LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn 3 năm Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại
WTO, chúng ta đã thấy rõ được những cơ hội và thách thức đồng hành đến với nước ta.
Các doanh nghiệp trong nước đã phải cố gắng nỗ lực hết mình để nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh, từ đó có thể tăng khả năng cạnh tranh và khẳng định mình trên
thị trường ngày một khốc liệt này.
Trong năm 2008 cùng với các nước trên thế giới Việt Nam đã phải cố gắng rất
nhiều để trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu Qua đây, ta đã thấy được tầm quan
trọng của tín dụng trong vai trò là “đòn bẩy” của nền kinh tế cũng như là một công cụ
đắc lực để hỗ trợ cho Nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả
của nền kinh tế. Do vậy theo dự đoán nhu cầu về vốn trong thời kỳ hậu khủng hoảng sẽ
ngày gia tăng để đáp ứng nhu cầu phục hồi sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Vì vậy nên kinh tế sẽ cần không ít vốn để đáp
ứng nhu cầu cần thiết này. Mà nơi đến của các doanh nghiệp không đâu khác chính là
các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên trong thời qua, đặc biệt là thời kỳ khủng hoảng vấn đề tín dụng tại các
tổ chức tín dụng trong nước đã bộc lộ những yếu kiếm nhất định nên hoạt động tín dụng
đã gặp không ít những khó khăn và rủi ro thường xuyên rình rập. Mà hoạt động tín dụng
lại mang lại thu nhập chủ yếu cho các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, làm thế nào để
phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng. Từ
đó, có thể đề ra những giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng tín dụng là nhiệm vụ
hàng đầu của các ngân hàng thương mại cũng như của các tổ chức tín dụng trong nước.
Trong quá trình học tập tại Đại học Thăng Long và nghiên cứu thực tế tại Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương - Chi nhánh Nam Định, em nhận thấy được tầm quan trọng
của công tác nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của các tổ chức
tín dụng. Do đó, em đã quyết định chọn đề tài tốt nghiệp của mình là: “Một số giải
pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương - Chi nhánh Nam Định”.
Với kiến thức và thời gian có hạn bài luận văn của em không trách khỏi được
những thiếu sót . Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong bộ
môn kinh tế để bài luận văn của em có thể hoàn chỉnh và giúp em nâng cao được trình
độ lý luận cũng như thực tiễn.
Trang 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt động
tín dụng và chất lượng tín dụng, cũng như sự cần thiết của hoạt động tín dụng. Trên cơ
sở đó để đưa ra một số các giải pháp mang tính khả thi giúp nâng cao hoạt động tín
dụng tại Quỹ tín dụng Trung ương_ Chi nhánh Nam Định.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
− Đối tượng nghiên cứu của khoá luận:
+ Những lý luận cơ bản về tín dụng, chất lượng tín dụng và nâng cao chất lượng
tín dụng
+ Thực trạng chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương – Chi
nhánh Nam Định.
+ Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương – Chi nhánh Nam Định.
− Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương – Chi nhánh Nam Định.
4. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương -
Chi nhánh Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương - Chi nhánh Nam Định
CHƯƠNG 1:
Trang 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng đã ra đời từ lâu và trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều hình thức
khác nhau, vì vậy có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng.
Tín dụng xuất hiện từ khi có sự phân công lao động xã hội, sản xuất và trao đổi
hàng hóa phát triển. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, đã nảy sinh quan hệ vay nợ lẫn
nhau giữa các chủ thể kinh tế. Do vậy, tín dụng có thể được hiểu là: Tín dụng là sự
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định, dưới hình thức hiện
vật hay tiền tệ trong một thời gian nhất định từ người cho vay sang người đi vay, và khi
đến hạn phải hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn cái ban đầu. Khoản giá trị dôi ra
này được gọi là lợi tức tín dụng.
“Tín dụng” xuất phát từ chữ La-tinh “creditium”có nghĩa là sự tin tưởng, sự nuôi
dưỡng lòng tin, là sự hẹn trả. Trong tiếng Anh được gọi là Credit. Trong quan hệ tín
dụng, người cho vay sẽ cho người cần vốn vay theo các điều kiện đã được thoả thuận
trước như thời gian cho vay, thời gian hoàn trả, lãi suất tín dụng ...vv. Trong quan hệ đó
người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng các
thoả thuận, làm ăn có lãi và có khả năng hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn .
Theo quan điểm của K.Marx, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng. Sau một thời gian nhất định, lượng giá trị
này quay lại nhưng có giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Như vậy, theo quan điểm
này thì khái niệm tín dụng có ba nội dung chính, đó là tính chuyển nhượng tạm thời của
một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Theo quan điểm kinh tế hiện đại, tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và
cho vay. Đây là mối quan hệ tiền tệ giữa một bên là các tổ chức tín dụng – một tổ chức
kinh doanh tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Theo Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng đã sửa đổi bổ sung ngày 25/12/2001 quy
định: “Cấp tín dụng là việc các tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
1.1.2. Quá trình ra đời và phát triển của tín dụng
Trang 3
Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với lịch sử phát triển của phương
thức sản xuất hàng hóa. Hình thức sơ khai nhất của tín dụng là tín dụng nặng lãi. Người
đi vay không những phải trả vốn đã vay mà còn phải trả cả phần lãi rất lớn cho Người
cho vay. Hình thức này chỉ tồn tại ở xã hội trước tư bản và mục đích của nó là để duy trì
cuộc sống cho những người cần vay.
Đến phương thức tư bản chủ nghĩa thì tín dụng nặng lãi không còn phù hợp. Sản
xuất phát triển, đi vay không những để cho tiêu dùng mà còn để phát triển sản xuất. Lãi
suất cho vay cũng phải thấp hơn do có nhiều người cho vay hơn và để cho nhà tư bản đi
vay đảm bảo việc sản xuất có lợi nhuận. Vay mượn không chỉ đơn thuần là tiền mà còn
là các máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất... Từ đó, lãi suất không còn do người cho vay
đơn phương áp đặt nữa mà phải có sự thỏa thuận giữa Người vay và Người cho vay. Do
vậy, tín dụng bằng hiện vật đã nhường chỗ cho tín dụng bằng hiện kim, tín dụng nặng
lãi phi kinh tế đã nhường chỗ cho các loại tín dụng ưu việt hơn như tín dụng ngân hàng,
tín dụng Nhà nước…
Qua đây, ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn
trả. Đó là quan hệ giữa hai bên, trong đó một bên chu cấp tiền hay hàng hóa, dịch vụ cho
bên kia và bên kia cam kết sẽ thanh toán lại trong tương lai gồm cả khoản nợ gốc và
khoản lãi.
Như vậy, tín dụng đã có một quá trình tồn tại và phát triển lâu dài qua nhiều thời
kỳ khác nhau của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, tính chất chung của tín dụng là như sau:
Tín dụng là sự chuyển giao quyền sử dụng một số tiền hoặc tài sản từ Người cho
vay sang Người đi vay, mà không làm thay đổi quyền sở hữu đối với chúng.
Tín dụng luôn có thời hạn sử dụng nhất định dựa trên sự thỏa thuận giữa Người
cho vay và Người đi vay.
Giá cả trong hoạt động tín dụng chính là lãi suất nên Người cho vay sẽ nhận
được thu nhập từ lãi suất. Vì thế, giá trị của tín dụng không những được bảo tồn mà còn
được nâng cao nhờ lãi suất của tín dụng.
1.1.3. Bản chất của tín dụng
Bản chất của tín dụng được hiểu theo 2 khía cạnh
Trang 4
− Thứ nhất, tín dụng là quan hệ kinh tế phát sinh giữa Người đi vay và Người cho
vay, nhờ quan hệ này mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể khác để
sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế xã hội.
− Thứ hai, tín dụng được coi là một số vốn, làm bằng hiện vật hoặc bằng hiện kim
vận động theo nguyên tắc hoàn trả, đã đáp ứng cho các nhu cầu của chủ thể tín dụng.
1.1.4. Chức năng của tín dụng
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
− Thứ nhất, huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dưới hình
thức cho vay. Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này mà các
nguồn vốn trong xã hội được điều hòa từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu”.
− Thứ hai, giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thước đo để tiến hành quản lý doanh
nghiệp với các mục tiêu: sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
1.1.5. Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng, là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền kinh
tế-xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm hai mặt tích cực và tiêu cực.
Ở mặt tích cực, tín dụng có các vai trò sau đây:
Tín dụng góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển
Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, các cá nhân, các
tổ chức kinh tế.
Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong
nền kinh tế
Tín dụng không những là công cụ tập trung vốn mà còn là công cụ thúc đẩy tích tụ
vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Có thể nói, trong mọi nền kinh tế- xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to lớn nói
trên của nó.
Đối với doanh nghiệp: Tín dụng góp phần cung ứng vốn bao gồm vốn cố định và
vốn lưu động.
Đối với dân chúng: Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Đối với toàn xã hội: Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn.
Tín dụng góp phần ổn định giá cả
Trang 5
Tín dụng góp phần làm giảm lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền
mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn
định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế đã tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất ngày càng
phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng tăng của xã hội. Chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định giá cả trong
nước.
Tín dụng làm nâng cao mức sống của người dân
Tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, sản xuất hàng hoá và
dịch vụ ngày càng gia tăng để thỏa mã nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đồng thời
thông qua quan hệ tín dụng những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn có thể
vay vốn để xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh cũng như để trang trải cho cuộc
sống hàng ngày.
Tín dụng góp phần phát triển các mối quan hệ quốc tế
Có thể nói tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng và phát triển các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển của tín dụng không
những ở trong phạm vi quốc nội mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó nó thúc
đẩy mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải
quyết các nhu cầu về vốn trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các
nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
Ở mặt tiêu cực, tín dụng có những tác động sau:
Tín dụng phát triển nhưng không được kiểm soát chặt chẽ theo khuôn khổ pháp lý
thì sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ, từ quy mô và phạm vi hẹp đến quy mô lớn
trên phạm vi rộng, gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế xã hội.
Với sự phát triển của tín dụng có thể làm gia tăng phân hóa giàu nghèo.
1.2. Phân loại tín dụng
1.2.1. Dựa vào thời hạn cho vay
Trang 6
− Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay tới 12 tháng, được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động cho các doanh nghiệp, các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
− Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng, được sử dụng để đầu tư mua sắm các tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết
bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và
thời gian thu hồi vốn nhanh.
− Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 5 năm trở lên và thời
hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.
Đây là loại hình tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng
nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.2.2. Dựa vào mục đích sử dụng vốn
− Cho vay mua bán bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
− Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: là loại cho vay ngắn
hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
− Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc lao động, nhiên liệu…
− Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm vật dụng, trang trải các chi phí thông thường của đời sống.
− Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu: bao gồm hỗ trợ về tài chính cùng với thủ
tục giấy tờ liên quan để doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể thực hiện nghĩa vụ của
mình trong hợp đồng mua bán hàng hoá.
1.2.3. Dựa vào phương thức cho vay
− Cho vay từng lần: phương pháp cho vay mà mỗi lần vay khách hàng và ngân
hàng đều phải làm các thủ tục (Khách hàng lập kế hoạch vay vốn, ngân hàng xét duyệt
cho vay...) và ký hợp đồng tín dụng.
− Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương pháp cho vay mà TCTD ( tổ chức tín
dụng) và khách hàng thoả thuận xác định một hạn mức tín dụng duy trì một thời gian
Trang 7
nhất định. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời gian
nhất định, được ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
− Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là loại tín dụng mà qua đó TCTD cho phép
khách hàng được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản
vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất định.
1.2.4. Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng
− Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng.
− Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp,
cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
1.2.5. Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay
− Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ, hay còn gọi là cho vay trả góp, là loại cho vay
khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
− Cho vay chỉ có một thời hạn trả nợ, hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần, khi
đáo hạn.
− Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tuỳ vào khả năng
tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
1.2.6. Dựa vào hình thái giá trị tín dụng
− Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền
− Cho vay bằng tài sản (hay cho thuê tài chính): là hoạt động tín dụng trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê. Khi hết thời
hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại theo các thoả thuận trong hợp đồng
thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
1.2.7. Dựa vào xuất xứ tín dụng
− Cho vay trực tiếp là việc các tổ chức tín dụng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu
cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho các tổ chức tín dụng
− Cho vay gián tiếp là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.3.Quy trình tín dụng
Trang 8
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của các TCTD, một hoạt
động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Trong hoạt động cho tín dụng, nếu hành
động chủ quan duy ý chí sẽ dẫn đến những tổn thất nặng nề cho TCTD. Vì vậy, để có
một quyết định cho vay đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách
hàng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh ngân hàng thì hoạt động cho vay đòi hỏi
các TCTD phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho tín dụng. Quy trình tín dụng là trình
tự các bước mà TCTD thực hiện cho vay đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản
ánh nguyên tắc tín dụng, phương pháp tín dụng, trình tự giải quyết các công việc, thủ
tục hành chính và thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng.
Quy trình tín dụng gồm 5 bước: Thiết lập hồ sơ tín dụng, phân tích tín dụng, quyết
định cho vay, giải ngân, quản lý và giám sát cho vay.
Bước 1: Thiết lập hồ sơ tín dụng
Hồ sơ tín dụng của một TCTD là tài liệu bằng văn bản, biểu hiện mối quan hệ tổng
thể của TCTD với khách hàng vay vốn. Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào sự
hoàn chỉnh và chính xác của hồ sơ tín dụng. Vì vậy, khi thiết lập hồ sơ cho tín dụng phải
đảm bảo đầy đủ các yếu tố:
− Các thông tin cơ bản về khách hàng.
− Thông tin về tài chính hiện tại của khách hàng.
− Lịch sử tài chính của khách hàng.
− Thông tin về mục đích vay vốn.
− Phương hướng về hoạt động kinh doanh trong tương lai của khách hàng.
− Đánh giá nhận xét của TCTD về khách hàng.
− Thoả thuận giữa TCTD và khách hàng về việc vay vốn và trả nợ vốn tín dụng.
− Những thông báo của TCTD cho khách hàng.
− Báo cáo về kết quả kiểm tra tình hình sử dụng vốn tín dụng.
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm năng của khách hàng về
sử dụng vốn tín dụng, cũng như khả năng hoàn trả vốn vay. Mục tiêu của phân tích tín
dụng là để phòng ngừa, hạn chế rủi ro cũng như để áp dụng nhiều biện pháp, trong đó
biện pháp cơ bản, có vị trí quan trọng nhất là phân tích một cách toàn diện khách hàng
Trang 9
trước khi cấp tín dụng của TCTD. Nếu khách hàng được đánh giá là tốt, như có đủ tư
cách trong kinh doanh, có năng lực tài chính đảm bảo, chấp hành tốt các hợp đồng tín
dụng trong quá khứ và triển vọng phát triển trong tương lai… thì sẽ được TCTD xem
xét cho vay. Ngược lại, nếu khách hàng không đáp ứng được những yêu cầu trên thì
TCTD sẽ từ chối cấp tín dụng.
Phân tích đánh giá khách hàng
Để phân tích đánh giá khách hàng TCTD dựa vào các tài liệu sau:
Tài liệu thuyết minh về vay vốn như kế hoạch hoặc phương án sản xuất kinh
doanh, giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, các hợp đồng cung cấp - tiêu thụ sản
phẩm.
Các tài liệu kế toán để đánh giá khả năng tài chính của khách hàng như: bảng tổng
kết tài sản, bản thuyết minh về tình hình công nợ, bản giải trình về kết quả kinh doanh,
bản phân tích chi tiết về lỗ, lãi.
Ngoài ra TCTD còn dựa vào các thông tin khác như: phỏng vấn trực tiếp người
cho vay, thông tin qua hồ sơ lưu trữ về người vay tại TCTD, thông tin từ các doanh
nghiệp có quan hệ kinh tế với người xin cấp tín dụng, thông tin của trung tâm CIC v.v...
Các nguồn thông tin có thể xem xét bao gồm:
Các thông tin phi tài chính như: các mục thông tin trên báo; các tạp chí thương
mại; các báo cáo cổ đông; các báo cáo tình báo kinh tế; các báo cáo thị trường; các dữ
liệu được công bố (ví dụ tình trạng mắc nợ được đăng ký); các báo cáo của các nhà tư
vấn.
Các thông tin tài chính như: báo cáo kế toán thường niên; báo cáo kế toán tạm
thời; hoạt động kế toán ngân hàng (cho các nhà ngân hàng); các dự báo về vốn luân
chuyển, doanh thu, lợi nhuận; các báo cáo của cơ quan phân hạng tín dụng; công ty lập
báo cáo tài chính; hoạt động của thị trường chứng khoán.
Sau khi xem xét tính hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu trên, các TCTD thường tiến
hành thẩm định một cách kỹ càng về khách hàng của mình. Thông thường, các TCTD
thường đưa ra các tiêu chuẩn để xem xét một hồ sơ tín dụng, chẳng hạn như:
Tiêu chuẩn 5C:
− Capacity : Năng lực hoạt động
− Capital : Vốn
− Charater : Uy tín
Trang 10
− Conditions : Điều kiện
− Collateral : Vật thế chấp
Hoặc tiêu chuẩn 5P:
− Purpose : Mục đích
− Payment : Trả nợ
− Protection : Bảo vệ
− Policy : Chính sách
− Pricing: Định giá
Nhưng cho dù nguyên tắc, tiêu chuẩn đặt ra như thế nào thì các TCTD cũng tập
trung phân tích, đánh giá những mặt chủ yếu sau:
Năng lực pháp lý của khách hàng
Khách hàng xin cấp tín dụng phải có tư cách pháp nhân, đây là điều kiện tiên
quyết để TCTD xem xét cấp tín dụng nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc
hoàn trả nợ vay.
Đối với các tổ chức kinh tế, khi đánh giá tư cách pháp nhân, TCTD phải dựa vào
các ”tiêu chuẩn” đó là: phải có quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền, có giấy
phép kinh doanh, có tài sản riêng thuộc quyền quản lý hay sở hữu, được nhân danh tổ
chức mình tham gia các hoạt động kinh tế thông qua người đại diện hợp pháp. Muốn
đánh giá tư cách pháp nhân của tổ chức kinh tế, các TCTD thường đòi hỏi khách hàng
phải cung cấp cho mình các tài liệu như: quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép
kinh doanh do cấp có thẩm quyền cấp, quyết định bổ nhiệm giám đốc hay những tài liệu
chứng minh quyền điều hành hợp pháp của lãnh đạo doanh nghiệp đối với công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân hay hợp tác xã.
Đối với các cá nhân phải là những người có đầy đủ năng lực pháp lý và năng lực
hành vi, có hộ khẩu thường trú trên cùng địa bàn với TCTD xin cấp tín dụng. TCTD
không chấp nhận cho vay những người như đang trong thời gian chấp hành án, bị tòa án
cấm kinh doanh, những người bị tâm thần.
Uy tín của khách hàng
Đây là yếu tố hết sức quan trọng mà TCTD cần phải đánh giá. Phần lớn các thông
tin về khách hàng đều đã được TCTD biết đến. Đối với một khách hàng cũ, những giao
dịch trước đó của TCTD với họ sẽ đưa lại một lượng lớn thông tin về tính trung thực,
Trang 11
các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc
thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng
mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, vào các doanh nghiệp khác có quan hệ với
khách hàng đó, vào thông báo thực trạng từ các TCTD khác. Trong trường hợp khách
hàng là doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cần phải tìm hiểu và trả lời chính xác các câu hỏi:
doanh nghiệp đã tồn tại được bao lâu? Kết quả hoạt động kinh doanh trong quá khứ và
hiện tại như thế nào? Doanh nghiệp đó làm ăn đứng đắn hay có biểu hiện hành vi nhất
thời, lừa đảo? Quan hệ của khách hàng với các bạn hàng và các cơ quan chức năng trên
địa bàn như thế nào?... Với khách hàng thuộc liên doanh, các công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn thì bản chất, uy tín và sự nhạy bén trong kinh doanh của các hội
viên và các giám đốc là tối quan trọng.
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng
Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ
trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo
khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để
TCTD xem xét có cấp tín dụng hay không? Mức cấp tín dụng là bao nhiêu?
Các tiêu chuẩn mà TCTD có thể sử dụng để phân tích đánh giá về tình hình tài
chính của khách hàng là các “tỷ lệ tài chính”.
Phân tích tỷ lệ tài chính là một trong nhiều phương pháp có thể được sử dụng hỗ
trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của khách hàng trong quá
trình đánh giá tín dụng. Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố với một yếu tố
khác. Tỷ lệ được lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhóm số liệu, tạo ra một mối quan
hệ nào đó.
Sự tăng hay giảm của các con số: tỷ lệ được tạo ra từ các số liệu lấy ở bảng tổng
kết tài sản, từ các tài liệu kế toán khác trong một vài năm (quý) sẽ cho thấy các xu
hướng phát triển thuận lợi hay không thuận lợi. Qua đó, giúp cho việc tìm hiểu, kiểm tra
phải thực hiện theo phương hướng nào để khuyến nghị khách hàng tiến hàng các biện
pháp điều chỉnh đảm bảo cho việc kinh doanh liên tục có lãi và đảm bảo khả năng trả nợ
của khách hàng. Việc phân tích các xu hướng của tỷ lệ tài chính chủ yếu giúp TCTD
nắm bắt sâu sắc tình hình nội tại của khách hàng.
Khi đánh giá các chỉ tiêu, TCTD tiến hành so sánh kỳ này với kỳ trước; so sánh số
liệu thực tế với kế hoạch đề ra để thấy được mức độ phát triển của doanh nghiệp; so
sánh với các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành để đánh giá.
Trang 12
Đánh giá về năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo đơn vị
khách hàng. Hoạt động kinh doanh của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào tư chất và
năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi xem xét phân tích, TCTD cần đánh
giá họ về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín của người lãnh đạo. Đặc
biệt quan tâm đánh giá tư cách đạo đức của họ? Sự nhạy bén nắm bắt những cơ hội
mới ? Thực hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh? Uy tín trong nội bộ và uy tín
với các bạn hàng? Kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý?
Thẩm định dự án đề nghị vay vốn
Khi tiếp nhận một hồ sơ tín dụng do khách hàng gửi tới, đặc biệt là khách hàng
mới quan hệ với TCTD, cán bộ tín dụng phải điều tra phân tích kỹ lưỡng những thông
tin do khách hàng cung cấp. Đây là yếu tố quyết định chất lượng tín dụng.
Việc phân tích tín dụng trước hết do cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn
của khách hàng có trách nhiệm đối chiếu danh mục hồ sơ theo quy định xem có đảm
bảo đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ không. Sau đó báo cáo trưởng phòng tín dụng và trưởng
phòng tín dụng cử người thẩm định điều kiện vay vốn.
Thẩm định đảm bảo tín dụng
Để đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng đòi hỏi khách hàng khi vay vốn phải
có đảm bảo nợ vay dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của người thứ
ba. Những tài sản dùng để thế chấp, cầm cố vay vốn phải được cán bộ tín dụng thẩm
định về điều kiện tài sản dùng để thế chấp, cầm cố. Như xem tài sản có thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của người vay vốn không? Tài sản đó có bị cấm lưu thông trên thị trường
không? Tài sản đó giá cả ổn định không? Bán có dễ dàng không?.... Trường hợp, người
thứ ba bảo lãnh vay vốn thì phải thẩm định người bảo lãnh có đủ điều kiện để bảo lãnh
hay không? Người bảo lãnh có đủ năng lực pháp lý, năng lực tài chính, có uy tín đối với
TCTD, trên thị trường và xã hội hay không?...
Bước 3: Quyết định tín dụng
Kết quả của quá trình phân tích tín dụng là đưa ra quyết định cho vay. Trong thực
tế những yêu cầu cấp tín dụng có chất lượng tốt, việc quyết định cấp tín dụng được thực
hiện một cách dễ dàng. Đối những khoản vay nhỏ TCTD thường giao quyền cho cán bộ
tín dụng quyết định. Đối những khoản vay lớn thuộc quyền phán quyết của hội đồng tín
dụng. Trên cơ sở hồ sơ vay vốn và tờ trình của nhân viên tín dụng, hội đồng tín dụng
xem xét kiểm tra lại hồ sơ tín dụng và tờ trình để ra quyết định cấp tín dụng hay không
Trang 13
cấp tín dụng. Dù quyết định cấp tín dụng là của nhân viên tín dụng hay hội đồng tín
dụng thì cũng phải đưa ra trong thời gian ngắn nhất, đảm bảo tính kịp thời cho khách
hàng. Nếu hồ sơ tín dụng bị từ chối thì phải thông báo cho khách hàng lý do từ chối cấp
tín dụng. Trường hợp, yêu cầu cấp tín dụng được chấp thuận thì cán bộ tín dụng cùng
khách hàng tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng đảm bảo tiền vay (nếu có).
Có những trường hợp hội đồng tín dụng quyết định cấp tín dụng nhưng đã có một số
thay đổi về thời hạn cấp tín dụng, số tiền cấp tín dụng...Đây cũng là kết quả của quá
trình thẩm định, tái thẩm định hồ sơ tín dụng.
Bước 4: Giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết và có hiệu lực, các bên phải có trách nhiệm
thực hiện đúng các cam kết đã ký kết. Mỗi hợp đồng tín dụng có thể thực hiện phát tiền
vay một lần hay nhiều lần phù hợp với yêu cầu tiến độ sử dụng vốn của khách hàng.
Mỗi lần nhận tiền vay khách hàng phải xác nhận nợ (lập giấy nhận nợ). Thông thường,
TCTD sẽ tiến hành giải ngân theo tiến độ dự án.
Việc kiểm tra, giám sát sử dụng vốn tín dụng hoàn toàn thuộc quyền và trách
nhiệm của tổ chức tín dụng. Việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên trong suốt quá
trình giải ngân và thực hiện dự án (kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi phát tiền
vay), phù hợp với đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc điểm sản xuất kinh
doanh và sử dụng vốn của khách hàng. Trong quá trình kiểm tra, giám sát và sử dụng
vốn tín dụng phải thường xuyên chú ý đến các nội dung về việc tôn trọng tính mục đích
của tiền vay; tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ; giá trị hợp pháp của tài sản thế chấp và sự
duy trì giá trị này; giám sát việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Bước 5: Kiểm tra, giám sát và xử lý tín dụng
Giám sát và quản lý tín dụng được tiến hành từ khi tiền vay phát ra cho đến khi
khoản vay được hoàn trả, nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện đúng và đầy đủ những
cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, phù hợp với đặc điểm hoạt động của
TCTD và đặc điểm kinh doanh sử dụng vốn của khách hàng. Nội dung kiểm tra bao
gồm:
Thứ nhất, kiểm tra trước khi cấp tín dụng, chính là việc thẩm định các điều kiện
cấp tín dụng theo quy định.
Cán bộ tín dụng được phân công phụ trách khách hàng nào phải lập hồ sơ kinh tế
theo dõi sát tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, đặc biệt là tình hình
công nợ, tình hình quan hệ vay vốn với TCTD và các tổ chức tín dụng khác của khách
hàng đó, nhằm kịp thời tham gia ý kiến với khách hàng để lựa chọn phương án sản xuất
Trang 14