Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Soạn văn bài Thái phó Tô Hiến Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.54 KB, 4 trang )

I. KIẾN THỨC CẦN NẮM VỮNG
Thấy được nhân cách đáng kính của Tô Hiến Thành: cương trực, giữ nghiêm phép nước, chí công vô tư;
tiền tài, danh vọng, uy quyền không thể khuất phục. Qua nhân vật Tô Hiến Thành, tác giả tự hào về nhân
cách con người Việt Nam, không khuất phục trước cường quyền, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi
cá nhân.
Cách viết sử biên niên của sử gia Đại Việt sử lược là khắc hoạ tính cách nhân vật lịch sử qua việc lựa
chọn hoàn cảnh, sự kiện, lời nói, việc làm... của nhân vật.
II. GỢI Ý SOẠN BÀI
1. Dựa vào bài học, hãy cho biết những sự kiện lịch sử năm 1175 có liên quan tới vận mệnh đất nước?
Những sự kiện lịch sử có liên quan tới vận mệnh đất nước năm 1175:
- Năm 1175, Lý Anh Tông mất, con trai thứ là Long Cán mới hai tuổi lên nối ngôi trước linh cửu, mọi
việc triều chính, cụ thể là việc phò Long Cán lên ngôi, đều giao cho Thái phó Tô Hiến Thành. Vì vậy, Tô
Hiến Thành là người quyết định sự thành bại của Long Cán.
- Thái hậu Đỗ Thuỵ Châu muốn lập Long Sưởng (anh Long Cán) và phế Long Cán. Long Sưởng và Long
Cán đều là con đẻ của thái hậu Đỗ Thuỵ Châu. Trước đây Sưởng đã được lập làm Thái Tử. Nhưng tháng
9 năm 1174, vì có lỗi bị giáng làm Bảo Quốc Vương. Theo Đại Việt sử lược, "Sưởng có tính háo sắc" đã
từng nghe theo lời mẹ (lúc đó là Hậu) ngầm chuyện tư tình với Nguyên phi Từ Thị (lúc đó đang được vua
sủng ái). Từ Thị đem hết hành trạng của Sưởng bạch lại với Anh Tông, vì thế mà Sưởng bị phế.
Như vậy, việc Long Sưởng hay Long Cán lên ngôi quan hệ nghiêm trọng tới vận mệnh quốc gia. Trách
nhiệm ấy đè nặng lên vai Thái phó Tô Hiến Thành.
2. Nhận xét về Thái hậu qua các mánh khoé, thủ đoạn của bà.
Thái hậu biết rõ vai trò quyết định là ở Tô Hiến Thành. Vì vậy, bà đã từng bước mua chuộc, lôi kéo Thái
phó.
- Tranh thủ Thái phó đi sứ, Thái hậu hối lộ vợ của Tô Hiến Thành để nhờ bà thuyết phục chồng.
Việc làm này quá tinh vi, xảo quyệt vì người ta thường nói "lệnh ông không bằng cồng bà".
- Thái hậu dùng danh vọng, phú quý làm mồi trực tiếp mua chuộc Tô Hiến Thành. Lời của Thái hậu vừa
đánh trúng tâm lý của người lớn tuổi vừa có vẻ đứng về phía Tô Hiến Thành.
- Thất bại trước sự cứng rắn của Tô Hiến Thành, Thái hậu liều lĩnh, bất chấp Vương pháp triệu Quốc Bảo
Vương Long Sưởng vào để lập làm vua.
Tóm lại: Thái hậu dùng đủ mọi thủ đoạn. Nếu Tô Hiến Thành là người tham lợi, cả nể, sợ hãi hoặc không
giữ đúng phép nước thì mưu kế của Thái hậu sẽ thành công. Sở dĩ Thái hậu thất bại vì Tô Hiến Thành


không biết sợ, không cả nể, không tham lợi và đặc biệt kiên quyết giữ nghiêm phép nước.
3. Nhận xét về bản lĩnh Tô Hiến Thành qua việc ông đã đánh bại âm mưu của Thái hậu.


Tô Hiến Thành đã từng bước đánh bại âm mưu của Thái hậu:
- Ông dùng đạo lí làm người, trách nhiệm của một tể tướng và tín ngưỡng của dân tộc để thuyết phục vợ
không nhận hối lộ.
- Ông dùng lời dạy của Khổng tử và cách đối xử với người quá cố trong truyền thống dân tộc để trực tiếp
bác lời dụ dỗ của Thái hậu.
- Ông kiên quyết dùng pháp luật để nghiêm trị kẻ vi phạm pháp luật. Không thuyết phục được Thái hậu
bằng lí lẽ, Tô Hiến Thành đành phải dùng đến uy quyền của luật pháp.
Qua đó, ta thấy rõ những phẩm chất đáng quí của Tô Hiến Thành: hiền đức, cương trung, giữ nghiêm kỉ
cương phép nước (phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất). Nên nhớ, giữa vua, Thái hậu và Thái
phó, người có quyền tối cao không phải là Thái phó song Tô Hiến Thành đã không sợ uy quyền bởi ông
làm đúng. Điều đó cho thấy bản lĩnh vững vàng, dù có chết cũng bảo vệ đến cùng phép nước, lợi ích quốc
gia.
4. Phân tích kịch tính của đoạn hai.
Đoạn hai là đoạn mà kịch tính được đẩy lên cao. Khi Thái hậu hỏi "Nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông?".
Theo lôgíc thông thường (xét cả về lý cả về tình) ai cũng nghĩ Tô Hiến Thành sẽ tiến cử Vũ Tán Đường,
vì Vũ Tán Đường chức cao hơn Trần Trung Tá, lại gần gũi, có nhiều ân tình với Tô Hiến Thành. Nhưng
thật bất ngờ khi Tô Hiến Thành trả lời "chỉ có Trung Tá mà thôi". Khi Thái hậu nhắc đến ân tình của Tán
Đường, Tô Hiến Thành không ngả theo Thái hậu cũng không giải thích, chỉ đáp "Thái hậu hỏi người thay
thần nên thần nói tới Trung Tá: nếu hỏi người hầu hạ phụng dưỡng thần thì phi Vũ Tán Đường còn ai
nữa?" Thật bất ngờ và cũng thật mỉa mai, tiếng cười bật ra từ nghịch lý: chọn người thay chức tể tướng
kiêm Thái uý hay chọn người "hầu hạ phụng dưỡng?"
Lúc này Tô Hiến Thành ốm nặng, sắp qua đời vậy mà trí tuệ vẫn sáng suốt, bản lĩnh vẫn vững vàng (thậm
chí còn hóm hỉnh) và vẫn đầy trách nhiệm đối với đất nước.
Người viết sử đã thông qua đối thoại ngắn gọn để vừa đẩy cao kịch tính vừa lột tả đến tận cùng những
phẩm chất của nhân vật lịch sử Tô Hiến Thành.
5. Anh (chị) có thích nhân vật Tô Hiến Thành không? Lí do anh (chị) thích nhân vật Tô Hiến

Thành?
Mỗi người có thể có những mẫu người khác nhau để ngưỡng mộ, khâm phục, kính trọng... Tô Hiến
Thành cũng là mẫu người của một thời, là tấm gương của lòng cương trực, trung nghĩa. Ông có những
phẩm chất rất đáng được người đời sau trân trọng.
6. Nhận xét về cách viết sử của tác giả qua đoạn trích.
Tác giả viết sử biên niên theo lối tóm lược, vừa tôn trọng sự thật vừa tuân thủ trình tự thời gian. Hai sự
kiện xảy ra ở hai thời điểm khác nhau (1175 và 1179) nhưng liên hệ mật thiết tới nhân vật lịch sử vì thế,
việc ghép hai sự kiện là có dụng ý, nhằm làm nổi bật tính cách, phẩm chất nhân vật. Nhà sử học không
trực tiếp miêu tả tâm lý mà qua việc làm, lời nói để người đọc tự phán xét, đánh giá.
Ngôn ngữ ngắn gọn, kiệm lời nhưng vẫn bộc lộ được thái độ khen chê. Tác giả đã "treo gương răn cho
đời sau" (Ngô Sĩ Liên).
Tham khảo bài khác
KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Hiện chưa xác định được tác giả của Đại Việt sử lược.
2. Sử là tác phẩm viết về các sự kiện lịch sử. Mục đích của sử là ghi chép sự thật, nhằm cung cấp những
sự kiện lịch sử của dân tộc và thể hiện quan điểm, thái độ của sử gia đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử
để đời sau học tập, suy ngẫm. Trong văn học trung đạiViệt Nam, các tác sử thuộc loại hình văn học chức


năng hành chính. Tác phẩm sử xưa có hai thể: biên niên và kỉ sự. Đại Việt sử lược thuộc viết theo lối biên
niên. Biên niên là lối viết sử theo trình tự thời gian, khác với kỉ sự là lối viết sử theo các sự kiện hoặc
từng sự việc của nhân vật lịch sử.
Đại Việt sử lược có kết hợp với lối viết của kỉ sự.
Viết sử theo lối biên niên nhưng đồng thời chú ý đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật lịch sử, tác giả Đại
Việt sử lược đã tái hiện được chân dung Tô Hiến Thành với một nhân cách đáng kính.
3. Năm 1175, Lí Cao Tông huý là Long Cán, con thứ sáu của Lí Anh Tông, mẹ là Vương hậu Đỗ Thuỵ
Châu, lên ngôi lúc mới hai tuổi, theo di chúc của vua cha. Vương đương ấu thơ, mọi việc lớn nhỏ đều
giao cho Thái Phó Tô Hiến Thành. Thái hậu có ý phế Long Cán lập Long Sưởng, bèn hối lộ Lã Thị, vợ
của Tô Hiến Thành, nhờ tác động để ông thuận theo ý mình, rồi lại trực tiếp gặp Tô Hiến Thành lấy danh
lợi phú quý hòng mua chuộc. Tô Hiến Thành một lòng trung thành với cố thác của Tiên Vương, phò ấu
chúa, nhất định không nghe theo. Thái hậu bất chấp pháp luật, triệu Bảo Quốc Vương Long Sưởng vào để

tự lập làm vua nhưng Tô Hiến Thành đã cùng với triều thần kiên quyết dùng pháp luật để Thái hậu không
thực hiện được mưu đồ.
Khi Tô Hiến Thành ngã bệnh, chỉ có Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ bên cạnh; quan
Gián nghị đại phu Trần Trung Tá bận bịu nhiều việc, không lúc nào rảnh rang để đến thăm. Lúc bệnh của
Hiến Thành đã nguy kịch, Thái hậu đến thăm và hỏi rằng khi ông mất, ai sẽ thay chức Tể tướng. Hiến
Thành không vì tình riêng, tiến cử Trần Trung Tá vì đó mới là “ngay thần”. Thái hậu tuy khen Hiến
Thành nhưng không nghe lời ông mà lấy Đỗ An Thuận coi việc triều chính.
II – RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tìm hiểu xuất xứ
Bài Thái phó Tô Hiến Thành được trích từ tác phẩm lịch sử Đại Việt sử lược của một sử gia sống vào
khoảng nửa cuối thế kỉ XIV. Ở Việt Nam, tác phẩm này đã thất truyền từ lâu. Tác phẩm được in lần đầu
tiên ở Trung Hoa, thời Càn Long thế kỉ XVIII do Tuần phủ Sơn Đông dâng lên và Tiền Hi Tộ hiệu đính.
2. Tìm hiểu nghĩa của các từ ngữ: lời cố thác, tuổi đã xế chiều, phụng mệnh,…
Gợi ý:
- lời cố thác: lời dặn dò, gửi gắm của nhà vua trước khi mất.
- tuổi đã xế chiều: tuổi đã cao, ý nói đã đến tuổi sắp chết.
- phụng mệnh: vâng theo mệnh lệnh.

3. Nhận xét về nghệ thuật tạo kịch tính bất ngờ trong đoạn nói về việc Tô Hiến Thành tiến cử người thay
mình.
Gợi ý:
- Kể việc Tô Hiến Thành ốm nặng, Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ còn Trần Trung Tá bận bịu nhiều
việc nên không có lúc nào đến thăm. Đây là bước tạo tình huống, chuẩn bị cho những diễn biến kịch tính
tiếp theo.
- Cuộc đối thoại giữa Thái hậu và Tô Hiến Thành:
+ Khi Thái hậu hỏi “Nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông?”, từ chuyện đã kể ở trước, theo lôgic thông
thường, ai cũng nghĩ rằng Hiến Thành sẽ tiến cử Vũ Tán Đường. Nhưng bất ngờ Hiến Thành lại trả lời
“chỉ có Trung Tá mà thôi”.
+ Kịch tính lên đến cao điểm: Khi Thái hậu nhắc đến ân tình của Tán Đường đối với Hiến Thành, ai cũng
nghĩ rằng hoặc là Hiến Thành sẽ thuận theo Thái hậu, hoặc là giải thích rằng Tán Đường không đủ khả

năng để làm Tể tướng,… Nhưng bất ngờ Hiến Thành đáp: “Thái hậu hỏi người thay thần, nên thần nói tới
Trung Tá; nếu hỏi người hầu hạ phụng dưỡng thần thì phi Tán Đường còn ai nữa?”.
Ở thời điểm kịch tính lên cao này, từ câu trả lời của Hiến Thành, bật ra ý nghĩa mỉa mai trước nghịch lí:
Chọn người thay chức Tể tướng kiêm Thái phó hay chọn người hầu hạ, phụng dưỡng Tể tướng kiêm Thái
phó?
Người viết đã chọn lựa đưa ra một cảnh huống có thật nhưng trái với suy đoán thông thường của người
đời để khắc hoạ nổi bật tính cách nhân vật và ngụ ý những điều sâu xa về thời thế, nhân sinh.
4. Nhận xét về cách viết sử của tác giả Đại Việt sử lược.
Gợi ý:
- Viết theo lối biên niên, tác giả vừa đảm bảo tôn trọng tính chân thực của sự kiện, nhân vật, vừa tuân thủ
trình tự diễn biến thời gian. Viết sử biên niên tóm lược, tập trung vào việc khắc hoạ nhân vật Tô Hiến
Thành, tác giả đã chọn hai thời điểm (1175 và 1179) cách nhau bốn năm, một mặt vẫn đảm bảo trình tự
trước sau, mặt khác đó là những thời điểm diễn ra những sự kiện mà qua đó chân dung tinh thần nhân vật
bộc lộ rõ nét.


- Tác giả không trực tiếp miêu tả tâm lí nhân vật, nhưng qua hành động, lời nói của nhân vật đã được lựa
chọn để đưa ra, tính cách của nhân vật vẫn được bộc lộ.
5. Những sự kiện lịch sử nào ở triều Lí trong năm 1175 liên quan đến vận mệnh đất nước được tái hiện
trong đoạn trích?
Gợi ý:
- Lí Anh Tông qua đời; con trai thứ là Long Cán mới hai tuổi lên nối ngôi; mọi việc triều chính đều uỷ
thác cho Thái phó Tô Hiến Thành.
- Thái hậu Đỗ Thuỵ Châu muốn phế Long Cán, lập Long Sưởng – anh của Long Cán, lên ngôi.
- Long Cán và Long Sưởng đều là con đẻ của Thái hậu Thuỵ Châu. Long Sưởng trước đây đã từng được
lập làm Thái tử, nhưng do mắc lỗi nên bị giáng xuống làm Bảo Quốc Vương.
6. Phân tích hành vi của thái hậu trong việc ép Tô Hiến Thành phế Lí Long Cán.
Gợi ý:
- Thái hậu tiến hành từng bước lôi kéo Thái phó Tô Hiến Thành – người phù Long Cán và có vai trò rất
lớn trong triều đình.

+ Thái hậu hối lộ vợ Hiến Thành.
+ Đánh vào tâm lí người nhiều tuổi, Thái hậu trực tiếp mua chuộc Tô Hiến Thành bằng việc đưa ra mồi
danh vọng, phú quý.
+ Thái hậu bất chấp pháp luật, triệu Bảo Quốc Vương Long Sưởng vào để tự lập làm vua.
- Như vậy, mặc dù hành động từng bước, từ tính toán xảo quyệt cho đến liều lĩnh, nhưng Thái hậu vẫn
không đạt được âm mưu của mình
7. Đánh giá về nhân vật Tô Hiến Thành.
Gợi ý:
- Tô Hiến Thành trước mưu đồ phế lập của Thái hậu:
Tô Hiến Thành đã từng bước đánh bại âm mưu phế lập của Thái hậu. Khi Thái hậu mua chuộc vợ ông,
Hiến Thành đã dùng đạo lí làm người, nhấn mạnh đến vai trò Tể tướng của mình và viện cả đến tín ngưỡng để thuyết phục vợ (“…ta biết lấy lời nào để trả lời Tiên Vương ở suối vàng?”). Khi Thái hậu trực
tiếp dùng mồi danh vọng, phú quý để dụ Hiến Thành, ông đã dùng lời lẽ của Khổng Tử về cách làm
người (“Bất nghĩa mà được phú và quý, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm.”) và
cách đối xử với người quá cố trong văn hoá ứng xử truyền thống (lời di chúc của Tiên Vương còn ở bên
tai) để từ chối Thái hậu. Trước sự liều lĩnh, bất chấp của Thái hậu, Hiến Thành kiên quyết dùng luật pháp
để giữ vững kỉ cương, không cho Thái hậu thực hiện mưu đồ tự phế lập.
- Tô Hiến Thành với việc chọn người thay thế mình:
Chức Tể tướng và chức Thái uý là những trọng trách lớn nhất trong triều đình. Việc chọn người thay thế
các vị trí ấy là rất hệ trọng. Nếu như ở sự kiện trước, Tô Hiến Thành đã chứng tỏ đức chính trực, cương
trung, “Phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất. ” thì ở sự kiện chọn người thay thế mình ta càng
thấy được sự sáng suốt, tinh thần trách nhiệm vì đất nước của ông.
Lựa chọn của Tô Hiến Thành không hề theo suy đoán thông thường. Về lí, chức Tham tri chính sự của
Vũ Tán Đường to hơn chức Gián nghị đại phu của Trần Trung Tá. Về tình, Vũ Tán Đường luôn gần gũi,
phụng dưỡng Hiến Thành; trong khi, vì bận bịu, khi Hiến Thành ốm, Trần Trung Tá không lúc nào đến
thăm được. Những điều này cho thấy, hành xử của Hiến Thành một mực chỉ vì xã tắc, tuyệt đối vô tư,
xuất phát từ tâm huyết của người có trách nhiệm đối với đất nước; đồng thời cũng chứng tỏ ông có cái
nhìn tỉnh táo, sáng suốt ngay cả khi bệnh tình đã rất nguy kịch.
- Tô Hiến Thành vừa phải chịu áp lực lớn từ phía Thái hậu, vừa phải chịu áp lực từ chính chức trách Thái
phó của mình. Trong triều, vua là trên hết; nhưng trong gia đình, Thái hậu lại là mẹ vua, mà con phải
vâng lời cha mẹ là đạo lí. ở thời điểm câu chuyện diễn ra, vua còn quá nhỏ, Thái hậu nắm mọi quyền

hành. như vậy, vai trò và trách nhiệm của Tô Hiến Thành càng trở nên nặng nề. Vậy mà, như đã thấy, ông
đã không chịu khuất phục trước quyền uy, cám dỗ, nhất mực trung thành với sự nghiệp chung, trung
trinh, liêm khiết, một lòng vì đất nước mà hành xử mà không chịu lệ thuộc vào bất cứ điều gì. Tô Hiến
Thành quả là tấm gương sáng trong lịch sử, để người sau soi mình.
(Sưu tầm)



×