Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM sát rủi RO của bảo HIỂM TIỀN gửi VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.26 KB, 6 trang )

Nâng cao hiệu quả giám sát rủi ro của BHTGVN
Nhóm nghiên cứu phòng Giám sát I - BHTGVN
Trong 10 năm hoạt động, để góp phần giữ vững ổn định tài chính trong nước, Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) không những tổ chức chi trả cho những tổ
chứ tham gia bảo hiểm tiền gửi (TCTG BHTG) bị đổ vỡ, nâng cao niềm tin của
công chúng mà còn tổ chức giám sát rủi ro và kiểm tra thường xuyên đối với tất cả
tổ chức này. Công tác giám sát rủi ro ngay từ ngày đầu thành lập tổ chức BHTG
đã được đánh giá là đóng vai trò đặc biệt quan trọng và là một trong những nghiệp
vụ mũi nhọn của BHTGVN. Để đảm bảo hoạt động của các TCTG BHTG luôn ở
trong tình trạng tốt, kịp thời phát hiện những tổ chức có vấn đề để có phương án
giải quyết thích hợp, BHTGVN đã và đang tiến hành giám sát các TCTG BHTG
định kì và đột xuất, theo những quy trình cụ thể. Trong những năm vừa qua, công
tác giám sát của BHTGVN đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên cũng
còn nhiều khó khăn, thách thức đặc biệt khi so sánh với thông lệ quốc tế và hệ
thống BHTG của một số nước. Bài viết này sẽ khái quát kinh nghiệm của một số
tổ chức BHTG trên thế giới và thông lệ quốc tế về giám sát rủi ro; phân tích những
kết quả và khó khăn của công tác giám sát đối với các TCTG BHTG; và nêu một
số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giám sát rủi ro.
I. Kinh nghiệm quốc tế
Giám sát ngân hàng liên tục bao gồm việc kết hợp giữa các quy trình giám sát từ
xa và kiểm tra tại chỗ. Giám sát từ xa là công cụ tối thiểu của hoạt động giám sát
liên tục. Cơ quan giám sát không có quy định hoặc không có đủ nguồn lực để
kiểm tra tại chỗ định kỳ thì chủ yếu sử dụng giám sát từ xa để giám sát các điều
kiện tài chính và hoạt động ngân hàng và để xác định những tổ chức nào cần quan
tâm đặc biệt. Giám sát từ xa bao gồm phân tích và xem xét các thông tin tài chính
định kỳ và các thông tin khác liên quan tới hoạt động ngân hàng.
Về hoạt động giám sát, cơ quan giám sát ngân hàng trên thế giới hiện đã pháp triển
và áp dụng nhiều hệ thống giám sát mới nhằm đánh giá và theo dõi những thay đổi
về điều kiện tài chính và mức độ rủi ro của một ngân hàng, cảnh báo sớm để đưa
ra những biện pháp hỗ trợ hoặc điều chỉnh kịp thời.
Những hệ thống được xây dựng và phát triển từ khoảng cuối những năm 1990 cho


phép đánh giá tình hình hiện tại cũng như đưa ra các dự báo trong tương lai, cho
phép các cơ quan giám sát có thể:

1


• Đánh giá hệ thống tổ chức tín dụng theo một cơ chế bài bản và chính thức,
trong đó kết hợp giữa giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ.
• Xác định các TCTD và các lĩnh vực hoạt động của TCTD có nhiều vấn đề
hoặc tiềm ẩn rủi ro.
• Xác định thứ tự ưu tiên thực hiện kiểm tra tại chỗ để sử dụng một cách hiệu
quả nguồn nhân lực và đặt kế hoạch trước kiểm tra.
Mặc dù các phương pháp đánh giá rủi ro và cảnh báo sớm giữa các nước cũng
khác nhau, có thể nhóm các hệ thống giám sát khác nhau thành 4 nhóm chính:
• Hệ thống xếp hạng ngân hàng
• Hệ thống phân tích theo nhóm tương đồng và chỉ số tài chính
• Hệ thống đánh giá rủi ro ngân hàng toàn diện
• Mô hình thống kê
a. Hệ thống xếp hạng ngân hàng
Hệ thống xếp hạng giám sát ngân hàng được dựa trên cơ sở kết quả kiểm tra tại
chỗ, cho phép cơ quan giám sát xác định được các tổ chức cần phải lưu ý theo kết
quả xếp hạng hàng năm. Hệ thống CAMELS được xây dựng và các cơ quan giám
sát Mỹ sử dụng từ những năm 1980. Hệ thống xếp hạng theo phương pháp
CAMELS tính toán với các tiêu chí Vốn, Chất lượng tài sản, Khả năng quản lý,
Thu nhập, Tính thanh khoản và Độ nhạy đối với thị trường để xếp hạng các ngân
hàng theo mức từ 1 đến 5. Từ năm 1996, hệ thống này mới bổ sung thêm các tiêu
chí về mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.
Ngoài ra, có một số mô hình khác được sử dụng ở các cơ quan giám sát khác nhau
hoặc ở các quốc gia khác nhau như ORAP, PATROL nhưng về cơ bản, các mô
hình đó cũng dựa trên cơ sở các tiêu chí tương đối giống như mô hình CAMELS.

b. Hệ thống phân tích theo nhóm tương đồng và chỉ số tài chính
Hệ thống này sử dụng các tỉ lệ và phân tích theo nhóm tương đồng để đánh giá các
chỉ tiêu với mục đích có thể nhận diện được những vấn đề hoặc các dấu hiệu rủi ro
của các ngân hàng để đưa ra cảnh báo sớm.Ở từng quốc gia, các cơ quan giám sát
sử dụng phương pháp phân tích này với số lượng các tỉ lệ tài chính khác nhau.
Ví dụ, trong hệ thống giám sát BKIS được thực hiện vào năm 1997 ở Cơ quan
giám sát và Ngân hàng Trung ương Đức, sử dụng 47 tỷ lệ liên quan tới rủi ro và

2


khả năng sinh lợi của ngân hàng để phân tích theo tháng, quý, năm, từ đó đánh giá
khả năng phòng ngừa và chịu đựng rủi ro của từng ngân hàng.
c. Hệ thống đánh giá rủi ro
Phương pháp này cho phép các cơ quan giám sát đánh giá tổng hợp về tình hình
rủi ro của toàn bộ ngân hàng. Cụ thể, các khoản mục hoạt động của ngân hàng
hoặc nhóm ngân hàng sẽ được phân chia thành từng mục, từ đó phân tích tình hình
rủi ro, cấu trúc và kiểm soát của ngân hàng dựa trên cơ sở một số yếu tố nhất định.
Trên cơ sở đó, mô hình sẽ đưa ra kết quả chấm điểm đối với từng ngân hàng trong
những khoảng thời gian nhất định. Sau đó, sử dụng trọng số để kết hợp các phân
tích định lượng và đánh giá định tính để đưa ra mức điểm cuối cùng.
d. Mô hình thống kê
Mô hình thống kê dự báo về tình hình hoạt động của các ngân hàng được sử dụng
phổ biến trong những năm gần đây vì những mô hình này có tác dụng cảnh báo
sớm cao. Các mô hình này thường sử dụng những kĩ thuật định lượng tiên tiến để
dự báo về tình hình hoạt động và mức độ rủi ro dựa trên những số liệu hiện tại,
qua đó cho phép các cơ quan giám sát có thể phân loại những ngân hàng có mức
độ rủi ro, nguy cơ đổ vỡ cao hoặc ngân hàng có rủi ro và nguy cơ đổ vỡ thấp.
Phương pháp này được áp dụng vào đầu những năm 1990, xuất phát từ nguyên
nhân có hàng loạt các ngân hàng bị đổ vỡ ở Mỹ, chi phí để giải quyết những ngân

hàng sau khi đổ vỡ là quá lớn. Bảng dưới đây trình bày đặc điểm của các phương
pháp trên.
Đặc điểm của từng phương pháp

Xếp hạng giám sát
- Tại chỗ
- Từ xa
Phân tích theo
nhóm tương đồng
và các chỉ số tài
chính
Hệ thống đánh giá
rủi ro toàn diện
Mô hình thống kê

Đánh
giá
tình hình tài
chính hiện
tại

Dự đoán
tình hình
tài chính
tương lai

Sử dụng quy
trình phân
tích thống
kê và định

lượng

Đánh giá
định
lượng

Phân tích
rủi ro

Liên
kết
với những
hoạt động
giám
sát
chính thức

***
***

*
*

*
**

***
**

*

**

***
*

***

*

***

*

**

*

***

**

**

**

***

***

**


***

***

*

**

*

Ghi chú:
*

Không đóng vai trò quan trọng

3


**

Đóng vai trò quan trọng

***

Đóng vai trò rất quan trọng

Cơ quan giám sát của các nước G10 thường sử dụng kết hợp từ 2 hệ thống đánh
giá trở lên để đánh giá rủi ro nhằm đảm bảo có thể phát hiện những tổ chức có vấn
đề thông qua một trong những hệ thống đó. Các hệ thống được sử dụng thường

bao gồm những đánh giá về các yếu tố định lượng kết hợp với phân tích định tính.
Việc lựa chọn tỷ trọng của nhân tố định tính và nhân tố định lượng thay đổi rất
khác nhau tùy theo từng quốc gia.
II. Kết quả và hạn chế của công tác giám sát
Giám sát từ xa được coi là hệ thống cảnh báo sớm để xác định những rủi ro tiềm
ẩn của TCTG BHTG, từ đó đề xuất biện pháp giúp họ khắc phục, phòng ngừa.
Tính tới 30/11/2009, BHTGVN đã thực hiện giám sát đối với 1.130 tổ chức, bao
gồm 84 ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, 11 tổ chức tín
dụng phi ngân hàng và 1.034 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Kết quả giám sát thời gian qua đã phát hiện nhiều TCTG BHTG có vi phạm trong
hoạt động, hoặc có những vấn đề cần lưu ý theo dõi. Dựa vào kết quả giám sát đã
xây dựng hồ sơ dấu hiệu cảnh báo và tiến hành các thủ tục cảnh báo đối với những
đơn vị có vi phạm. Thông qua công tác cảnh báo đã chỉ rõ cho đơn vị thấy được
những vi phạm phát sinh, ảnh hưởng đến uy tín, sự an toàn, lành mạnh trong hoạt
động, giúp các đơn vị nhìn nhận một cách khách quan những tồn tại, sớm có biện
pháp khắc phục chỉnh sửa để phát triển tốt hơn.
Cùng với những kết quả đạt được nêu trên, công tác giám sát từ xa của BHTGVN
cũng còn nhiều hạn chế: Kết quả giám sát chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
cảnh báo sớm tới các TCTD; chưa thực hiện được việc xếp loại đối với các TCTG
BHTG thông qua kết quả giám sát.
Những hạn chế và bất cập của kết quả giám sát nêu trên bắt nguồn từ các nguyên
nhân chính sau:
• Hệ thống cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát
Hệ thống pháp luật nước ta còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ và chưa ổn định,
chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước bằng
pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính (Luật NHNN, Luật Các TCTD, Luật
Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, chuẩn mực kế toán, các quy định về thanh tra
giám sát, v.v… đang trong quá trình thay đổi, hoàn thiện). Nhiều lĩnh vực chưa có

4



luật, như lĩnh vực bảo vệ người gửi tiền, bảo vệ người tiêu dùng. Tính cụ thể,
minh bạch, rõ ràng và hiệu lực thi hành của nhiều luật chưa cao.
Thực trạng về hệ thống chính trị, pháp luật trên đã tác động và làm hạn chế không
nhỏ khả năng hoạt động của BHTGVN như chưa thể ổn định các văn bản, quy
định liên quan đến hệ thống giám sát; việc triển khai hoạt động giám sát chưa thể
đồng bộ và nhất quán.
• Nguồn thông tin đầu vào phục vụ hoạt động giám sát
Nguồn thông tin đầu vào phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa chủ yếu là báo cáo
tài chính và báo cáo liên quan khác. Tuy vậy, các báo cáo này còn sai lệch về giá
trị, chưa đầy đủ và không kịp thời nên việc đánh giá, phân tích chưa đạt được kết
quả tốt, việc cảnh báo vi phạm còn hạn chế. Ngoài ra, việc chia sẻ thông tin báo
cáo, việc phối hợp sau giám sát giữa các cơ quan giám sát cũng chưa có hệ thống
pháp lý rõ ràng và chưa được thực hiện đồng bộ, làm giảm hiệu quả hoạt động
giám sát. Hiện nay, vấn đề về tính chính xác, minh bạch và kịp thời của thông tin
báo cáo là hết sức bức thiết để có thể thiết kế các chính sách và kế hoạch ứng phó
kịp thời.
• Nguồn nhân lực
Con người luôn là yếu tố được đề cập hàng đầu trong các hoạt động nói chung.
Trong điều kiện môi trường tài chính luôn thay đổi nhanh chóng, hoạt động của
TCTG BHTG ngày càng đa dạng và phức tạp, do đó yêu cầu về chất lượng nguồn
nhân lực có trình độ cao về chuyên môn cũng như có kinh nghiệm hoạt động trong
lĩnh vực tài chính – ngân hàng là rất lớn. Trong xu thế hội nhập hiện nay, yêu cầu
nhân lực cho hoạt động giám sát không chỉ hiểu và đáp ứng được các chuẩn mực
trong nước mà còn nắm và hiểu rõ các chuẩn mực quốc tế. Trên thực tế, yêu cầu
này chưa được đáp ứng. Ngoài ra, đi kèm với việc xây dựng và duy trì nguồn nhân
lực tốt, cần có cơ chế đãi ngộ phù hợp, tạo được động lực đóng góp, cống hiến của
đội ngũ cán bộ này. Việc xây dựng một chế độ đãi ngộ như vậy thực sự là khó
khăn trong điều kiện các quy định hiện hành về chế độ đãi ngộ hiện nay của các tổ

chức nhà nước.
III. Đề xuất
1. Cơ sở pháp lý chặt chẽ và đầy đủ đi đôi với việc thực thi hiệu quả các quy định
Cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG tại Việt Nam hiện tại là chưa hoàn chỉnh,
BHTGVN hoạt động chủ yếu dưới sự điều chỉnh của Nghị định 89 và 109 và
Quyết định 75 của Chính phủ. Trong khi đó, tại các quốc gia khác, tổ chức BHTG
5


hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật BHTG. Luật BHTG sẽ là cơ sở chắc chắn
và ổn định để BHTGVN có thể đảm bảo hoàn thành các chức năng và nhiệm vụ
được giao.
Việc thực thi các quy định về BHTG là chưa hiệu quả. Các quy định về BHTG
đều đã được ban hành nhưng việc thực hiện còn thiếu tính tự giác từ các đối tượng
liên quan. Trước mắt, trong khi hệ thống thông tin báo cáo và chia sẻ thông tin đầy
đủ theo thông lệ quốc tế chưa được xây dựng, việc thực hiện chia sẻ thông tin, báo
cáo theo các quy định hiện hành giữa các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài
chính quốc gia là rất cần thiết và cần được quy định trong các văn bản pháp luật
phù hợp.
2. Cán bộ giám sát cần tăng tính tự giác trau dồi kiến thức, đồng thời cũng cần
được đào tạo chuyên sâu và có hệ thống
Trong những năm gần đây, thị trường tài chính – ngân hàng đã phát triển rất nhanh
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đi kèm với sự phát triển nhanh của các tổ chức tín
dụng là rủi ro tăng cao, công tác giám sát vì thế cũng cần được cập nhật liên tục và
ngày càng đòi hỏi tính chuyên môn cao. Một trong những lý do của sự kém hiệu
quả trong công tác giám sát là sự phức tạp trong hoạt động của các tổ chức tăng
lên nhưng năng lực của các cán bộ giám sát không tăng tương ứng. Do vậy, việc tự
cập nhật các chuẩn mực, phương pháp giám sát mới là rất cần thiết. Công tác đào
tạo cán bộ giám sát cần phải có chiến lược để theo kịp sự phát triển và hội nhập
của ngành tài chính ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.

Tài liệu tham khảo:
Supervisory risk assessment and early warning system, BIS, 2000
Early Warning Models in Real Time, Fed, 2001
Federal Reserve Board of Governors (1994), “Internal Control,” Commercial Bank Examination Manual
Core principles for effective banking supervision, BIS, 2006
Core principles for effective deposit insurance systems, BIS, IADI, 2009

6



×