Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh sóc trăng hiện nay – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 100 trang )

GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
______  ______

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở TỈNH SÓC
TRĂNG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

Giáo viên hướng dẫn :
Ths. GVC: Nguyễn Đại Thắng

Sinh viên thực hiện:
Ngô Thúy Kiều
MSSV: 6106620
LỚP: GDCD 01-K36

Cần Thơ, Tháng 11/2013

SVTH: Ngô Thúy Kiều

MSSV: 6106620



GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

LỜI CẢM ƠN
Được làm luận văn tốt nghiệp, đó là hạnh phúc không chỉ riêng bản thân em, mà
còn là hạnh phúc của gia đình em và người thân. Có thể nói để hoàn thành luận văn
tốt nghiệp này, đó chính là nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều quý thầy cô, gia đình,
người thân, các ban ngành địa phương và bạn cùng lớp.
Con xin cảm ơn cha mẹ đã sinh ra con và nuôi dưỡng, dạy dỗ con trưởng thành,
cho con được học tập như ngày hôm nay. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
toàn thể quý thầy, cô khoa Khoa Học Chính Trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
được làm luận văn. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Đại
Thắng là người trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em trong suốt thời gian làm
luận văn. Cảm ơn các bạn sinh viên sư phạm Giáo Dục Công Dân K36 đã quan tâm,
động viên để tôi có thêm niềm tin và sức mạnh để thực hiện luận văn này.
Sau cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Sở Giáo Dục và Đào tạo, Sở
nội vụ tỉnh Sóc Trăng đã tận tình giúp đỡ em trong việc cung cấp nhiều tài liệu quý
giá để phục vụ luận văn của mình.
Tuy nhiên, với lượng kiến thức và sự hiểu biết ít ỏi của bản thân, nên luận văn
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót; em kính mong được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn

Cần thơ, ngày 20 tháng 11 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Ngô Thúy Kiều


SVTH: Ngô Thúy Kiều

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................3
5. Kết cấu luận văn ........................................................................................................4
NỘI DUNG ...................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI .....................5
1.1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI ...............................5
1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học Phương Đông................................... 6
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây ..................................... 7
1.2. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI .......................................... 13
1.2.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội ...........13
1.2.2 Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội ......... .................................................................................................................15
1.2.3 Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử ............................................. 16
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
CON NGƯỜI .............................................................................................................18
1.3.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người ......................................................18
1.3.2 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người....................................24

1.4 VAI TRÒ CỦA VIỆC PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI ...............................................................30

SVTH: Ngô Thúy Kiều

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

1.4.1 Khái niệm về nguồn lực con người ..................................................................30
1.4.2 Vai trò của việc phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội............................................................................................................ 34
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH SÓC
TRĂNG ..................................................................................................................... 41
2.1. KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
TỈNH SÓC TRĂNG ....................................................................................................41
2.1.1 Vị trí địa lý ......................................................................................................41
2.1.2 Những điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Sóc Trăng ..............................................48
2.2. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH SÓC
TRĂNG.......................................................................................................................51
2.2.1 Những thành tựu đạt được trong việc phát huy nguồn lực con người ở tỉnh Sóc
Trăng......... .................................................................................................................51
2.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân trong việc phát huy nguồn lực con người ở
tỉnh Sóc Trăng ..............................................................................................................63
2.2.3 Những vấn đề cấp thiết cần đặt ra nhằm phát huy nguồn lực con người để
phục vụ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay ...............67

2.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH SÓC
TRĂNG .... ..................................................................................................................72
2.3.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh
giáo dục đào tạo............................................................................................................ 72
2.3.2 Tổ chức và bố trí lại nguồn nhân lực cho phù hợp với trình độ, sở trường và
năng lực chuyên môn.................................................................................................... 77
2.3.3 Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác sức khỏe
nhân dân..................................................................................................................... 79

SVTH: Ngô Thúy Kiều

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

2.3.4 Triển khai và thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội nhằm phát huy hết
nguồn nhân lực con người .............................................................................................80
2.3.5 Phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động khoa học công nghệ
nhằm tạo thêm nguồn nhân lực có trình độ về khoa học công nghệ cho tỉnh nhà............82
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................85
PHỤ LỤC..................................................................................................................... .87
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................94

SVTH: Ngô Thúy Kiều

MSSV: 6106620



GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề con người là một trong những vấn đề lớn mà nhiều nhà triết học
nghiên cứu và đặt biệt quan tâm. Nhiều nhà khoa học có quan niệm về con người
đều khác nhau. Nhưng chỉ có trong triết học mới có nhận thức quan niệm về con
người một cách toàn diện.
Muốn phát triển nền kinh tế của một đất nước thì buộc mỗi quốc gia phải biết
kết hợp nhiều nguồn lực khác nhau: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư
nước ngoài, nguồn lực con người, khoa học – công nghệ, yếu tố khí hậu… Trong đó
nguồn lực con người là quan trọng nhất. Nguồn lực con người có vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế xã hội như Lênin đã chỉ: “ Lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”[12, tr.430].
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới thì năm 2007 nước ta gia nhập
vào WTO đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhiều mặt, đặc biệt là về kinh tế đang
có tốc độ phát triển nhanh so với các nước trong khu vực và Châu Á cũng như thế
giới. Vì thế nước ta cũng khẳng định vị trí quan trọng của mình trên trường quốc tế
và đang ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta đã khẳng
định “ phát huy nguồn lực con người là điều kiện tiên quyết là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững theo hướng xã hội chủ nghĩa”
[1, tr.4].
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của một nước cũng đã
chứng minh rằng một đất nước ngày càng phát triển vững mạnh thì đòi hỏi phải có
nguồn nhân lực dồi dào, một nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ cả về
chuyên môn và tay nghề. Nước ta là một nước nghèo nên vấn đề này rất cần thiết.
Chính vì đều đó trong quá trình lao động Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người

coi con người là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Vì mục tiêu “ dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ”[ 5, tr.85- 86] mà đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định. Chính vì vậy, để đưa nước ta đi lên và

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 1

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

phát triển trong những năm tiếp theo của quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa mà quan trọng nhất nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá của
chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020. Cùng với xu thế đổi mới
của cả nước tỉnh Sóc Trăng là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, nơi được xem là vựa lúa lớn nhất nước, gần trung tâm thương mại của vùng
là thành phố Cần Thơ. Tỉnh Sóc Trăng được chính thức thành lập năm 1992. Vấn đề
phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Sóc Trăng là rất quan trọng đối với tỉnh và khu
vực đồng bằng sông Cửu Long mà trong những năm qua Đảng bộ nhân dân Sóc
Trăng đã không ngừng nổ lực ra sức khai thác các tiềm năng, phát huy lợi thế tranh
thủ các nguồn lực để xây dựng, phát triển và đã đạt được những thành tựu trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhưng nhìn chung so với các tỉnh trong khu vực thì Sóc
Trăng là một tỉnh nghèo cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống giao thông, giáo dục
xuống cấp… chính vì đều đó mà tỉnh vẫn chưa phát triển kịp thời mà nguyên nhân
sâu xa hơn nữa là do nguồn nhân lực còn thiếu, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng
được tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Vì vậy phát triển nguồn lực con

người ở tỉnh Sóc Trăng thực sự trở thành trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội trong những năm tới, Sóc Trăng phải thật sự coi trọng phát triển nguồn lực
con người đặc biệt luôn quan tâm đến giáo dục và đào tạo để năm 2020 đáp ứng nhu
cầu nhân lực của tỉnh và khu vực trong việc phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh và
khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Là một sinh viên sắp ra trường em muốn dùng những kiến thức của mình đã
học qua sự chỉ dạy của thầy cô. Để tìm hiểu thực trạng phát huy nguồn lực con
người của tỉnh nhà – tỉnh Sóc Trăng một cách sâu sắc hơn trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay như thế nào? Để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần phát huy tốt hơn nữa nguồn lực con người của tỉnh nhà để phát triển nền kinh
tế xã hội tỉnh nhà nói riêng và cho cả nước nói chung.
Vì lí do trên nên em chọn đề tài “ Phát huy nguồn lực con người trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay - thực trạng và giải
pháp” để làm luận văn tốt nghiệp.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 2

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là luận văn nghiên cứu vấn đề “ phát huy nguồn lực
con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay ”
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu của đề tài là trong phạm vi địa bàn ở tỉnh

Sóc Trăng hiện nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá đúng thực trạng việc phát huy nguồn lực con người trong sự phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sóc Trăng. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy nguồn lực con người, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh
Sóc Trăng giai đoạn hiện nay
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn lực con người và vai trò nguồn lực
con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Đánh giá đúng thực trạng về việc phát huy nguồn lực con người trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tinh Sóc Trăng
Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực con người trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sóc Trăng giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về phát huy nguồn
lực con người.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó chú ý
các phương pháp: Logic và lịch sử, phân tích tổng hợp, gắn liền lý luận và thực tiễn
để thực hiện nhiệm vụ đề ra.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 3

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng


Luận Văn Tốt Nghiệp

5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 4

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI

Từ trước đến nay, vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng
nhất của thế giới luôn được nghiên cứu và được xem như một “ đề tài cũ nhưng vẫn
luôn luôn mới ”[9, tr. 378] . Với những bí mật của thế giới tự nhiên, xã hội và con
người từng bước được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khám phá, phân tích
một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa
và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc
biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v...Từ rất

sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó.
Chính vì vậy, mà những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong
lịch sử triết học nhân loại. Đó là vấn đề con người, bản tính, bản chất con người.
Mối quan hệ con người và thế giới, con người với giới tự nhiên, con người với con
người. Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do…Đây cũng chính
là nội dung cơ bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành thế giới quan triết
học.
Tùy theo những điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này
hay vấn đề kia. Đồng thời, tùy theo giác ngộ tiếp cận khác nhau mà các trường phái
triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau
trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên,
mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới
quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu
hình... Bên cạnh đó thì mỗi lĩnh vực nghiên cứu vấn đề con người có ý nghĩa riêng
đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 5

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học Phương Đông
Trong quá trình phát triển, các quốc gia ở phương Đông đã hình thành hệ
thống các quan điểm về thế giới tương đối hoàn chỉnh, đã góp phần không nhỏ vào

kho tàng tri thức của nhân loại. Song, với đặc trưng là “ hướng nội ” nên những
quan điểm về con người, về xã hội loài người là những vấn đề được đề cập đến
nhiều hơn cả.
Quan điểm về con người ở phương Đông được hình thành rất sớm và được
thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI tr.CN trong các học thuyết triết học.
Nội dung các quan điểm này rất đa dạng, song những vấn đề mà người phương
Đông tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc nguồn gốc, bản chất của con
người, đạo làm người và mẫu hình con người lý tưởng. Trong tính đa dạng, phong
phú của hệ tư tưởng, trước hết phải nói đến các quan điểm của Ấn Độ và Trung
Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm của triết học Phật giáo và triết học Nho giáo.
Trước tiên là tư tưởng về con người trong nền triết học Trung Hoa, trong
suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là
vấn đề được quan tâm hàng đầu luôn xem con người là đối tượng về mặt bản thể và
lấy con người làm trung tâm mục tiêu nhận thức, đề cao tinh thần nhân văn, khẳng
định giá trị tồn tại tích cực của con người đối với chính bản thân mình và đối với
thế giới bên ngoài. Giải quyết vấn đề này tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp
cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận
bản tính người là thiện ( Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Nho
gia quan niệm con người cũng như vạn vật chịu sự chi phối của mệnh trời, nhưng
con người muốn cải thiện nó phải qua hoạt động tu dưỡng mình trong cuộc sống.
Hiểu mệnh trời, sống theo mệnh trời và tự tu dưỡng mình là đạo làm người.
Quan điểm về đạo làm người được Nho gia thể hiện qua thuyết chính danh.
Theo thuyết này tương ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệ thống những
yêu cầu mà con người thực hiện. Những yêu cầu chung nhất và cũng là những yêu

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 6

MSSV: 6106620



GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

cầu cơ bản nhất của danh “ người ” ( nhân ) là ngũ thường, gồm : nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín; trong đó nhân là gốc và lễ là phương tiện để thực hiện và thể hiện nhân.Triết
học cổ đại Trung Quốc đã tạo ra những giá trị và những ảnh hưởng không thống
nhất. Nó còn đặt cơ sở tư tưởng cho những giá trị và những ảnh hưởng không thống
nhất, ngoài ra nó là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo ra các hệ tư tưởng
thống trị phong kiến nói riêng và ý thức xã hội phong kiến nói chung.
Khác với triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học
Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác ngộ khác, giác ngộ
suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình ( Siêu hình học)
đối với vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính
hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những
kết thúc độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết triết học phương
Đông thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang đậm tính duy tâm. Về cơ bản, các
học thuyết đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống,
song nội dung các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức, quan điểm về bản tính con
người, đạo làm người và mẫu hình con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư
tưởng giống nhau, khác nhau và thậm chí đối lập nhau. Tất cả những tư tưởng này
đều tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng mà trên đó các thế hệ sau
tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan điểm của mình.
1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua thời
cổ đại, thời trung cổ, thời Phục hưng và cận đại, thời hiện đại với hai khuynh hướng
duy vật và duy tâm.

Tư tưởng về con người trong triết học thời cổ đại
Quan điểm về con người ở phương Tây cổ đại là những tư tưởng của người
Hy Lạp. Ở Hy Lạp, các nhà duy vật đầu tiên là các nhà triết học tự nhiên đã coi con
người như một bộ phận cấu thành của thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 7

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

một hay một số chất tạo nên, các nhà duy vật thời kỳ này cũng quan niệm con người
được bắt nguồn từ một hay một số chất đó. Theo Talét, chất đó là nước ; Anaximen:
không khí; Hêraclít: lửa; Xênôphan: đất và nước; v.v…Tiêu biểu cho quan điểm
duy vật thời kỳ này là quan điểm của Empêđôclơ và của Lơxíp, Đêmôcrít.
Empêđôclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, không khí, đất và nước.
Những yếu tố này hòa hợp với nhau, trải qua bốn thời kỳ tiến hóa đã sinh ra sự
sống. Mọi sự sống đều có lý tính cao nhất, thông minh nhất và đặc biệt con người
có đôi tay để thực hiện lý tính của mình. Còn Lơxíp và Đêmôcrít quan niệm bản
nguyên của thế giới là nguyên tử nên các ông cũng khẳng định con người là sản
phẩm của sự kết hợp các nguyên tử. Con người có linh hồn, song linh hồn cũng do
các nguyên tử tạo nên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng
đã dạy bảo bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội đến văn
minh. Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo chủ
nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực lượng

siêu tự nhiên. Tiêu biểu là Xôcrát và platôn
Theo ông Xôcrát, thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Con
người không nên tìm hiểu về thế giới vì như thế là xúc phạm thần. Con người hãy
tìm hiểu về chính bản thân mình. Platôn cho rằng ý niệm có trước tất cả, là nguồn
gốc của tất cả. Ý niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai thành phần
độc lập với nhau là thể xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa,
không khí nên có thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với
thế giới ý niệm của mình để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào một thể xác
mới tạo ra một người mới. Nhận thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà
ý niệm đã có.
Theo Platôn, linh hồn bất tử gồm lý tính, lý trí và tình cảm. Tương ứng với
ba bộ phận này là ba đẳng cấp người: các nhà triết học và các nhà cầm quyền – binh
sĩ - dân tự do. Nô lệ không phải là người mà chỉ là những công cụ biết nói nên
không có linh hồn.
Tư tưởng về con người trong triết học Tây Âu thời trung cổ

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 8

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

Thời trung cổ là thời hệ tư tưởng Cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị nên quan
điểm về vai trò toàn năng của Chúa Trời cũng giữ vai trò thống trị. Tiêu biểu cho tư
tưởng ở thời kỳ này là quan điểm của Tômát Đacanh. Tômát Đacanh quan niệm thế

giới do Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và con người là hình ảnh của Chúa, được
Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ. Con người có thể xác và linh hồn bất tử. Linh hồn
này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra thể xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo
một trật tự từ các sự vật không có linh hồn đến con người, thần thánh và cao nhất là
Chúa. Đây là trật tự chặt chẽ, bất biến. Trong cái trật tự đó, con người lại được
Chúa chia thành những đẳng cấp nhất định mà bất cứ một biểu hiện nào muốn vượt
lên đẳng cấp cao hơn đều mang tội với Chúa.
Quan niệm về con người nói riêng và triết học của Tômát Đacanh nói chung
được Giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ tư tưởng duy nhất đúng và được Giáo hội
sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống của mình. Có thể nói rằng, con người trong
triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết tính tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình
ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới
quyền lực vô biên của Đấng Sáng tạo. Hệ tư tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý chí
muốn vươn lên tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời
cổ đại đã đề cập đến.
Tư tưởng về con người trong triết học thời Phục hưng cận đại
Tư tưởng về con người thời kỳ này có những bước phát triển nhất định, còn
quan niệm về con người thì có những khởi sắc theo hướng tiến bộ và xem con
người là “ thước đo tất thảy mọi vật ”. Các nhà triết học duy tâm và thần học từ thời
Phục hưng trở đi vẫn bắt nguồn từ ý niệm, tinh thần tuyệt đối, cái tôi, v.v. để xây
dựng quan điểm của mình đối lập với quan điểm duy tâm và thần học, những giá trị
văn hóa bị vùi dập hàng nghìn năm bắt đầu được khôi phục và phát triển trong các
học thuyết triết học duy vật.
Ở Italia, tư tưởng “ con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, hãy chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của chính mình” và đã dấy lên thành khẩu hiệu; thuật ngữ “ nhân
đạo ” ra đời từ thời cổ đại trở thành phạm trù trung tâm của triết học; khuynh hướng

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 9


MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

đề cao vai trò của trí tuệ, tự do, bình đẳng thể hiện rõ nét trong quan điểm của
Brunô, Galilê, Tômát Morơ, Tômađô Campanenla
Nét nổi bật trong triết học thời Phục hưng và cận đại là sự phủ nhận quyền
lực của Đấng Sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lý trí, đề
cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người. Triết học thời Phục hưng và cận đại
không chỉ ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học sau này mà còn ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc cách mạng nổ ra ở Tây Âu và trên toàn thế giới.
Ở Anh tiêu biểu là Phraxit Bêcơn ( 1561- 1626 ) coi thể xác con người là sản
phẩm của tự nhiên, là thực thể vật chất, còn tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong
óc người vận động theo thần kinh và mạch máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem
lại cho con người sức mạnh tiềm tàng là tri thức. Hốpxơ gọi con người là “ vật thể
tự nhiên ” lực lượng đã làm ra “ vật thể nhân tạo ” là xã hội.
Ở Pháp, Rútxô quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân loại
không tuân theo ý muốn của bất kỳ thế lực nào mà là kết quả hoạt động của con
người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao nhất trong quá trình
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là sản phẩm của hoàn cảnh
xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri thức khoa học.
Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng, giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại theo
chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có nhiệm vụ chính
là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên, làm theo giới tự nhiên và
làm theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp v.v.
Tư tưởng về con người trong triết học cổ điển Đức

Trong triết học cổ điển Đức có một đặc điểm nổi bật là đã đề cao vai trò tích
cực của con người, con người được hiện diện như là chủ thể đồng thời là sản phẩm
hoạt động của chính mình.
Theo Hêghen (1770-1831) trong hệ thống triết học của mình, Hêghen coi ý
niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền tảng. Quan điểm của ông ý niệm tuyệt đối
là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 10

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

xã hội. Mọi sự vật hiện tượng xung quanh chúng ta chỉ là sản phẩm, là kết quả của
sự sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, con người là sản phẩm và là giai
đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới của con người chính là công cụ để tinh thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân
mình.
Theo PhơBách ( 1804-1872 ) ông coi con người là đối tượng cao nhất của
triết học vì vậy chủ nghĩa duy vật của ông được coi là chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Trong quá trình đi sâu nghiên cứu con người ông chỉ cho rằng con người có hai
nguồn gốc: con người vừa có nguồn gốc tự nhiên vừa có nguồn gốc xã hội.
PhơBách quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, là cái gương của vũ
trụ và là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Thông qua đó giới tự nhiên ý thức
và nhận thức chính bản thân mình. Đó là những con người bằng thịt đang sống và

làm việc, là chính bản thân của chúng ta. Bản chất con người là tổng thể những khát
vọng, khả năng, nhu cầu và cả khả năng tưởng tượng. Ông đã tầm thường hóa quy
thành mối quan hệ giao tiếp thông thường giữa mọi người trong xã hội và ông đề
cập đến con người với tính cách cá thể. PhơBách không nhận thấy bản thân xã hội
của con người, không coi trọng một thực tế là mỗi người tuy là cá thể nhưng lại sinh
ra trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, thuộc một giai cấp hoặc tầng lớp xã hội,
một dân tộc và một thời đại nhất định. Vì vậy, theo nhận xét của Ăngghen, con
người Phơbách là con người phi lịch sử, phi giai cấp v.v…Cho nên con người trong
triết học của ông vẫn là con người trừu tượng.
Theo Can - Tơ (1724- 1804) xuất phát từ quan niệm cho rằng triết học phải
đem lại cho con người một cơ sở thế giới quan mới, phải vạch ra được các nguyên
tắc cơ bản của cuộc sống con người, ông cho rằng nhiệm vụ của triết học là phải xác
định cho được bản chất của con người, phải giải quyết những vấn đề mà cuộc sống
con người đặt trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Ông cho rằng quyền tư hữu gắn liền
với bản chất con người, nó mang tính tự nhiên, là thiêng liêng nhất và bất khả xâm
phạm.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 11

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

Nhìn chung các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mácxít còn có một
hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học

về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu
tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân
sinh xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện
chứng của triết học Mác- Lênin về con người
Tư tưởng về con người trong triết học thời hiện đại
Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua các
quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
phê phán, hiện tượng học, chú giải học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc,
v.v…Tư tưởng của những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lý
tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò trọng yếu.
Theo trào lưu này thì hoặc bản năng tính dục là cơ sở quan trọng nhất cho
mọi hành động con người ( quan điểm của phân tâm học ); hoặc chỉ có “ nhân vị ”
mới là bản thể chân thực nhất vì nhờ có quan hệ với “ nhân vị ” mà phần thế giới
còn lại mới có ý nghĩa ( quan điểm của chủ nghĩa nhân vị ); hoặc chỉ có cá nhân con
người mới hiểu được sự tồn tại của mình nên chỉ có cá nhân mới “ hiện sinh ”, con
người cần thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội, của những cá nhân khác để thể hiện
giá trị hiện sinh của mình ( quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh ); v.v.. Nhìn chung,
các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính cũng như những học
thuyết khác ở phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu cầu
bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm, v.v. là bản chất của con người. Con người
thường được tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,
cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội thường được đề cập ở góc độ hoài nghi,
bi quan, bế tắc,v.v.. Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị
của con người trong xã hội phương Tây hiện đại.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 12


MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

1.2. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC VỀ CON NGƯỜI
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt
xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành
tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học
Mác khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa
là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là thực thể thống
nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội - là thực thể sinh vật - xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính
loài. Vì con người cho dù phát triển đến đâu cũng là một động vật. Ph.Ăngghen
khẳng định: “ Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính
vốn có của con vật ” [22, tr.146] . Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu
tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “ thân thể vô cơ của
con người…đời sống thể xác và đời sống tinh thần của con người gắn liền với giới
tự nhiên ” [21,tr. 135], nhưng con người khác với động vật vì con người là một thực
thể xã hội. Con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát
triển và tiến hóa lâu dài
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước
uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, với thú dữ

để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành
người, điều đó đã chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các
giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến
mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là
tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 13

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

tính, những đặc điểm sinh học, quá trình ( tâm - sinh lý ) các giai đoạn phát triển
khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là mặt xã hội. Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước
hết và quan trọng nhất là hoạt động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con
người với đúng nghĩa của nó. “ Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động
mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật ” [18, tr.673]. Theo Mác, “ xã hội suy
cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại của những con người ” [20, tr.657].
Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu hiện và là khẳng định của xã hội
[21, tr.171]. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người
với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động. Là “ một động

vật có tính xã hội ”, hoặc con người động vật có tư duy. Những quan niệm nêu trên
đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của
con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
nêu lên vai trò lao động sản xuất của con người: “ Có thể phân biệt con người với
súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản
thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể
của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con
người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình ” [19, tr.29]
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên : “ Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên ”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 14

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy; xác

lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá.. quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý - ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội
giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh
học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản suất xã hội;
nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mĩ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi
con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn
mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh
học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó,
nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên
thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con
người tự nhiên - xã hội.
1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt
lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan

SVTH: Ngô Thúy Kiều


trang 15

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy
đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc : Bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện
lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ
chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ
bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là
phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh
sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và
đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy
được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ

biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất. Do đó cần phải thấy
được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong
cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội .
1.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử, với tư cách là sản
phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là:

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 16

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và
giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn
cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục ”. Lịch sử, hiểu theo
nghĩa rộng là những quá trình đang xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và
biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Như vậy con người có lịch sử và động vật cũng
có lịch sử. Song lịch sử của con người và lịch sử của động vật khác nhau. Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một
lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do

ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp
của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một
cách có ý thức bấy nhiêu ”. Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động có ý thức của chính
bản thân con người.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên.
Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú
thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn
tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật
chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không
tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài
người.

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 17

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp


Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Con người là thực thể sinh vật - xã hội và là chủ thể của lịch sử, C.Mác khẳng
định: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội ” [19, tr.11]. Quan điểm của C.Mác cho thấy rằng bản chất con người hình
thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đó là những con người cụ thể, sống
trong những điều kiện cụ thể mà ở đó có những mặt khác nhau tạo nên bản chất của
con người sẽ được bộc lộ ở những mức độ cụ thể…Con người luôn có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất
con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động
và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự
vận động và biến đổi của bản chất con người
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử
xã hội loài người.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
CON NGƯỜI

1.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây


SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 18

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc
lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề
con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt
trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được
toả sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất
nước bị xâm lược Người luôn lo lắng, trăn trở và suy nghĩ làm sao để giải phóng
dân tộc mình thoát khỏi xiềng xích nô lệ “ một cổ hai chồng ” và giành được nền
độc lập cho dân tộc. Người có mong ước nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Khi đất nước ta được độc lập thì Người đã khẳng định trong
bản tuyên ngôn độc lập: “ Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc ”. Người còn khẳng
định trước toàn thể với nhân dân thế giới rằng : “ Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy ”. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân, đó là
tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu
tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó

cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, thì con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: “ Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước.
Rộng nữa là cả loài người ”[11, tr.535]. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa
bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính
sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan
tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi
ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì
nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 19

MSSV: 6106620


GVHD:Ths.GVC Nguyễn Đại Thắng

Luận Văn Tốt Nghiệp

tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách
nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “ Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là “ giày xéo lên lợi ích cá nhân ”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình ”. Trong quan điểm
về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân
chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể
phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp

luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn
thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản
thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ
thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng
cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ
bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những “ người nô lệ mất nước ” và
“người cùng khổ ”. Tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất “ phải biết quý
trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta phải hết lòng chăm sóc và sử dụng
một cách hợp lý sức lao động của nhân dân ta ”[14, tr.313-314], nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp cách mạng con người được khái niệm vừa là mục tiêu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt
để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc Người nhấn
mạnh cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến,
đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói:
“Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi ”. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu

SVTH: Ngô Thúy Kiều

trang 20

MSSV: 6106620



×