùy sự tăng trưởng đó một cách bền bỉ và dài lâu, nghĩa là tăng trưởng
hôm nay phải không được làm ảnh hưởng đến tương lai.
Hai là, Môi trường sinh thái phải được bảo vệ một cách tốt nhất.
Thông thường các nước phương Tây thường tỏ ra quan tâm nhiều đến việc bảo

vệ môi trường và tính bền vững, trong khi thế giới thứ ba chú ý đến tốc độ phát triển
kinh tế. Thách thức đặt ra hiện nay là giữa môi trường và phát triển, vấn đề nào cần
được đặt lên trước? Qua Hội nghị Rio, Nghị định thư Kyôtô hay Thượng đỉnh thiên
niên kỷ của Liên hợp quốc, có vẻ môi trường đang được quan tâm hơn.
Sự ưu tiên này bắt nguồn từ thực trạng môi trường đang bị hủy hoại ở mức báo
động. Các nguồn lực tự nhiên đang cạn kiệt, dân số tiếp tục gia tăng, nhiều loài
động thực vật đang biến mất khỏi trái đất, rừng đang bị đốn lấy gỗ và làm nhiên

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 11

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

liệu, không khí và nguồn nước bị ô nhiễm, trái đất đang nóng dần lên. Nếu không
hành động kịp thời, có lẽ con người sẽ tự hủy diệt chính cuộc sống của mình. Song
sự báo động đỏ về môi trường có khi lại làm người ta nôn nóng và đi chệch đường.
Một số nhà kinh tế lập luận các biện pháp giảm ô nhiễm và bảo vệ môi trường
là rất cần thiết. Nhưng trong khi các nước phương Tây đổ hàng trăm tỷ đô la (ước
tính chi phí để thực hiện nghị định thư Kyôtô là 350 tỷ USD/năm) cho bảo vệ môi
trường, người ta lại bỏ quên hàng tỷ người đang sống trong cảnh nghèo đói. Chính
những con người đang thiếu ăn, không được tiếp cận với năng lượng và nước sạch
này lại là một trong những nhân tố gây bất ổn nhất đến sự bền vững của môi trường.
Theo tính toán, riêng chi phí để thực hiện nghị định thư Kyôtô đã có thể giữ lại cuộc
sống cho hai triệu người mỗi năm và giúp khoảng năm trăm triệu người khỏi mắc

những căn bệnh nguy hiểm cách tiếp cận này đồng nghĩa ưu tiên sự phát triển.
Phát triển và môi trường là hai mặt không tách rời. Phát triển không thể lâu dài
trên sự hy sinh của môi trường cũng như không thể bảo vệ môi trường có hiệu quả
khi bỏ quên phát triển.
Cuộc sống của con người ở khắp mọi nơi đều phụ thuộc vào thiên nhiên. Con
người sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tồn tại, phát triển và cải thiện điều kiện
sống của mình. Nhưng việc sử dụng thiên nhiên phải duy trì được tính đa dạng và
khả năng tái sinh của tài nguyên thiên nhiên. Bền vững về tài nguyên thiên nhiên và
chất lượng môi trường là sử dụng các tài nguyên không tái tạo được trong phạm vi
có thể khôi phục được về số lượng và chất lượng bằng con đường tự nhiên hoặc
nhân tạo.
Trước những cảnh báo về nguy cơ đối với sự sống trên Trái đất do chính bàn
tay con người gây nên. Những cảnh báo khoa học nghiêm túc đã làm cho các quốc
gia dần từng bước ý thức được mối liên hệ nhân quả giữa lối sống của loài người
với môi trường sinh thái, giữa phát triển kinh tế xã hội với bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 12

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Năm 1992, Liên hợp quốc tổ chức hội nghị thượng đỉnh về Trái đất tại Rio
Janeiro, Brazil. Tại đây các quốc gia đã thỏa thuận một Chương trình Nghị sự về

Phát triển bền vững cho thế kỷ XXI (Agenda 21), và cũng đã thông qua được Công
ước chung, theo đó viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho các nước nghèo thuộc
thế giới thứ ba cần phải chiếm ích nhất 0,7% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của
các quốc gia công nghiệp phát triển. Mười năm sau, năm 2002, Liên hợp quốc lại tổ
chức Hội nghị khác tai Johannesburg, Nam Phi, đã xác định xúc tiến và thực hiện
Agenda 21 và đề ra mục tiêu cho Thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, ngày nay khi mà mối quan hệ tương tác giữa các nước ngày càng
phức tạp hơn và những tác động môi trường không chỉ xảy ra riêng với một quốc
gia nào mà xảy ra trên toàn thế giới. Nhận thức về bảo vệ môi trường và các nước
hiện có những hành động tích cực nhằm Phát triển bền vững đang tăng lên. Các
nước phát triển đã giúp đỡ các nước đang phát triển, các nước nghèo khắc phục hậu
quả ô nhiễm môi trường và có những nổ lực lớn trong việc nghiên cứu nguồn
nguyên liệu sạch thay thế. Các nước đang phát triển đã sử dụng có chọn lọc công
nghệ nhằm giảm thiểu đến tác động môi trường.
Vì vậy, vai trò của môi trường sinh thái trong phát triển bền vững là rất cần
thiết. Môt trường sinh thái cần được bảo vệ một cách tốt nhất, phải tiết kiệm các
nguồn tài nguyên, nâng cao tỷ lệ sử dụng các nguồn lực một cách không lãng phí,
làm cho hệ sinh thái được tái sinh thường xuyên. Nghĩa là, nhịp độ gia tăng sử dụng
tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn tốc độ tái sinh. Sử dụng tài nguyên
không có khả năng tái sinh phải tùy thuộc vào khả năng sáng chế các vật tư, vật liệu
thay thế, tăng cường sử dụng các công nghệ và vật liệu thân thiện môi trường. Mức
độ phát thảy ô nhiễm phải thấp hơn khả năng xử lý của môi trường tự nhiên thông
qua các quá trình làm sạch và lọc khí tự nhiên ( như rừng, cây xanh…). Các hoạt
động kinh tế và mưu sinh của con người phải được coi là một bộ phận cấu thành của
hệ sinh thái, và do đó phát triển kinh tế phải bảo toàn sự cân bằng của hệ sinh thái,
nếu không thì không thể bảo đảm bền vững.
Ba là, Đời sống xã hội phải được bảo đảm hài hòa.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân


Trang 13

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Con đường đi đến Phát triển bền vững còn rất quanh co. Sự bền vững toàn cầu
đòi hỏi sự cùng hành động của tất cả các quốc gia. Trong một thời kỳ cụ thể, người
ta có thể ưu tiên phát triển một mặt nào đó, song mức độ và thời hạn của sự ưu tiên
đó chỉ có giới hạn. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hầu như tất cả các nước đều coi
tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một với quan điểm: Tạm thời chưa chú trọng đến
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Như vậy, phải chấp nhận sự bất bình đẳng trong xã hội và sự suy thoái môi
trường. Sau khi đạt được trình độ phát triển kinh tế cao, sẽ có điều kiện để khắc
phục dần dần sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong xã hội và làm trong sạch
lại môi trường. Ở nhiều nước, cái giá phải trả để tăng nhịp độ kinh tế là sự mất cân
bằng về xã hội, sự đói nghèo của một bộ phận dân cư, sự thất học của một số trẻ
em, sự mở rộng các khu nhà ổ chuột ở đô thị, tỷ lệ thất nghiệp cao. Về mặt môi
trường là mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng cao, sự cố môi trường ngày càng
gia tăng, các dòng sông bị ô nhiễm vì nước thải, bầu trời bị ô nhiễm vì khói bụi
công nghiệp.
Cho nên môi trường tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên) và
môi trường xã hội (sức khỏe, cuộc sống, lao động và học tập) cần được bảo vệ,
không làm ô nhiễm, tổn hại và suy thoái từ hoạt động của con người. Các nguồn
phế thải từ công nghiệp và sinh hoạt được xữ lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường
được bảo đảm, con người được sống trong môi trường trong sạch…Xã hội bền vững
là một xã hội trong đó phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, trong đó

giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội được chăm lo.
Tóm lại, Từ vai trò thực tiễn của phát triển bền vững, con người đã cảnh giác
và tìm chiến lược phát triển mới: Coi các vấn đề tăng trưởng kinh tế, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường là ba yếu tố cấu thành của xã hội. Sự phát triển lâu dài và
ổn định chỉ có thể đạt được dựa trên một sự cân bằng nhất định của ba mặt: kinh tế xã hội - môi trường. Các nước đang trong quá trình chuyển đổi đã chuyển hướng từ
mục tiêu tăng trưởng nhanh sang mục tiêu Phát triển bền vững, hài hòa, xã hội bền
vững.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 14

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

1.2.2. Lợi ích của phát triển bền vững
Phát triển bền vững về mặt xã hội có lợi ích là tạo ra một xã hội công bằng,
cuộc sống của mọi người được bảo đảm và bình an. Muốn xã hội không rơi vào
trạng thái xung đột, phải làm sao để có môi trường xã hội thực sự dân chủ, bình
đẳng, mọi người đều được thụ hưởng các thành quả của sự tăng trưởng kinh tế. Xã
hội của một nước không thể tồn tại bền vững nếu để một tầng lớp người hay nhóm
người bị gạt ra ngoài lề tiến trình phát triển của quốc gia. Thế giới cũng không thể
có Phát triển bền vững nếu cuộc sống và tính mạng của một bộ phận nhân loại hay
một số quốc gia đang bị đe dọa vì nhiều lý do: chiến tranh, xung đột, bệnh tật,
nghèo nàn và thiếu các đều kiện sống tối thiểu như nước sạch, không khí sạch, nhà
ở, ăn uống, thuốc men.

Những nội dung chung nhất về sự Phát triển bền vững đã được hiểu và thực thi
trong những mô hình kinh tế và thể chế chính trị khác nhau và vì vậy kết quả đem
lại cũng không giống nhau. Do đó, lợi ích của phát triển bền vững về mặt kinh tế
còn giúp tiết kiệm các nguồn tài nguyên, nâng cao tỷ lệ sử dụng các nguồn lực một
cách không lãng phí, làm cho hệ sinh thái được tái sinh thường xuyên. Nghĩa là,
nhịp độ gia tăng sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn tốc độ tái
sinh. Sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải tùy thuộc vào khả năng
sáng chế các vật tư, vật liệu thay thế, tăng cường sử dụng các công nghệ và vật liệu
thân thiện môi trường. Mức độ phát thải ô nhiễm phải thấp hơn khả năng xử lý của
môi trường tự nhiên thông qua các quá trình làm sạch và lọc khí tự nhiên: rừng, cây
xanh… các hoạt động kinh tế và mưu sinh của con người phải được coi là một bộ
phận cấu thành của hệ sinh thái và do đó phát triển kinh tế phải bảo toàn sự cân
bằng của hệ sinh thái nếu không thì không thể bảo đảm bền vững.
Như vậy, ý tưởng về Phát triển bền vững biểu thị sự hài hòa, đồng tiến hóa và
cộng sinh giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Trong mối quan hệ này con
người là trung tâm. Phát triển bền vững được hiểu là sự tương tác hài hòa giữa xã
hội của con người và thiên nhiên nhằm bảo vệ sinh quyển mà con người đang sống
trong đó và bảo đảm sự phát triển lâu dài, vô hạn của con người. Mục đích của sự

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 15

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp


Phát triển bền vững chủ yếu là giải quyết mâu thuẫn giữa nền văn minh và sinh
quyển, cái mâu thuẫn có thể dẫn đến sự diệt vong của cả hai, nếu không được khắc
phục kịp thời.
1.3. Quan điểm của Đảng ta về Phát triển bền vững
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc
độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại chỉ thị số 36 – CT/TW ngày 25/06/1998 Về tăng cường công tác bảo vệ
môi trường trong thời kỳ CNH, HDH (Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa) đất nước,
Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách
rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các
cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng đảm bảo Phát triển bền vững, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HDH đất nước”.
Trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 1991–2000, Đảng ta đã khẳng
định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển
văn hóa, bảo vệ môi trường”. Quan điểm Phát triển bền vững của Đảng được nêu
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
– bảo vệ môi trường”. [6; tr.162] . Đây là lần đầu tiên trục tam giác tăng trưởng
kinh tế - thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội – bảo vệ môi trường với tư cách là
những thành tố nằm trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên sự Phát
triển bền vững được Đảng ta đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và trở thành quan điểm
chính thức của Đảng.
Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI, Hội nghị lần
thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09NQ/TW khóa X ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”,
trong đó nhấn mạnh "Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương”. Nghị
quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020:

SVTH: Lê Thị Kim Ngân


Trang 16

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên
cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với
cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao
với tầm nhìn dài hạn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc
phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng
biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi
trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu
quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực
bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước.
Nếu trong văn kiện Đại hội IX và X, Đảng ta chủ yếu đưa ra quan điểm có tính
chất định hướng cho sự Phát triển bền vững đất nước thì tại Đại hội XI, quan điểm
Phát triển bền vững được thể hiện tập trung, xuyên suốt trong văn kiện Đại hội lần
XI của Đảng, từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020 cho đến Báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng; biểu hiện trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường… Giữa phát triển nhanh và phát triển

bền vững có mối quan hệ mật thiết với nhau: “ Phát triển bền vững là cơ sở để phát
triển nhanh, phát triển nhanh tạo nguồn lực cho Phát triển bền vững. Phát triển
nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội”. [6; tr.99].
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế “Chuyển đổi mô hình tăng
trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng
và chiều sâu, vừ mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính
bền vững”. Phát triển mạnh công nghiệp, xây dựng và nông – lâm – ngư nghiệp
toàn diện theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh trên cơ sở

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 17

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

“Công nghiệp hóa sạch”, bền vững gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông
thôn, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nông thôn mới. Trong khi phát triển hàng hóa
đáp ứng yêu cầu ngày càng nhiều của thị trường phải đặc biệt coi trọng chất lượng
hàng hóa, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm: bảo tồn và phát triển được các tài
nguyên đất, nước, không khí và đa dạng sinh học. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa,
bền vững giữa các vùng, đô thị nông thôn, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp trong điều kiện xây dựng nông thôn mới.
Trong các giải pháp trên giải pháp chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có đội
ngũ cán bộ là giải pháp “chìa khóa”. Đại hội XI khẳng định: Tiếp tục đổi mới mạnh

mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HDH.
Tập trung vào đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu
của công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ, chú ý
cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy nhiệm
của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp
chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương… Kịp
thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ,
giảm súc uy tín, vi phạm pháp luật, chính sách của Nhà nước, kỷ luật của Đảng.
Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ.
Tóm lại, từ quan điểm về Phát triển bền vững, Đảng ta đã đề ra những giải pháp
trong các lĩnh vực, đặc biệt quan trọng là nhân tố con người, trong đó có cán bộ. Để
thực hiện thành công đưa đất nước thực sự Phát triển bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực,
quyết tâm cao của các cấp ủy đảng, trong đó có vai trò quyết định của người đứng
đầu.

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN Ở KIÊN GIANG
2.1. Vị trí, lợi thế và tiềm năng của biển trong phát triển kinh tế của tỉnh

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 18

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp


Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long - phía Tây Nam của
Tổ quốc: phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và
Bạc Liêu; phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh
Hậu Giang; phía Tây giáp Vịnh Thái Lan.
Vị trí địa lý của Kiên Giang có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế - xã hội tổng
hợp, là cửa ngõ hướng ra biển Tây của tỉnh cũng như của vùng đồng bằng sông Cửu
Long, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển, đảo và giao lưu với các nước
trong khu vực và quốc tế với các ngành mũi nhọn như nuôi trồng và khai thác (đánh
bắt) thủy sản, du lịch, thương mại, dịch vụ công nghiệp…
Kiên Giang có tổng diện tích tự nhiên 6.346,27 km2. Theo kết quả điều tra ngày
01/04/2009, dân số tỉnh Kiên Giang là 1.683.149 người, mật độ 267 người/km², khu
vực nông thôn 73,1%, thành thị 26,9%; dân tộc chủ yếu là người Kinh, Khmer,
Hoa. Dân số của tỉnh phân bố không đều, thường tập trung ở ven trục lộ giao thông,
kênh rạch, sông ngòi và một số đảo, quy mô dân số đến năm 2010 dự kiến dưới 1,8
triệu người.
Đơn vị hành chính: Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, thị:
Thành phố Rạch Giá, thị Xã Hà Tiên, huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất, huyện
Tân Hiệp, huyện Châu Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An
Biên, huyện An Minh, huyện Vĩnh Thuận, huyện Phú Quốc, huyện Kiên Hải, huyện
U Minh Thượng và huyện Giang Thành.
Nằm ở cực Tây Nam Việt Nam và là một trong những địa phương bao bọc Vịnh
Thái Lan, Kiên Giang có bờ biển dài 200km, đạt tỷ lệ 1km chiều dài bờ biển/32km2
diện tích đất liền của tỉnh; trong khi cả nước tỷ lệ đó là 1/150 và của thế giới là
1/600. Kiên Giang lại là tỉnh có tới 9 huyện, thành phố có bờ biển (Hà Tiên, Kiên
Lương, Hòn Đất, thành phố Rạch Giá, Châu Thành, An Biên, An Minh, Phú Quốc,
Kiên Hải). Trong đó có hai huyện đảo là Phú Quốc và Kiên Hải. Những đặc điểm
đó đã tạo cho Kiên Giang một tiềm năng lớn và thế mạnh về phát triển kinh tế biển.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân


Trang 19

MSSV:6106630


GVHD: TS-GVC Trần Văn Hiếu

Luận văn tốt nghiệp

Biển Kiên Giang là một biển cạn, ở cách xa bờ đến hàng chục kilômét mà độ
sâu không quá 10 mét. Độ sâu trung bình của biển từ 25 đến 30 mét, nơi sâu nhất là
50 mét. Nước biển ven bờ mang nhiều phù sa nên đục, có màu hơi vàng, ngoài khơi
xa, nước biển khá trong, có màu xanh lơ. Nhiệt độ trung bình của nước biển là 270c,
lượng muối chứa trong nước biển là 33 gam/lít. Đáy biển có lớp bùn dày phía trên,
còn phía dưới là lớp cát, một vài nơi như khoảng giữa hòn Rái và hòn Củ Tron, đáy
biển có nhiều đá ong cứng, sắt nhọn. Biển rất ít sóng lớn, độ cao của ngọn sóng lớn
không quá 5m, lại không có sóng ngằm.
Với những điều kiện tự nhiên nói trên, biển Kiên Giang là môi trường thuận lợi
cho các loài hải sản sinh sống và phát triển, suốt năm lúc nào cũng có thể khai thác
hải sản được.
Bờ biển Kiên Giang dài 200km, chạy từ rạch Tiểu Dừa giáp ranh với tỉnh Cà
Mau đến tận biên giới Campuchia. Hàng năm, bờ biển được phù sa bồi đấp khá
nhanh, mỗi năm có thể được bồi thêm ra 3 mét về phía biển. Có những bãi bồi nằm
ven biển rộng và dài, bị nước thủy triều dìm ngập quanh năm. Theo kinh nghiệm,
nơi nào có loài cây mắm mọc và phát triển thì nơi đó được coi là ranh giới giữa biển
và đất liền. Bờ biển Kiên Giang phân thành hai đoạn mang những đặc điểm khác
nhau.
Đoạn 1: Từ ranh giới Cà Mau - Kiên Giang đến Hòn Đất. Đoạn này ít khúc
khuỷu và có nhiều xác thực vật phân hủy.
Đoạn 2: Từ Hòn Đất đến Hà Tiên. Đoạn này có núi đá vôi nhô lên thành từng

nhóm, hoặc sát bờ hoặc trên bờ.
Tính từ mũi Vũng Cây Dương trở lên phía Tây Bắc, mới đầu bờ biển phẳng
thấp, đến Hòn Đất lại nhô lên hai ngọn núi là Hòn Đất cao 260 mét và Hòn Me cao
187 mét. Tiếp đó, bờ biển lại bằng phẳng, có bùn cho đến rạch Đùng. Từ rạch Đùng
đến thị trấn Hà Tiên bờ biển trở nên khúc khuỷu, có những mũi đá nhô ra ngoài biển
như hòn Chông, Mũi Nai, không còn bùn nữa, có nhiều bãi tấm tốt.

SVTH: Lê Thị Kim Ngân

Trang 20

MSSV:6106630


×