Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY LƯỠNG HÀ VÀ BA TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.11 MB, 16 trang )

LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

3

Chương 3

KIẾN TRÚC TÂY Á – LƯỢNG HÀ CỔ ĐẠI
(3000 – 300 Tr. CN)
I. ẢNH HƯỞNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI:
1. ĐIẠ LÝ:
Nằm giữa 2 sông Tigris và Euphrates.



Ngày xưa 2 sông này có cửa ra biển riêng, sau đất bồi liền thành một cửa, đất đai phì nhiêu, nhiều
kênh rạch, nông nghiệp và chăn nuôi phát triển. Hoàn cảnh thuận lợi trên đã tạo điều kiện nảy nở
một nền văn minh rực rỡ, thuộc loại sớm nhất trên thế giới.
Vùng đất trên còn gọi là Mesopotamia, nghóa là vùng đất nằm giữa 2 con sông “Lưỡng Hà”, ngày
nay thuộc đòa phận nước Irak.
Hai con sông này còn là con đường giao lưu thuận lợi giữa vùng Hắc Hải và Vònh Ba Tư.


Đòa hình: ít núi non hiểm trở, không biên giới tự nhiên giao thông thuận lợi. Các bộ tộc xung
quanh nhòm ngó, dễ bò xâm lăng, chiến tranh xảy ra liên miên, đồng hóa văn minh các dân tộc,
khiến cho kiến trúc luôn thay đổi.

2. KHÍ HẬU:
Hè nắng cháy tại phương Nam, mùa Đônglạnh đặc biệt tại phương Bắc.





Ít mưa (trừ vùng nhô ra ở phía Bắc), hay hạn hán nhưng do nhiều kênh, sông thủy lợi nên ít
bò thiệt hại.

3. ĐỊA CHẤT:




Vùng đồng bằng: chủ yếu là đất sét. Thuận lợi cho việc sản xuất gạch, gồm có gạch sống
và gạch nung, ngoài ra có gạch men sứ rất tốt. Đất sét còn cho hình thức vách đất trộn rơm phát
triển mạnh.
Vùng núi: cho đá xây dựng, nhưng ở xa nên vận chuyển khó khăn, vì vậy hiếm đá xây
dựng.



Vùng sông: cho đá cuội xây dựng.



Rừng gỗ: khá hiếm, gỗ tốt phải nhập từ Liban.



Vật liệu kết dính: hồ vôi và Bitum.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY


4
4. LỊCH SỬ VÀ DÂN CƯ:

Nhìn chung vùng đất Tây Á, Lưỡng Hà, Ai Cập, tức vùng Trung cận Đông ngày nay, xưa là nơi giao lưu
của nhiều chủng tộc:
+ Tộc Hamite sinh ra người Ai Cập.
+ Tộc Semite có nhiều nhánh:
• Người Akkad ở phía Bắc Lưỡng Hà.
• Người Amorite ở phía Trung.
• Người Phenecia ở phía Tây.
• Người Hebrew (Do Thái) ở phía Tây.
• Người Assyria ở phía Bắc.
• Người Chaldeé ở phía Nam.
• Người Elam ở phía Đông.+
Tộc Sumer: từ vùng núi Altai (Trung Á) chuyển xuống, có nguồn
gốc Châu Á, không xác đònh rõ được chủng tộc, giống người Mông Cổ, khác hẳn người Semite
nhưng chính tộc này đã đặt nền móng đầu tiên cho nền văn hóa Lưỡng Hà từ khoảng 4000 tr.
CN. Dân Sumer chăn nuôi, làm ruộng, phát minh sớm đồ đồng, đồ gốm tinh xảo, dệt vải, làm
thủy lợi tốt.
Dân Sumer cũng xây đắp thành thò vào loại sớm nhất (việc thành thò xuất hiện đánh dấu sự tan rã
của chế độ thò tộc). Quan trọng nhất là các thành Ur, Eridu, Lagash, Kish, Surrupak, Uruk, Nippour.
Lòch sử Lõng Hà chia làm 4 thời kỳ chính:
a) Thời kỳ Babylon (3000 – 1250 tr. CN)
• Sargon I thuộc người Akkad ở phía Bắc đã thống nhất quốc gia với vương quốc Uruk của
người Sumer phía Nam, dựng vương quốc lớn đầu tiên trong lòch sử, tiếp thu văn hóa Sumer.
Nhưng qua nhiều thăng trầm, cuối cùng đế quốc Ur của người Sumer trở lại thống trò
• Lúc người Sumer suy thì người Amorite xâm nhập, lật đổ đế quốc Ur, khống chế toàn vùng
Lưỡng Hà, lấy Babylon làm thủ đô. Cư dân gồm: Sumer, Akkad, Elam, Amorite đều gọi là
dân Lưỡng Hà. Hưng thònh nhất là thời vua Hammurabi (1782 – 1750 Tr.CN), Babylon thành
trung tâm của phương Đông cổ đại. 1740 Hammurabi mất, dân Babylon suy vong.

b) Thời kỳ Đế quốc Assyria ( 1250 – 612 Tr.CN)
Đế quốc Assyria dựng thành Assur ở phía Bắc, đánh bại Babylon (732 tr.CN), dựng các triều
vua Ninurta I và II. Đến triều vua Ashurnasipal II dời đô về Nimroud (Calah) xây nhiều cung điện,
phát triển kiến trúc và nghệ thuật:
• Vua Sargon II hiếu chiến và tàn bạo nhất, đánh thắng Ai Cập, Bắc Ba Tư xây thành
Khorsabad nổi tiếng với cung điện của mình.
• Vua Sennacherib bình đònh trong nước, xây cung điện tại Nimroud và Niveneh
• Năm 612 Tr. CN: Người Medes chiếm phía Bắc, người Chaldeé chiếm phía Nam, xây dựng
vương quốc Chaldeé tức đế quốc Tân Babylon
c) Thời kỳ Tân Babylon: (Chaldeé) 612 – 539 Tr. CN.
Có thể coi vương quốc Babylon trước kia đã phục hồi lại với triều vua đầu tiên là Nabopolassar,
nhưng nổi tiếng nhất là Nabuchodonosor, đã đánh chiếm Syria, Palestine, 2 lần công hãm
Jerusalem, diệt vương quốc Do Thái, bắt quý tộc tăng lữ, thương nhân về giam tại Babylon:
“Nhà tù Babylon” là sự kiện lòch sử mà người Do Thái thường nhắc đến như một mối hận rất
lớn
(597 – 538 Tr.CN), để kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi.
Năm 539 Tr.CN vương quốc Tân Babylon với vua Nabonnides bò vua Ba Tư là Cyrus đánh đổ, xã
hội Babylon thối nát, không còn ai chống cự quân Ba Tư.
d) Thời kỳ Ba Tư (539 – 331 Tr. CN).
Cyrus đại đế của Ba Tư đánh thẳng đến Hy Lạp, Tiểu Á, lập vương triều Achaemenian, bắt đầu
thời kỳ Ba Tư, tha cho dân Do Thái về. Cyrus lấy thủ dô Susa của người Elam, xây đông đô là
Persepolis.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

5

Darius đại đế đánh phá Hy Lạp, Tiểu Á của người Achean (gốc Hy lạp) phá cả đền Ioni.
Vua Ba Tư Xerxes (486 – 465 Tr.CN) thua trận hải chiến tại Salamis và trận Plataca với Hy Lạp

Năm 331 Tr. CN. Alessandros đại đế (Alexander vua Macedonia) đánh tan Darius III, vương triều
Ba Tư Achaemenian bò tiêu diệt và bò Macedonia cai trò. Sau khi đế quốc Macedonia tan rã, Ba
Tư rơi vào tay các thế lực Hồi giáo.
Tóm lại: Vùng Lưỡng Hà cổ đại có 3 nền văn minh:
• Assyria (1250 – 612 Tr. CN).
• Babylon cũ và mới (3000 – 1250 Tr.CN và 612 – 539 Tr.CN).
• Ba Tư (539 – 331 Tr.CN).

NGHỆ THUẬT LƯỢNG HÀ PHẢN ẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG THỚI DO GIỚI QUÂN PHIỆT THỐNG TRỊ

. XÃ HỘI:
Nhìn chung dân cư Lưỡng Hà có nhiều tài năng, dự đoán thời tiết giỏi, kỹ thuật đo đạc tốt, không tin sâu
sắc vào tôn giáo như Ai Cập.
+ Giai cấp:


Nông dân công xã: là thành phần đông đảo nhất. Công xã nông thôn tồn tại do yêu cầu
hợp tác lao động để chống chọi với thiên nhiên.



Nô lệ: gồm chiến tù, có thể mua được với giả rẻ( bằng thuê 1 con bò).



Quý tộc quân phiệt: do hoàn cảnh chiến tranh liên miên đã cầm quyền trong xã hội.



Vua: là chỉ huy tối cao, thay mặt thần để trò dân. Một tấm bia cổ tại Susa cho thấy hình

Hamurabi đang đón nhận lời phán bảo thiêng liêng từ thần Mặt trời và Công lý là thần Marduk.

+ Đặc tính xã hội:


Là đế quốc quân phiệt nhưng chỉ là tổ chức liên minh quân sự hành chánh qui mô lớn của
các cấp bộ tộc, không có cơ sở kinh tế vững chắc, dễ hợp thành và dễ tan rã.



Khá phồn vinh do của công nạp đầy kho, vua chúa bóc lột hà khắc. Thường có các cuộc nổi
dậy nhưng bò đàn áp rất tàn bạo. Giai cấp cầm quyền xây dựng nhiều thành lũy và cung điện


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

6

phòng thủ đối nội, đối ngoại. Thành lũy kiểu Lưỡng Hà là mẫu mực cho kiến trúc phòng thủ nhiều
đời sau, nhất là thời kỳ Trung cổ châu Âu.
6. TÔN GIÁO:



Không tin sâu sắc vào tôn giáo như Ai Cập.
Phát triển thờ cúng do bò hạn hán nhiều. Do các tai họa thường từ trên cao xuống, nên đã
quan niệm thần linh là ở trên cao. Vì vậy, dân Lưỡng Hà đã xây các đền đài trên vùng đất cao.

II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC:
1. KIẾN TẠO:



Dùng tường dày để chòu lực và cách nhiệt.



Xây tường gạch sống, dùng gạch nung ốp bên ngoài.



Do nền yếu:
− Dùng móng bè nhưng không đào sâu. Các công trình lớn thường dùng tấm đan (dalle) đá vôi
chôn vào chân tường.
− Không dùng được nhiều cột (còn có lý do nữa là do thiếu đá).



Đã biết xây vòm, xây bố trụ… để khắc phục nạn thiếu gỗ. Tuy nhiên, kỹ thuật xây vòm còn
yếu, chủ yếu là vòm nôi.

Với các lý do trên, không gian hẹp, dài và không lớn

TRANH ỐP GẠCH MEN MÀU

VÒM NÔI

XÂY CUỐN LÀM CỐNG NƯỚC

2. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC:


Loại hình cung điện, đền đài nổi bật hơn lăng mộ (do ít tin vào kiếp sống sau này). Đền đài
còn là trung tâm sinh hoạt công cộng.

Hay sử dụng những đền tháp: Ziggurat hay những “núi thiêng” trên có đền thờ.

Không gian hẹp (đã giải thích ở trên).

Phân vò:
− Các mảng lớn theo chiều ngang được cắt bởi các rãnh theo chiều đứng tạo bóng đổ, tạo sắc độ,
sáng tối.
− Tận cùng phía trên có gờ kết thúc tạo bóng

Trang trí:
− Sử dụng sức biểu hiện cả bên trong lẫn bên ngoài (khác Ai Cập).
− Bên ngoài nhà: ốp gạch nung tạo bóng ngang dọc, có khi dùng sơn.
− Bên trong nhà: sơn màu phù điêu (các phù điêu hình người thường cứng đơ trong lớp y phục do
chưa nắm vững giải phẫu. Tượng tròn chưa thật tốt nhưng cũng khá hay.
− Sử dụng tượng tròn súc vật, tiêu biểu là tượng sư tử đầu người có 5 chân để có thể cho dáng
sinh động khi nhìn từ phía trước cũng như phía bên.
+ Cửa sổ ít và trên cao. Thường sử dụng cửa sổ cuốn đôi.
+ Vò trí xây dựng công trình: thường xây dựng trên nền cao (tự nhiên hay đắp).
.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

7

CÁCH PHÂN VỊ CỦA MẶT TƯỜNG GẠCH LƯỢNG HÀ CÓ NGUỒN GỐ`C TỨ KẾT CẤU LAU SẬY TRÁT BÙN


III. CÁC HÌNH LOẠI KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU:
1. CUNG ĐIỆN LƯỢNG HÀ:
Đặc điểm chung:


Cung điện lớn nhỏ đều xây bằng gạch, đá dành để ốp các bức tường dày.



Không gian phòng hẹp và dài.



Mái lợp bằng gạch không nung.



Mặt bằng gồm các khối nhà hình chữ nhật (vuông cạnh) liên hệ với nhau, xen kẽ là các
sân trong.



Nền được tôn cao để tránh ẩm ướt.



Hướng đòa dư nằm về bốn gốc.




Cung điện thường xây vắt qua thành để đối phó với bên trong và bên ngoài.



Thành phần một cung điện gồm:
+ Phần triều kiến, ngai vua.
+ Nơi vua ở và hậu cung.
+ Phần phụ thuộc: Nơi ở của người phục vụ, kho tàng và lính ngự lâm.

KIẾN TRÚC CUNG ĐIỆN TIÊU BIỂU:
+ Cung điện SARGON II (722 – 705 Tr.CN) xây tại thành Khorsabad, còn gọi là Dur Saroukin do Boha
và Place tìm ra.


Diện tích 10 ha. Kích thước (303 – 305) x 234m. Nền cao 14m, có 300 phòng, 30 sân. Có
3 sân trong lớn và một tháp Ziggurat.



Mặt chính: cửa vào lớn hùng vó với các đặc điểm tiêu biểu trong cách phân vò (xem phần
đặc điểm kiến trúc), đỉnh tường kiểu răng cưa để chiến đấu. Có tượng sư tử đầu người và nơi cắm
cờ.


Cổng

Thành phần gồm:
Ngự lâm
quân


Hành chánh
cai trò

Triều
kiến

Hậu cung
tâm cung
Tháp
Ziggurat

Nội cung

Trại lính
kho


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

8

CUNG SARGON II TRONG THÀNH KHORSABAD, KHÔNG HẸP VÀ DÀI XEN LẪN LÀ CÁC SÂN TRONG

CUNG SARGON II XÂY VẮT QUA THÀNH ĐỂ CÓ THỂ VỪA CHỐNG THÙ TRONG VỪA CHỐNG GIẶC NGOÀI

+

Cung GOUDEA tại Lagash (Sipourra) 2340 Tr. CN
Kích thước 50 x 53m. Xây trên nền cao 12 – 13m, có 3 sân nội với sân lớn nhất 357m 2, có phòng lớn
3,65 x 12m


+

Thành BABYLON (605 – 563 Tr.CN)
Có nền móng từ trước (2350 – 2150 Tr.CN), thònh nhất vào thời của Hammurabi. Năm 689 bò vua
Assyria là Sennacherib đốt trụi. Hưng thònh trở lại vào thời Tân Babylon (652 Tr.CN) và nhất là thời
Nabuchodonosor (604 – 501 Tr.CN). Sau khi Alessandros đại đế của Macedon mất năm 323 (Tr. CN),
Babylon trở lại hoang tàn.
Thành Babylon mặt bằng hình chữ nhật. Cạnh Bắc có cửa Ishtar trang trí lộng lẫy như thảm. Cạnh Tây
có 2 cửa Marduk và Ninurta. Toàn thành có 9 cửa. Đường rước lễ rộng 7,5m chạy thẳng từ Bắc xuống
Nam xuyên qua các khu chính quan trọng. Bên cạnh sân thứ 3 ở giữa lớn nhất là phòng tiếp đãi của
nhà vua khá lớn xây bằng cuốn gạch, trên tường có tranh hoành tráng ốp gạch lưu ly với hình thức
động thực vật.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

MẶT BẰNG THÀNH BABYLON

9

CỔNG ISHTAR

Ngoài ra trong thành còn có một tháp Zigourat còn gọi là tháp Babel, các đền thờ Marduk, đền Ishtar,
đền Nihurta, đền Goudea, cùng một kỳ quan là vườn treo nổi tiếng.

THÀNH BABYLON

+


ĐẠI LỘ TẠI BABYLON

Vườn treo tại BABYLON:
Là một trong 7 kỳ quan cổ đại, do Nabuchodonosor tặng vợ là công chúa con vua Medes vốn ở xứ
thiên nhiên phong phú để công chúa nguôi nỗi nhớ nhà.
Vườn đặt cạnh sông Euphrates, qui mô và hình thức chế ngự toàn thành. Theo nhiều giả thuyếtû và một
số di tích ta có thể đoán hình thức vườn treo này theo một giải pháp như sau:


Chân đế hình vuông 246m x 246m.



Hiên thứ nhất: 243m x 243m có mạng lưới cột 25 x 25 cái.



Hiên thứ hai giật cấp vào với mạng lưới cột 21 x 21 cột.



Hiên thứ ba: 17 x 17 cột.



Hiên trên cùng: 123m x 123m với lưới cột 13 x 13 cột.
Nhưng vưòn không giật cấp đối xứng theo kiểu Kim tự tháp mà bố cục giật cấp không đều:
+ 2 cạnh lui vào mỗi bên 2 cột.
+ cạnh thẳng đứng.
+ 1 cạnh lui vào 4 cột.

Nền cao 14,5m, chiều cao vườn là 77m, chia làm 5 bậc bằng nhau, một bậc khoảng 15m. Tường đỡ
xây vững chắc dày 6,8m bước là 3,08m. Sàn lát dalle đá 4,95 x 1,23m, sau đó phủ lên một lớp lau
sậy trộn Bitum và gạch nung trám Bitum chống nước thấm, sau là lớp đất đủ dày đểtrồng các cây cổ
thụ các loại.
Để tưới vườn có hệ thống máy bơm thủy lực, có một giếng hình vuông và 2 giếng hình oval, một số
cột rỗng để bơm nước lên. Máy bơm hoạt động bằng sức người đặt dọc tầng hiên cao nhất.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

10

+

Tháp BABEL tại Babylon (xem thêm phần công trình tôn giáo):
Hiện nay vẫn còn dấu tích của tháp: mặt đế khoảng 100m x 100m, gồm 7 tầng, mặt đền trên đỉnh
ốp gạch lưu ly xanh. Tầng dưới đồ sộ có thang dốc lên, các tầng trên xoắn ốc theo kiểu Assyria

+

Cung Esarshapdon (680 – 669) và Ashurnasipal II (883 – 859B.C) tại Nimroud.

2. THÀNH TRÌ LƯỢNG HÀ:
Thành trì Lưỡng Hà, trong một bối cảnh có chiến tranh liên miên đã phát triển cao và trở nên mẫu
mực cho thời Trung cổ tại châu Âu.
Tiêu biểu là:
Citadel (thành trì) Sinjerli thế kỷ VIII Tr.CN. Bên cạnh các thành trì như Babylon, Khorsabad, thành
Sinjerli không phải là một ví dụ Lưỡng Hà chính thống mà thuộc nền kiến trúc Assyria (Tây Á) có
những đặc điểm họ hàng tương tự.
Thành Sinjerli nằm tại trung tâm một thành phố Tây Á trên một đồi cao. Thành có mặt bằng hình

oval, được chia ra thành nhiều vùng phòng thủ bởi các bức thành ngăn, bảo vệ các lối dẫn tới cung hạ
và cung thượng. Về phía Đông Nam là khu nhà doanh trại.
Công trình được cấu tạo bởi khung sườn gỗ, tường gạch phơi nắng, móng đá cuội.

3. KIẾN TRÚC TÔN GIÁO:
Chủ yếu bao gồm các đền thờ, tiêu biểu nhất là các Ziggurat – tức các “Núi thiêng” phía trên có đặt
đền thờ, ngoài ra tại chân “núi” còn có thể có đền Hạ.
a) Kiến trúc Ziggurat:
Theo thời gian, Ziggurat có sự tiến hóa của mình:


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

11

• Thời kỳ đầu (Achaic) 3500 – 3000 Tr.CN: Ziggurat chỉ có 1 bậc nền, phía trên có đền thờ,
vách bậc có phân vò thành sọc đổ bóng.
Công trình tiêu biểu của thời kỳ này là đền thờ Trắng tại Warka thuộc nền văn hóa Uruk, thời kỳ
Achaic (3500 – 3000 Tr.CN). Ziggurat chỉ gồm 1 bậc cao 14m. Mặt bậc nghiêng và có sọc đổ
bóng trừ phía Đông Nam. Trên cùng là đền thờ có gian thờ kéo dài suốt ngôi đền dài 5m, xung
quanh là các phòng nhỏ, giữa là bàn tế bằng gạch. Cửa chính vào đền thờ bố trí trên cạnh dài
của đền một cách phi đối xứng. Công trình được quét vôi trắng.
Đã có nhiều đền sớm hơn thuộc loại này, có thể coi như đặt trên một nền chứ chưa hẳn là một
Ziggurat.
• Thời kỳ cuối thiên niên kỷ thứ 3:
Ziggurat đã có 2 hay nhiều bậc, mặt bằng hình chữ nhật. Cầu thang đặt tại cạnh dài hơn và có
3 vế, 2 vế dựa theo cạnh, 1 vế thẳng theo trục, gặp nhau tại một chiều.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY


12

Công trình tiêu biểu: Ziggurat Urnammu xây vào thời vương triều thứ 3 (2125 – 2025 Tr.CN)
được xây phần ruột bằng gạch phơi khô, bao bọc bằng gạch nung dày khoảng 2,5m. Kích thước
của đế Ziggurat là 68m x 47m, chiều cao 23m. Phía trên là đền thờ, Ziggurat có phương hướng
góc về phía bốn phương trời.
• Thời kỳ niên kỷ thứ 2:
Ziggurat có mặt bằng vuông, vách đã trở nên thẳng đứng, vẫn có sọc nhưng tỷ lệ các bậc cao
hơn.
Công trình tiêu biểu: Ziggurat tại Tchoga – Zanbil gần Susa – Elam thế kỷ thứ XIII Tr.CN của
vua Untash – Cal, mặt bằng hình vuông, cạnh dài 116m, mỗi bậc lại có một đế riêng, bậc cuối
cùng thấp nhất.
• Thời kỳ Assyria (1250 – 612 Tr.CN)
Ziggurat có mặt bằng vuông 7 bậc tỉ lệ cao và chạy vòng quanh xoắn ốc (Spiral) bằng các dốc
thoải (Rampe)

ZIGGURAT ASSYRIA CÓ DỐC THOẢI XOẮN ỐC

ĐỀN THỜ HÌNH OVAL

• Thời kỳ Tân Babylon (612 – 539 Tr.CN)
Ziggurat có 7 bậc dưới đền thờ.
b) Đền thờ hình Oval:
Tiêu biểu là đền thờ hình Oval tại Khafaje của thiên niên kỷ thứ Ba Tr.CN. Mặt bằng hình oval có 3
bậc, có sân trong và văn phòng, chỗ ở của giáo só, tăng lữ, xưởng, kho tàng. Giàn tế được bố trí cạnh
cầu thang lên.
3. NHÀ Ở DÂN GIAN:
Xây dựng gạch sống, tường rất dày.
Mặt bằng giản đơn, các phòng quây quần và liên hệ với nhau.

qua sân trong. Các phòng chia ra:


Phòng gia chủ.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

lơn.

13



Phòng phụ nữ.



Các phòng phụ thuộc (kho, bếp …)



Khu vệ sinh: đặt tại góc sân.

Nhà ở đôi khi có lầu, sử dụng cầu thang gạch khá dốc, có khi là cầu thang gỗ. Xung quanh nhà có bao

Tóm lại: Nền kiến trúc Lưỡng Hà chấm dứt với sự xâm lăng của Macedonia. Những tên Sumer, Akkad,
Babylon, Assyria chỉ còn lưu lại trong cổ sử, nhưng các dân tộc lân cận khác: Phenecia, Do Thái… đã truyền
bá phong cách kiến trúc này một cách rộng rãi sang vùng Đòa Trung Hải và sâu vào Trung Á. Kiến trúc
Lưỡng Hà cùng với Ai Cập trở nên niềm tự hào của thế giới cổ đại.


Chương 4:

KIẾN TRÚC BA TƯ CỔ ĐẠI
(Persia – Iran) 614 S.CN
I. ẢNH HƯỞNG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI:
1. ĐỊA LÝ:
Nằm kế bên và ngăn cách Lưỡng Hà bởi dãy núi thấp Zargos, là vùng cao nguyên cằn cỗi, ngày nay
thuộc xứ Iran. (Hình dưới cho thấy bản đồ vùng lưỡng hà – Ba tư; Hình đòan các nước chư hầu đi cống nạp).

2. ĐỊA CHẤT VÀ VẬT LIỆU XÂY DỰNG:
Có đất sét làm các loại gạch, nhất là gạch nung. Ít rừng, ít gỗ đá, nhưng chở từ các nơi về do việc
xâm chiếm các nước khác.
3. KHÍ HẬU:
Nóng và khô, kiến trúc đòi hỏi phải chống được nóng.
4. XÃ HỘI:
Giai cấp cầm quyền là bọn phong kiến quân phiệt rất hiếu chiến, thường xuyên xâm lược, thu gom tài
nguyên, nhân lực từ các nơi về, bóc lột dân trong nước cực kỳ hà khắc, dã man để xây dựng cung
điện rất xa hoa (đặc điểm nổi bật). Ngoài ra, kiến trúc tiêu biểu còn là một số ít lăng mộ Hoàng gia.
5. LỊCH SỬ:
Chia ra làm 2 thời kỳ:


Thời kỳ đầu là vương triều Achaemenian là vương triều Ba Tư thuần túy, nổi tiếng với các đại
đế Cyrus, Darius, Xerxes …



Thời kỳ sau, bò Hy Lạp, Macedon đô hộ. Sau khi vua Macedonia là Alessandros đại đế mất,
Ba Tư vẫn nằm dưới quyền cai trò của các tướng lónh Macedonia và dòng họ của họ theo từng vùng:



LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

14

− Seleucia (312 – 247 Tr.CN) nằm ở Tây Lưỡng Hà trên bờ sông Tigris do Seleucus lập ra.
− Parthia (247 – 226 S.CN).
− Sassanian (226 – 641 S.CN) chòu ảnh hưởng nhiều của La Mã.

II. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC:
Chòu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác như Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, Macedonia. Chú ý rằng, gờ Ai Cập
(Gorge Egypte) được dùng khá rộng rãi.
1. KIẾN TẠO:


Tường: xây dày và bằng gạch nung, hoặc không nung, ốp đá trang trí đá thường được dành
cho các thành phần quan trọng như: phần dưới móng đầu thanh, đục khung cửa các cột.



Cột: dùng nhiều cột với vật liệu là đá



Mái:

ĐIỆN TRIỀU KIẾN CÓ TRĂM CỘT (BÁCH TRỤ SẢNH) VỚI CÁC CỘT 2 ĐẦU BÒ HAY 2 ĐẦU NGỰA (CÓ SỪNG)

-


Mái bằng với hệ thống dầm gỗ chính, phụ, trên lát đất sét trộn cỏ.

-

Mái vòm: xây dựng với kỹ thuật cao hơn Lưỡng Hà như vòm nôi, đặc biệt là vòm bán cầu được đỡ

bởi

các vòm buồm trên mặt bằng vuông, vòm bán cầu có lỗ như tổ ong (vòm tổ ong).

VÒM BÁN CẦU TRÊN CÁC VÒM BUỒM LP MẶT BẰNG VUÔNG

VÒM TỔ ONG

2. NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC:


Sử dụng nhiều cột để tạo ra các phòng vuông, nổi tiếng nhất là sảnh trăm cột (Bách trụ
sảnh) tại Persepolis. Các cột thường mảnh, bước cột: 5 – 6d (d: đường kính cột). Đầu cột chiếm
1/3 thân cột, thường trang trí bằng hai đầu ngựa hay hai đầu bò, với các đai kim loại.



Trang trí: rất phong phú, điêu khắc, màu sắc rực rỡ. Đặc sắc nhất là việc sử dụng các lan
can đá có chạm nổi.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY


15

CÁC LAN CAN ĐÁ CHẠM PHÙ ĐIÊU TẠI CUNG PERSEPOLIS LÀ MỘT ĐIỂM TIÊU BIỂU CỦA KIẾN TRÚC BA TƯ

III. CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU:
1. THỜI KỲ ĐẦU: VƯƠNG TRIỀU ACHAEMENIDE
+ Cung CYRUS đại đế tại Parsagadae (550 Tr.CN) gồm nhiều công trình phân tán, phản ánh lối cư
trú du mục của các bộ lạc Ba Tư ở thời kỳ đầu. Phía Đông Nam là mộ Cyrus (xem phần lăng mộ)
+ Thành SUSA với cung của Darius I. Được xây dựng với vật tư, nhân lực từ khắp nơi: gỗ từ Lebanon,
núi Zargos, Nam Lưỡng Hà. Gạch nung kiểu Lưỡng Hà, nghệ nhân từ Assyria, Babylon, Hy Lạp, Ai
Cập. Được trang trí bằng các loại gạch men xa hoa, lộng lẫy …
+ Cung điện tại thành PERSEPOLIS (518 – 486 Tr.CN) của các vua Darius, Xerses, Arta-Xerxes.
Xây trên nền cao một phần đắp lên và một phần là đào vào sườn dốc, kích thước 500m x 300m x
cao 17m. Công trình xây dựng, được ốp đá cùng các đai sắt. (xem thêm hình ở trang trước).
Thành phần đáng chú ý là:
• Điện triều kiến (Apanada) mặt bằng 83m x 83m có tường dày hơn 6m, có 36 cột. Ngai vua được
đặt cuối phòng.
• Kho châu báu
• Phòng ngai vua: rất nổi tiếng với 100 cột (có tác giả gọi là Bách trụ sảnh) mặt bằng 75m x
75m, cột cao 12m, nóc bằng với hệ thống dầm gỗ, phía trên lát đất sét trộn cỏ.
• Công trình được trang trí lộng lẫy bằng điêu khắc, màu sắc rực rỡ khá xa hoa.


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

16

PERSEPOLIS NAY CHỈ CÒN TRƠ LẠI CÁC CẤU KIỆN BẰNG ĐÁ NHƯ CỘT, KHUNG CỬALAN CAN. MÁI VÀ TƯỜNG GẠCH ĐÃ MỤC NÁT.

+


Mộ Darius tại Bắc Persepolis (485 Tr.CN).
Được đục trong đá, mặt đứng bên ngoài (Facade) cao tới 20m và rộng, miêu tả lại mặt phía Nam
cung của Darius. Phía trước có đền đốt lửa là một tháp hình vuông chỉ có 1 phòng, đi lên bằng 6
nấc thang.

+

Mộ Cyrus tại Parsagadae (530 Tr.CN).
Xây phía Đông Nam cung Cyrus. Hình dáng như một cái đền trên nền có 6 bậc.

2. THỜI KỲ SELEUCIA, PARTHIA VÀ SASSANIAN:
Chòu nhiều ảnh hưởng của Hy Lạp – La Mã


LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

17

+

Điện tại Feruz – Abad: nằm phía Nam Persepolis (250 S.CN). Mặt đứng có cửa sân dẫn vào 3
vòm bán cầu.

+

Điện tại Sarvistan (Sassanian): mặt đứng cho thấy có 3 vòm, phía sau là một vòm hình tổ ong có
các lỗ lấy ánh sáng và thông gió nằm trên các vòm buồm với các cung nằm trên cột, lợp một
phòng mặt bằng vuông. Hai bên là hai phòng dài lợp vòm nôi.


+ Điện tại Ctesiphon (thế kỷ IV S.CN): xây dựng tại đồng bằng Lưỡng Hà với vật liệu xây dựng chủ
yếu là gạch.
Thành phần chính là một vòm nôi lớn (nhắc lại hình dạng các lều du mục), hai bên là tường xây
cuốn thành nhiều tầng (ảnh hưởng của phong cách La Mã)


18

LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

HIỆN TRẠNG CỦA CUNG TẠI CTESIPHON

Tóm lại:
Kiến trúc cổ Ba Tư nổi bật với các cung điện thật xa hoa, xây dựng bằng nhân lực, vật tư thu gom khắp nơi
bởi chế độ quân phiệt hiếu chiến. Việc sử dụng nhiều cột xây dựng nên các phòng mặt bằng vuông lộng lẫy
là phong cách đặc sắc của kiến trúc Ba Tư.



×