Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

MỘT số GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG mại tại tòa án NHÂN dân cấp HUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.28 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ ĐỨC HOÀNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn
Mục lục

1.1

Phần mở đầu

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP


KD – TM VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM
BẰNG CON ĐƢỜNG TÒA ÁN

4

Tranh chấp kinh doanh – thƣơng mại và những yêu cầu của
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh – thƣơng mại.

4

1.1.1 Khái niệm về tranh chấp KD – TM

4

1.1.2 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM

6

1.2

Đặc điểm giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đƣờng
Tòa án

7

1.3

Một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp
kinh doanh – thƣơng mại bằng con đƣờng Tòa án.


8

1.3.1 Nhìn từ phía Tòa án.

8

1.3.2 Nhìn từ phía các đương sự

11

1.3.3 Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân

13

1.4

Những yếu tố ảnh hƣởng tới việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh – thƣơng mại tại TAND cấp huyện.

14

1.4.1 Các yếu tố tác động từ bên trong

14

1.4.2 Các yếu tố tác động từ bên ngoài

15

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

KINH DOANH THƢƠNG MẠI TẠI TAND CẤP HUYỆN
HIỆN NAY

1

20


2.1

Một số khó khăn khi áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại theo quy định hiện hành.

20

2.1.1 Về quyền khởi kiện

20

2.1.2 Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án

25

2.1.3 Về chế định áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời

37

2.1.4 Về cách thức xử lý bị đơn và những người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan vắng mặt.


41

2.1.5 Về nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ

46

2.1.6 Về sự tham gia của VKS vào quá trình giải quyết tranh chấp KD
– TM

53

2.2

Thực trạng văn hóa, truyền thống của giới Doanh nhân Việt
Nam ảnh hƣởng tới việc giải quyết tranh chấp KD – TM

54

2.3

Thực trạng địa vị của Tòa án, năng lực trình độ, phẩm chất
của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân ảnh hƣởng đến
quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM.

58

2.3.1 Địa vị pháp lý của TAND còn thiếu tính độc lập, chưa tương
xứng với vai trò là nơi bảo vệ công lý

58


2.3.2 Năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán cấp huyện về pháp luật
KD – TM còn hạn chế

61

2.3.3 Thiếu những quy định đảm bảo cho vị thế xét xử của Thẩm phán

66

2.3.4 Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết tranh
chấp KD – TM không hiệu quả

72

2.3.5 Hệ lụy của những thực trạng trên tới quá trình giải quyết tranh
chấp KD – TM

74

3.1

Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KD – TM TẠI TAND CẤP
HUYỆN

77

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD
– TM tại TAND cấp huyện.


77

2


3.2

Hoàn thiện pháp luật tố tụng – tạo quy trình khoa học thúc
đẩy tiến trình giải quyết tranh chấp KD – TM

81

3.2.1 Xác định một tinh thần thống nhất cho BLTTDS

81

3.2.2 Nâng cao sự chủ động tranh tụng của các đương sự khi tham gia
vào giải quyết tranh chấp KD – TM

82

3.2.3 Đơn giản hóa thủ tục tố tụng khi bị đơn, người liên quan không
cung cấp chứng cứ hoặc có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án

88

3.2.4 Xây dựng thủ tục rút gọn áp dụng cho những tranh chấp KD –
TM đơn giản


91

3.2.5 Hạn chế quyền kháng nghị của VKS đối với phán quyết tranh
chấp KD – TM

93

3.3

Nâng cao quyền uy của Tòa án và uy tín của Thẩm phán

94

3.3.1 Nâng cao quyền uy của Tòa án

94

3.3.2 Nâng cao uy tín của Thẩm phán

97

3.4

Thiết lập án lệ trong xét xử và công bố bản án rộng rãi

3.4.1 Thiết lập án lệ trong xét xử

99
99


3.4.2 Công bố tất cả các bản án đã xét xử một cách rộng rãi

103

KỂT LUẬN

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

108

3


DANH MỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

2

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


3

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

4

CBXX

Chuẩn bị xét xử

5

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

6

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

7

HĐXX

Hội đồng xét xử


8

HTND

Hội thẩm nhân dân

9

KD – TM

Kinh doanh, thương mại

10

LATS

Luận án tiến sĩ

11

QPPL

Quy phạm pháp luật

12

TAND

Tòa án nhân dân


13

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

14

TTGQCVAKT

Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

15

UBTVQH

Ủy ban thường vụ quốc hội

16

VKS

Viện kiểm sát

4


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài :

Nước ta đang đứng trên đà phát triển và hội nhập sâu rộng về kinh tế.
Một xã hội có nền kinh tế càng phát triển thì tranh chấp càng xảy ra nhiều,
phức tạp về tính chất và đa dạng về nội dụng. Tranh chấp KD – TM là một hệ
quả tất yếu của quá trình vận động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào
hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần có cơ
chế để giải quyết tranh chấp mở đường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là
một trong những phương thức giải quyết tranh chấp như thế.
Trong bối cảnh đang diễn ra cuộc cải cách tư pháp mạnh mẽ nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội, TAND cấp huyện đã được lựa chọn là khâu
cải cách đột phá về thẩm quyền. Trước đây chỉ những tranh chấp nhỏ, ít phức
tạp mới thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TAND cấp huyện. Hiện
nay, TAND cấp huyện đã được mở rộng thẩm quyền theo xu hướng xét xử sơ
thẩm chủ yếu tất cả các tranh chấp KD – TM. Trước hoàn cảnh đó, TAND
cấp huyện đang đứng trước những thách thức to lớn cả về mô hình tổ chức,
nhân sự lẫn cơ sở vật chất để thực hiện được nhiệm vụ mới.
Những thách thức đặt ra sẽ là cơ hội để TAND cấp huyện nâng cao
năng lực, nhưng đồng thời cũng là vật cản con đường bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nhân nếu không có những biện pháp tháo gỡ phù hợp.
Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG
MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN để làm luận văn thạc sĩ của
mình.

5


2. Mục đích nghiên cứu mà luận văn đặt ra là:
- Làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết tranh chấp
KD – TM bằng Tòa án
- Đánh giá thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giải quyết

tranh chấp KD – TM bằng Tòa án. Qua đó, nêu lên thực trạng hiệu quả giải
quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện hiện thời.
- Nêu ra một số kiến nghị khắc phục các trở lực, nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập và tự do hóa nền kinh tế.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố ảnh
hưởng tới quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM làm đối tượng nghiên
cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới quá trình giải quyết
tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình
giải quyết tranh chấp KD – TM là rất phong phú và phức tạp. Việc nghiên cứu
ảnh hưởng của tất cả các yếu tố đó là không phù hợp trong khuôn khổ của bản
luận văn này. Vì thế, tác giả chỉ lựa chọn những yếu tố chủ yếu (được trình
bầy trong chương 2) làm đối tượng nghiên cứu của luận văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp được luận văn sử dụng nghiên cứu là các phương pháp
phổ biến để nghiên cứu luật học đặt trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đó là:
- Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có bởi các bài viết, các kết quả
nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trong những lĩnh vực có liên quan
đến đề tài.

6


- Phương pháp phân tích và so sánh luật
- Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp
- Phương pháp thăm dò xã hội học
- Phương pháp điển dụ luật học.

4. Bố cục của luận văn
Luận văn có bố cục gồm 3 chương:
i)

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp KD – TM và giải
quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án.

ii)

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND
cấp huyện hiện nay.

iii)

Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
KD – TM tại TAND cấp huyện.
Với trình độ của tác giả còn hạn chế, đề tài luận văn lại liên quan đến

nhiều lĩnh vực nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tuy nhiên, tác giả
cũng đã nỗ lực cố gắng trình bầy các ý tưởng của mình một cách có hệ thống,
làm rõ sự ảnh hưởng của các yếu tố thực tiễn đến quá trình giải quyết quá
trình giải quyết tranh chấp KD – TM tại TAND cấp huyện. Hy vọng luận văn
sẽ giúp ích đôi chút cho công cuộc cải cách tư pháp đang diễn ra và là tài liệu
hữu ích cho những người đang nghiên cứu các lĩnh vực liên quan đến đề tài.

7


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KD – TM BẰNG CON ĐƢỜNG TÒA ÁN

1.1 Tranh chấp KD – TM và những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp
KD – TM.
1.1.1 Khái niệm về tranh chấp KD – TM
Con người, với bản tính tự nhiên là luôn tìm cách tối đa hóa lợi ích cho
mình nên đôi khi dẫn đến sự xung đột với lợi ích của người khác hoặc lợi ích của
cộng đồng. Do vậy, Tranh chấp tồn tại như một điều tất yếu. Chừng nào con
người còn được thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân thì chừng đó còn có những xung đột
về lợi ích. Xét ở một chừng mực nhất định, theo Triết học, mâu thuẫn còn tạo ra
động lực cho sự phát triển. Và hệ quả của nó là, để mở đường cho sự phát triển,
luôn tồn tại các phương thức để giải quyết tranh chấp.
Tranh chấp KD – TM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự
ra đời của BLTTDS năm 2004. Trước khi thuật ngữ tranh chấp KD – TM xuất
hiện, thực tiễn giải quyết tranh chấp phân chia thành tranh chấp dân sự, tranh
chấp kinh tế. Các tranh chấp phát sinh trong đời sống hàng ngày bao gồm các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân phi tài sản được coi là tranh chấp dân sự và
điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự năm 1995. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh
tế và hoạt động tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp, hoạt động mua bán
trái phiếu, cổ phiếu được coi là các tranh chấp kinh tế, được điều chỉnh chủ yếu
bởi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Tình trạng này đã được cải thiện một cách đáng kể sau nỗ lực cải cách về
tư duy pháp lý lớn vào năm 2005. Kết quả là cho ra đời BLDS năm 2005, Luật
thương mại năm 2005, bãi bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã thống
nhất về cách điều chỉnh hợp đồng. BLDS có vai trò như đạo luật gốc, điều chỉnh
liên thông tất cả các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại, hôn nhân
gia đình; BLTTDS năm 2004 ra đời đã thống nhất thủ tục giải quyết tranh chấp
nếu xảy ra đối với tất cả các quan hệ này.

8



Theo nghĩa thông thường của từ, tranh chấp KD – TM có thể được hiểu là
tranh chấp về KD – TM hoặc tranh chấp trong KD – TM. Và như vậy, có hai
khái niệm nhỏ cần làm rõ là khái niệm tranh chấp và khái niệm KD – TM trước
khi đi làm rõ khái niệm tranh chấp KD – TM.
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, Tranh chấp được hiểu là “Đấu
tranh, giằng co khi có những mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền
lợi giữa hai bên” [1, 66, tr 1024]
Theo khoản 2 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì: “Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi”
Khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”.
Với cách định nghĩa như trên, hoạt động kinh doanh và hoạt động thương
mại, có nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung
ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm ... Bởi thế, nếu tách bạch giữa hoạt động kinh
doanh và hoạt động thương mại là điều không thể. Có lẽ vậy nên BLTTDS đã
tìm cách dung hòa giữa hai hoạt động này bằng cách gọi chung là hoạt động kinh
doanh, thương mại.
Như vậy, có thể quan niệm tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất
đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số
hoặc toàn bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các
dịch vụ trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Một
cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn,
bất đồng về quyền lợi giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KD – TM.
Cách định nghĩa như trên có hạn chế là tuy chỉ ra được bản chất của tranh
chấp KD – TM là mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động KD –


9


TM nhưng lại không cho thấy được biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh doanh,
giữa các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột vừa hợp tác.
Để xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này chuyển thành tranh
chấp thì cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu đó là khi
một bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm yêu cầu phía bên kia
khắc phục nhưng không nhận được sự đồng ý. Vì vậy, theo cách này, còn có một
cách định nghĩa khác đó là tranh chấp KD – TM xảy ra khi một bên trong quan
hệ KD – TM khẳng định một trái quyền mà lại bị bên khác chống lại. [2, 15]
(tạm gọi là cách định nghĩa theo hình thức)
Cách định nghĩa thứ hai cho cách nhận biết dễ dàng hơn về tranh chấp KD
– TM và các đặc điểm pháp lý của nó. Theo cách định nghĩa này, tranh chấp KD
– TM có những đặc điểm pháp lý sau đây:
(i): Chủ thể trong quan hệ tranh chấp KD – TM là những chủ thể tham gia
vào hoạt động KD – TM nhằm tìm kiếm lợi nhuận;
(ii): Nội dung của tranh chấp KD – TM xảy ra xung quanh các quyền và
nghĩa vụ của quan hệ KD – TM mà các bên tham gia được pháp luật điều chỉnh;
(iii): Phát sinh khi một bên chủ thể trong quan hệ KD – TM mà các bên
tham gia khẳng định trái quyền của mình nhưng bị bên khác chống lại.
Tóm lại, nếu tìm một cách định nghĩa thể hiện cả nội dung và hình thức
thì có thể kết hợp hai cách định nghĩa trên và nêu ra khái niệm về tranh chấp KD
– TM như sau: Tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi
giữa các bên trong quan hệ KD – TM khi một bên khẳng định trái quyền của
mình mà lại bị bên khác chống lại.
1.1.2 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp KD – TM
Như đã phân tích, trong quan hệ KD – TM vừa có xung đột, vừa có hợp
tác. Vì thế, khi tranh chấp xảy ra, các bên luôn tìm cách nhanh chóng giải quyết
và vãn hồi lại tình trạng bình thường. Do đó, việc giải quyết tranh chấp KD –

TM cần đáp ứng được một số yêu cầu như sau:
-

Đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể
10


-

Giữ gìn uy tín, bí mật thương mại của các bên trên thương trường

-

Không cản trở hoạt động kinh doanh, chu kỳ sản xuất

-

Nhanh chóng và khôi phục sự tín nhiệm của các bên trong kinh doanh

1.2

Đặc điểm giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đƣờng Tòa án
Khi tranh chấp xảy ra, có rất nhiều con đường giải quyết mà các bên có

thể lựa chọn. Con đường nào ngắn nhất, ít tốn kém nhất có thể khôi phục lại
được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình sẽ được các bên lựa chọn. Trên thực
tế, tranh chấp KD – TM có thể được giải quyết bằng những con đường như
Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài, Tòa án.
Tòa án là thiết chế mang quyền lực tài phán cao nhất. Quyền lực tài phán
của Tòa án là đương nhiên xuất phát từ chức năng bảo vệ pháp luật của cơ quan

tư pháp. Giải quyết tranh chấp KD – TM bằng toà án là hình thức giải quyết
tranh chấp do cơ quan tài phán của nhà nước thực hiện. Được tiến hành theo
trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bản án hay quyết định của Toà án về vụ
tranh chấp được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Giải quyết tranh chấp KD – TM bằng con đường Tòa án có những đặc
trưng sau:
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án chỉ phát sinh khi bên có tố
quyền thực hiện tố quyền của mình bằng thủ tục khởi kiện tại Tòa án.
- Bằng hình thức Toà án, tranh chấp có thể được xem xét và giải quyết
qua nhiều cấp (sơ thẩm, phúc thẩm) và có thể phải thông qua thủ tục xem xét lại
bản án (giám đốc thẩm hoặc tái thẩm) theo quy định của pháp luật mà nhiều khi
không phụ thuộc vào ý chí của các đương sự;
- Quyết định có hiệu lực của toà án có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với
các bên và có thể được cưỡng chế thi hành nếu các bên không tự nguyện thi
hành.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án có những ưu, nhược điểm
sau:

11


Ưu điểm: Giải quyết tranh chấp KD-TM bằng Toà án có ưu điểm lớn là
các phán quyết của Toà án đưa ra có bộ máy cưỡng chế của Nhà nước thi hành,
đảm bảo tính hiệu lực cao của bản án.
Nhược điểm: Trình tự tố tụng Toà án rất nghiêm ngặt, cứng nhắc, thời
gian xét xử kéo dài vì phải trải qua nhiều cấp xét xử, chi phí tốn kém, xét xử
công khai, uy tín của các bên tranh chấp không được đảm bảo, bí quyết kinh
doanh khó có thể được giữ kín... Đây không phải là hình thức giải quyết tranh
chấp hấp dẫn vì nó không phù hợp với tính chất nghề nghiệp và tâm lý của các
nhà kinh doanh.

1.3 Một số tiêu chí để đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM
bằng Tòa án.
Muốn nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại, trước tiên cần xác định hiện nay hiệu quả của việc giải quyết tranh
chấp KD – TM đến đâu. Từ đó, tìm được các nguyên nhân và giải pháp để nâng
cao hiệu quả. Để có thể đánh giá hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp KD –
TM cần có những tiêu chí cụ thể và khoa học. Chính vì thế, nghiên cứu các tiêu
chí để đánh giá hiệu quả cũng là điều hết sức quan trọng để xác định thực trạng
của việc giải quyết tranh chấp KD – TM.
Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp được đánh giá trên các giác độ: (i)
nhìn từ phía Tòa án; (ii) nhìn từ phía các đương sự và (iii) Nhìn từ phía cộng
đồng doanh nhân.
1.3.1 Nhìn từ phía Tòa án.
Tòa án, trong giới hạn bản luận văn này, là cơ quan có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp mà các các bên cầu viện tới. Do đó, trong quá trình giải
quyết tranh chấp, Tòa án là cơ quan giữ vị trí trung tâm, chủ động tiến hành các
hoạt động tố tụng. Sản phẩm cuối cùng mà Tòa án đưa ra là phương án giải
quyết tranh chấp cho các bên. Phương án này có thể đạt được thông qua sự hòa
giải, cũng có thể do sự phán quyết bắt buộc của Tòa án. Nhưng, dù bằng cách

12


nào, phương án này cũng thể hiện một cách chính xác nhất hiệu quả của quá
trình giải quyết tranh chấp KD – TM.
Để đánh giá các sản phẩm đầu ra của Tòa án trong quá trình giải quyết
tranh chấp KD – TM, có thể đưa ra hai chỉ tiêu là số lượng và chất lượng.
a. Chỉ tiêu số lƣợng
Chỉ tiêu số lượng là một chỉ tiêu đánh giá khá đơn giản, đó là đánh giá
thông qua tỷ lệ các tranh chấp mà Tòa án đã giải quyết trong một đơn vị thời

gian nhất định. Chỉ tiêu này có thể thấy thông qua hai tiêu chí là (i): Tỷ lệ số
lượng các tranh chấp KD – TM đã được giải quyết trên Tổng số các tranh chấp
KD – TM mà Tòa án thụ lý giải quyết hoặc (ii): Thời gian trung bình để giải
quyết một vụ tranh chấp KD – TM. Hai tiêu chí này thực chất là một. Thời gian
trung bình giải quyết một vụ tranh chấp KD – TM càng ngắn thì cũng có nghĩa
tổng số các vụ tranh chấp KD – TM sẽ được giải quyết trong một đơn vị thời
gian càng nhiều và ngược lại.
Thông thường, mỗi năm, ngành Tòa án Việt Nam đều có những báo cáo
tổng kết trong đó thống kê số lượng các vụ án KD – TM đã được giải quyết và
tổng só các vụ án đã được thụ lý. Từ đó cho thấy một bức tranh tổng quát về tình
hình giải quyết tranh chấp trong một năm và tốc độ làm việc của các Tòa án.
Nếu chỉ dựa theo chỉ tiêu số lượng thì hiệu quả càng cao khi số lượng đầu
ra càng lớn, thời gian trung bình giải quyết một vụ việc càng ngắn và ngược lại.
Tuy nhiên, chỉ tiêu số lượng có một điểm yếu là phản ánh không đầy đủ được
thực chất của sản phẩm. Có thể Tòa án trong một năm giải quyết được rất nhiều
các vụ tranh chấp KD – TM nhưng các phương án giải quyết hoặc không thể thi
hành hoặc các bên không tìm được lợi ích thiết thân của mình trong phương án
đó thì cũng không thể nói quá trình giải quyết tranh chấp đã đạt hiệu quả. Vì vậy,
để bổ sung cho chỉ tiêu số lượng, cần phải có chỉ tiêu chất lượng để đánh giá sản
phẩm đầu ra.
b. Chỉ tiêu chất lƣợng

13


Chỉ tiêu chất lượng là chỉ tiêu đánh giá phức tạp, thực chất là một hỗn hợp
các chỉ tiêu đánh giá, mà mỗi chỉ tiêu đó chỉ mang lại một khía cạnh về chất
lượng của quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM. Có thể chỉ ra một số các chỉ
tiêu này như sau:
(i): Tỷ lệ các tranh chấp bị kháng cáo, kháng nghị trên tổng số các tranh

chấp đã được giải quyết. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hài lòng của các bên
trong quan hệ tranh chấp đối với phương án mà Tòa án đưa ra. Nếu mức độ hài
lòng của họ tốt hoặc vừa phải, chắc chắn họ sẽ không kháng cáo phán quyết của
Tòa và ngược lại.
(ii): Tỷ lệ các tranh chấp bị giải quyết lại bởi cấp phúc thẩm hoặc giám
đốc thẩm theo chiều hướng hủy án sơ thẩm hoặc sửa cơ bản án sơ thẩm. Chỉ tiêu
này có thể nói lên các “sản phẩm lỗi” của quá trình giải quyết. Các sản phẩm lỗi
này đã bị phát hiện và khắc phục.
(iii): Tỷ lệ các phương án không thể thi hành trên tổng số các phương án
giải quyết tranh chấp. Chỉ tiêu này phản ánh những “sản phẩm” tuy đã được đưa
ra nhưng không phủ hợp với tình hình thực tế, không thể “tiêu thụ” được.
c. Đánh giá kết hợp có lƣu ý sự khác biệt
Cũng cần nhìn nhận rằng, sản phẩm đầu ra của Tòa án là các dịch vụ cung
cung cấp không đồng đều. Có những vụ tranh chấp KD – TM rất đơn giản nhưng
cũng có những vụ tranh chấp KD – TM hết sức phức tạp. Nếu chỉ lấy đơn thuần
chỉ tiêu cả số lượng và chất lượng của những vụ án đơn giản để so sánh với các
vụ án phức tạp là điều không thể. Do đó, trong sự đánh giá, cần phải có sự phân
vùng. Những khu vực (kể cả khu vực mang tính địa lý và khu vực của nền kinh
tế) có thể xảy ra các tranh chấp KD – TM phức tạp đòi hỏi phải có sự lưu ý trong
đánh giá.
Cần đánh giá hiệu quả dựa trên sự kết hợp của cả 2 yếu tố chất lượng và
số lượng, không nên quá coi trọng bất cứ một mặt nào. Bởi lẽ, nếu chỉ coi trọng
số lượng thì sẽ dẫn tới hiện tượng chạy đua mà bỏ qua chất lượng của việc giải
quyết và như vậy thì chỉ tạo ra được sự hào nhoáng các số liệu ở bề nổi, còn bản
14


thân kết quả giải quyết tranh chấp thì lại không được quan tâm. Chỉ coi trọng vào
số lượng sớm muộn cũng dẫn tới sự suy giảm số lượng vì chất lượng không có
thì không thể tạo ra niềm tin của các bên giải quyết tranh chấp.

Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến chất lượng, có thể dẫn tới các Tòa án kéo
dài thời gian giải quyết và số lượng các vụ việc được giải quyết không cao. Số
lượng các tranh chấp sẽ càng ngày càng tăng dần, đa dạng và phức tạp theo sự
phát triển của nền kinh tế. Quá trình giải quyết tranh chấp KD – TM đòi hỏi cần
nhanh chóng để không cản trở hoặc làm mất cơ hội kinh doanh của các doanh
nhân. Như vậy, nếu chỉ quan tâm đến chất lượng mà không quan tâm đến việc
đốc thúc tốc độ giải quyết và nâng cao số lượng vụ việc cần được giải quyết thì
cũng như việc chỉ chú trọng đến cái tiểu tiết của từng vụ việc mà không chú
trọng tới cái đại cục của cả nền kinh tế.
1.3.2 Nhìn từ phía các đƣơng sự
Trước hết, đối với các doanh nhân, họ coi giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án cũng chỉ là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó, với
bản tính bẩm sinh của mình sẽ chỉ ra cho họ biết, phương thức giải quyết tranh
chấp hiệu quả nhất là phương thức tối đa hóa được lợi ích mang lại và tối thiểu
hóa chi phí bỏ ra. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng được lựa
chọn trên nguyên tắc đó một cách không ngoại lệ. Khi có tranh chấp KD – TM
xảy ra, họ sẽ căn cứ vào tỷ lệ lợi ích thu được với chi phí bỏ ra để theo đuổi vụ
kiện để quyết định có hay không lựa chọn Tòa án là cơ quan giải quyết tranh
chấp.
Lợi ích thu được từ việc giải quyết tranh chấp có thể được tính bởi công
thức:

L=G–C
Trong đó:
L: là lợi ích mà doanh nhân thu được từ việc cầu viện tới Tòa án giải
quyết tranh chấp để khôi phục lại các quyền và lợi ích của mình;
15


G : là giá trị kỳ vọng của doanh nghiệp được hưởng từ hoạt động kinh

doanh nếu tranh chấp không xảy ra (thường đó chính là giá trị mối lợi mà hợp
đồng mang lại);
C: là chi phí mà doanh nhân phải bỏ ra để theo đuổi vụ kiện.
Các khoản chi phí mà Doanh nhân bỏ ra để theo đuổi vụ kiện bao gồm:
- Chi phí cơ hội là giá trị cơ hội tốt nhất đã bị bỏ qua khi họ theo đuổi vụ
kiện (C1);
- Chi phí đi lại để theo kiện, thuê luật sư, chuẩn bị các tài liệu, giấy tờ để
có thể được tòa chấp nhận (C2)
- Án phí phần có thể bị bác yêu cầu và phí thi hành án nếu bên phía đối
tác không tự nguyện chấp hành phán quyết của Tòa (C3)
- Các chi phí “ngầm” và các chi phí khác mà doanh nghiệp có thể phải bỏ
ra để thúc đẩy nhanh chóng vụ kiện (C4). Đối với nền tư pháp minh bạch và các
quan Tòa có quyền độc lập thì chi phí này không có hoặc rất thấp, tuy nhiên ở
Việt nam thì điều này không thể không có.
Như vậy, tổng các khoản chi phí C sẽ là:

C = C1 + C2 + C3 +C4
Cuối cùng, thực ra L sẽ được tính trực tiếp bởi :

L = G – (C1 + C2 + C3 +C4 )
Căn cứ vào khoản lợi ích L này để các doanh nhân quyết định lựa chọn có
dùng Tòa án làm phương thức giải quyết tranh chấp KD – TM hay không hoặc
dùng phương thức khác (như Trọng tài, hoặc vận động gây áp lực từ phía các cơ
quan khác như công an, như ủy ban, các cơ quan hành chính quyền lực khác …)
hoặc từ bỏ khoản lợi ích này để đi kiếm cơ hội khác nếu nó quá nhỏ.
Tỷ lệ Lợi ích / chi phí (L/C) sẽ biểu hiện hiệu quả giải quyết tranh chấp
của Tòa án. Nếu tỷ lệ này càng cao, có nghĩa là hiệu quả giải quyết càng lớn và
ngược lại.

16



1.3.3 Nhìn từ phía cộng đồng doanh nhân
Nhìn từ phía cộng đồng các doanh nhân lại có cách đánh giá hiệu quả giải
quyết tranh chấp KD – TM một cách hoàn toàn khác. Cách đáng giá này không
chi tiết vào các chỉ số cụ thể như cách đánh giá nhìn từ phía Tòa án, cũng không
có những toan tính cụ thể như nhìn từ phía các đương sự đang có tranh chấp cần
cầu viện tới Tòa án. Cách đánh giá này đơn giản chỉ dựa vào sự tín nhiệm của
cộng đồng doanh nhân vào Tòa án. Sự tín nhiệm này có thể xuất phát bởi:
(i): Truyền thống giải quyết tranh chấp của giới doanh nhân. Truyền thống
tạo ra từ những đặc điểm tâm lý, đặc điểm kinh doanh và lịch sử ra đời của giới
doanh nhân;
(ii): Kinh nghiệm thực tiễn từ các vụ việc giải quyết tranh chấp KD – TM
bằng con đường Tòa án. Từ các tranh chấp KD – TM cụ thể đối với các doanh
nhân mà Tòa án đã giải quyết, mỗi doanh nhân sẽ có cách đánh giá riêng về hiệu
quả của Tòa án và cách đánh giá của đa số các doanh nhân sẽ tạo ra sự đánh giá
của cộng đồng;
(iii): Sự tin tưởng của cộng đồng doanh nhân rằng phán quyết của Tòa có
tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Các doanh nhân hợp với nhau thành
một cộng đồng vừa có sự hợp tác vừa có sự cạnh tranh. Ngay trong sự hợp tác
kinh doanh đã tiềm ẩn những yếu tố có thể gây ra tranh chấp. Và, khi tranh chấp
xảy ra, nếu đưa đến Tòa án, cộng đồng Doanh nhân trông đợi ở Tòa án như đại
diện cho công lý, đưa ra một phương án làm tiền lệ cho các Doanh nhân trong
các ứng xử tiếp theo. Một sự giải thích hợp lý của Tòa án hoặc một cách đánh
giá của Tòa án sẽ có tác dụng điều chỉnh hành vi của các doanh nhân trong hoạt
động kinh doanh làm giảm thiểu các tranh chấp có thể xảy ra và do đó sẽ có tác
dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.
Tóm lại: quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án thực chất là quá trình
cung cấp dịch vụ cho xã hội. Nếu dịch vụ tốt, sẽ có được lòng tin của khách hàng
và ngược lại. Như vậy, hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án được đánh giá


17


thực sự qua lòng tin và sự tín nhiệm của giới doanh nhân đối với uy tín và
phương án giải quyết của Tòa.
1.4

Những yếu tố ảnh hƣởng tới việc giải quyết tranh chấp KD – TM bằng
Tòa án
Để có thể nhìn nhận đúng đắn và có những tác động hợp lý nhằm nâng

cao hiệu quả GQTC KD-TM bằng con đường Tòa án, cần đánh giá đúng những
yếu tố tác động vào quá trình GQTC KD-TM. Khi đó, ta sẽ có đủ những cơ sở và
phương hướng tác động vào từng khâu, từng quá trình mà không bị sợ sai lầm.
Đồng thời, dưới sự phân tích các yếu tố tác động cả từ bên trong và bên ngoài,
chúng ta có cái nhìn hệ thống, tìm ra được các chi tiết còn yếu kém hoặc không
phù hợp để tạo ra sự đồng bộ, hài hòa cho cả hệ thống.
1.4.1 Các yếu tố tác động từ bên trong
Nhìn trong nội bộ hệ thống thì các yếu tố tác động bên trong gồm có: các
quy định về luật nội dung, các quy định về luật thủ tục, các tài liệu chứng cứ mà
các bên có thể xuất trình, năng lực của nguời giải quyết.
Thử tượng tượng một cách so sánh giữa giải quyết tranh chấp KD-TM với
quá trình chế tạo một sản phẩm. Với sự đơn giản nhất, làm ra một sản phẩm bị
ảnh hưởng bới những yếu tố như là: các nguyên vật liệu đầu vào; máy móc thiết
bị để gắn kết những nguyên liệu đó thành sản phẩm; công nghệ (quy trình) để
sản xuất ra sản phẩm; sau cùng là tay nghề của người thợ chế tạo ra sản phẩm
đó. Tất cả các yếu tố này có tác động một cách đồng thời tới chất lượng đầu ra
của sản phẩm. Nếu nguyên vật liệu không tốt hoặc máy móc/thiết bị hư cũ, hoặc
công nghệ lạc hậu hoặc tay nghề người thợ yếu kém đều ảnh hưởng tới chất

lượng của sản phẩm được làm ra.
Một sự so sánh dường như khập khiễng, nhưng những gì đúng với việc
sản xuất có vẻ đúng như đối với việc giải quyết tranh chấp KD-TM. Các nguyên
vật liệu đầu vào tương ứng với các tài liệu, chứng cứ mà các bên có được khi
xuất trình cho Tòa án để yêu cầu giải quyết tranh chấp; Các máy móc/thiết bị để

18


gắn kết các nguyên vật liệu đầu vào tương ứng với các quy định của luật nội
dung; quy trình/công nghệ tương ứng với các quy định từ luật thủ tục và cuối
cùng tay nghề của người thợ tương ứng với năng lực/trình độ của người Thẩm
phán.
Kết quả là, đối với việc sản xuất, đầu ra là sản phẩm hoàn hảo và làm hài
lòng người dùng. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp KD-TM là đưa ra được
một phương án hợp lý (có thể đạt được thông qua sự hòa giải hoặc xét xử), có lợi
cho xã hội, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và thúc đẩy thương mại
phát triển. Cũng thông qua phương án đó, lợi ích của xã hội, của nhà nước được
đảm bảo; quyền và các lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ, được khôi
phục.
Như vậy, để có kết quả đầu ra tốt đối với việc giải quyết tranh chấp, cần
các điều kiện đầy đủ như:
(i): Các tài liệu, chứng cứ đầu vào mà các bên xuất trình cho Tòa án đầy
đủ bao nhiêu thì Tòa án càng có những căn cứ và đánh giá chính xác so với sự
thật khách quan bấy nhiêu;
(ii): Các quy định của luật nội dung rõ ràng và đầy đủ tạo cơ sở pháp lý
cho Tòa án áp dụng pháp luật đánh giá chứng cứ và giải quyết tranh chấp một
cách đúng đắn;
(iii): Các quy định của luật tố tụng khoa học và hợp lý sẽ tạo ra các công
đoạn làm việc hợp lý, không bị trùng lắp vừa có tác dụng thúc đẩy thời gian giải

quyết nhanh chóng, vừa có tác dụng đảm bảo được chất lượng đầu ra;
(iv): Năng lực, trình độ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân sẽ là trung
tâm của sự kết nối và đưa ra phương án giải quyết tranh chấp tối ưu.
1.4.2 Các yếu tố tác động bên ngoài
Ngoài những yếu tố tác động từ bên trong quá trình giải quyết tranh chấp
KD – TM, còn có những tác động từ phía bên ngoài tới quá trình giải quyết tranh
chấp. Các yếu tố đó là sự phát triển của hoạt động kinh doanh – thương mại;
quan điểm của giới doanh nhân về việc giải quyết tranh chấp KD_TM bằng con
19


đường Tòa án, hệ thống các cơ quan bổ trợ tư pháp và các điều kiện vật chất
khác.
Những yếu tố này có tác động không trực tiếp nhưng lại gián tiếp tạo ra
môi trường lành mạnh để quá trình giải quyết tranh chấp có thể diễn ra thuận lợi
hoặc khó khăn.
(i): Sự phát triển của nền kinh doanh – thƣơng mại
Sự phát triển của nền kinh doanh thương mại tạo ra sự muôn mặt trong
quá trình GQTC KD-TM. Thực tiễn chỉ ra rằng, nền kinh tế - thương mại phải
phát triển đến một mức nhất định thì hoạt động GQTC KD-TM mới trở thành
một hoạt động giải quyết tranh chấp đặc thù, thoát khỏi quá trình giải quyết các
tranh chấp dân sự thông thường.
Đối với nền kinh tế kém phát triển và mang tính tự cung, quan hệ hợp
đồng dường như không tồn tại. Các loại hợp đồng chỉ đơn thuần với những nội
dung như vay nợ, mua bán. Sự phát triển của nền kinh tế đã dẫn tới vô vàn các
hình thức do Doanh nhân sáng tạo như tín dụng, đầu tư, sở hữu trí tuệ …Những
hình thức sáng tạo đó đã mang lại cho hoạt động giải quyết tranh chấp vẻ mặt
mới, đặc thù hơn và cũng phức tạp hơn.
(ii): Quan điểm của giới Doanh nhân đối với việc giải quyết tranh
chấp bằng con đƣờng Tòa án

Quan điểm của giới Doanh nhân ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường Tòa án có được trở lên phổ biến hay kém phổ biến.
Tất nhiên, sự cầu viện công lý là điều luôn luôn cần thiết, nhưng đó có phải là
phương án mà các bên tham gia cho là thỏa đáng và ưa thích hay không là vấn đề
cần xem xét.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án có rất nhiều ưu điểm
không ai có thể phủ nhận, tuy nhiên, nó có thích hợp hay không, hay nói cách
khác, nó có bám rễ được vào lòng xã hội hay không một phần rất lớn ảnh hưởng
từ truyền thống của xã hội. Đối với xã hội Tây Âu có truyền thống phân quyền

20


với sự độc lập của Tòa án, giới Doanh nhân đã có một thời gian rất dài được làm
quen với các phương thức tố tụng bởi Tòa án. Tòa án là thiết chế sinh ra để bảo
vệ pháp luật và các quyền tự do kinh doanh, nghĩa vụ hợp đồng của giới doanh
nhân. Do đó, các tranh chấp được cầu viện công lý tới Tòa án là điều hết sức
bình thường. Trái lại, đối với xã hội Á đông, sự tách bạch giữa một cơ quan hành
chính và một cơ quan tư pháp là không có. Những vị phán quan học hành thi cử,
tiến thân từ “kẻ sĩ” dường như xa lạ đối với giới thương nhân. Thêm vào đó, tư
tưởng đạo nho “ức thương, trọng nông” đã xếp vị trí của người thương nhân
xuống hạng bét trong xã hội đã lấy đi sự tin tưởng của giới thương nhân truyền
thống vào các cơ chế tài phán công. Bởi vậy, có thể thấy, ở các nước Á Đông
chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo Trung hoa, phương thức giải quyết tranh
chấp bằng con đường Tòa án không mấy được ưa chuộng (để xem xét cụ thể giới
Doanh nhân Việt Nam, tác giả xin được trình bầy cụ thể hơn ở chương sau)
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án chỉ có thể trở
lên phổ biến khi nó lấy được sự tin tưởng từ phía các Doanh nhân và thông qua
đó, dần dần thay đổi tư duy truyền thống. Chỉ khi ấy, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng con đường Tòa án mới được đánh giá là hiệu quả khi so sánh

với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.
(iii): Hệ thống các cơ quan bổ trợ tƣ pháp đối với việc giải quyết
tranh chấp KD-TM
Theo từ điển Tiếng Việt, từ Bổ trợ có nghĩa là “giúp thêm vào, phụ thêm
vào cho đầy đủ hơn, tốt hơn” [3, 66, tr 78]. Như vậy, Bổ trợ tư pháp có thể hiểu
là hoạt động giúp thêm vào để bảo vệ pháp luật được tốt hơn. Nghĩa của từ là
như vậy, nhưng trong giới hạn của đề tài này, hoạt động Bổ trợ tư pháp chỉ được
tác giả đề cập đến trong phạm vi hẹp là hoạt động giúp thêm cho Tòa án khi giải
quyết các tranh chấp.
Tư pháp hiện đại chỉ ra rằng, hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp luôn gắn
liền với nhau. Nhà nước đề cao việc bảo vệ pháp luật bao nhiêu thì cũng đề cao
hoạt động Bổ trợ tư pháp bấy nhiêu. Một trong những đặc trưng của Nhà nước
21


pháp quyền là luôn tạo điều kiện cho hoạt động tư pháp và hoạt động bổ trợ tư
pháp song song cùng phát triển.
Sự tồn tại của các cơ quan bổ trợ tư pháp không những giúp cho Tòa án
mà còn giúp cho các công dân bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích của
mình. Các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần làm bôi trơn và hỗ trợ cho
guồng máy giải quyết tranh chấp được chạy thông suốt.
Hoạt động đó có thể được kể ra là:
- Hoạt động giám định, định giá
- Hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý
- Hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
- Hoạt động phát mại tài sản
Đó là một số các hoạt động bổ trợ tư pháp mang tính cổ điển và thường
xuyên hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án. Tòa án, về bản
chất, là cơ quan có rất ít sức mạnh vật chất. Sức mạnh của nó nằm ở trí tuệ, ở
phán đoán và lòng yêu công bằng. Vì thế, để cho các phán quyết của Tòa án,

cũng như hoạt động của Tòa án được thông suốt, đòi hỏi phải có sự bổ trợ của
các cơ quan, tổ chức khác. Nếu những sự bổ trợ này không có hoặc không hiệu
quả thì quá trình giải quyết tranh chấp của Tòa án cũng chỉ có tác dụng trên giấy
mà không có tác dụng thực tiễn.
Đứng về mặt xã hội, các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng có ý nghĩa quan
trọng trong việc giúp các công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Nhờ có luật sư, nhờ có hoạt động công chứng, hoạt động giám định, hoạt
động thi hành án, hoạt động tư vấn và trợ giúp pháp lý mà công dân có điều kiện
để thực hiện các quyền nội dung của mình trên thực tế, có thể tạo ra các chứng
cứ, tài liệu để chứng minh cho các yêu cầu hợp pháp của mình. Sự tồn tại và phát
triển của các cơ quan bổ trợ tư pháp có ý nghĩa tạo ra một nền tư pháp chuyên
nghiệp, đồng bộ.
(iv): Các cơ sở vật chất để phục vụ cho việc giải quyết tranh KD-TM

22


Các cơ sở vật chất đóng vai trò không nhỏ trong việc thúc đẩy quá trình
giải quyết tranh chấp trở lên thuận lợi và nhanh chóng. Với những điều kiện vật
chất nghèo nàn, Tòa án khó có thể đáp ứng được công việc giải quyết tranh chấp
trong thời kỳ mới.
Thời đại về thông tin điện tử đã cho phép các bên được phép giao dịch
qua mạng điện tử, sử dụng các chữ ký điện tử, các quá trình thanh toán điện tử..
Càng ngày, những chứng cứ mà các bên cung cấp càng trở lên phong phú, không
chỉ có văn bản viết mà còn là các tài liệu nghe được, nhìn thấy, phần mềm …Tất
cả những chứng cứ và tài liệu ấy đòi hỏi người giải quyết không chỉ có trình độ
mà phải còn được cung cấp những công cụ để có thể thẩm định, xem xét được
những chứng cứ ấy. Mặt khác, có những công cụ lao động hiện đại, được hỗ trợ
về thông tin, tài liệu sẽ có tác dụng như “cánh tay nối dài” giúp cho Thẩm phán
có thể thực hiện công việc một cách dễ dàng hơn.

Điều kiện về phòng xử, phòng hòa giải, phòng làm việc, các công cụ lao
động không chỉ ảnh hưởng đến năng suất lao động của Thẩm phán mà còn ảnh
hưởng cả tới các đương sự, và tồi tệ hơn, có thể làm suy giảm đi sự uy nghiêm
của hoạt động tố tụng.
Do đó, nâng cao các điều kiện về cơ sở vật chất của Tòa án cũng là một
trong những yếu tố ảnh hưởng tích cực đến việc giải quyết tranh chấp.

23


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI TẠI TAND CẤP HUYỆN HIỆN NAY
2.1 Một số khó khăn khi áp dụng thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp KD
– TM theo quy định hiện hành.
Làm việc chuyên nghiệp hóa cần phải có quy trình. Một quy trình làm
việc hợp lý sẽ tổ chức quá trình lao động khoa học và nâng cao hiệu suất làm
việc. Đó là ý nghĩa mang tính quyết định của thủ tục tố tụng trong việc giải quyết
tranh chấp KD – TM. Không chỉ dừng lại ở ý nghĩa quy trình, Luật tố tụng còn
đảm bảo tố quyền của người dân và nâng cao dân chủ trong hoạt động công
quyền. Vì thế, nghiên cứu và hoàn thiện thủ tục tố tụng góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp KD – TM, đảm bảo các
quyền và lợi ích cho người dân.
BLTTDS năm 2004 ra đời đã có những cải thiện đáng kể về cả về thủ tục
tiến hành tố tụng và triết lý ẩn sau những thủ tục đó (xem quy trình giải quyết tại
Sơ đồ 1). Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, trên thực tế BLTTDS vẫn còn
những vướng mắc cần khắc phục.
2.1.1 Về Quyền khởi kiện
Quyền khởi kiện (Tố quyền) chính là khả năng thừa nhận đối với các chủ
thể được cầu viện đến công lý để đạt được sự tôn trọng các quyền và lợi ích
chính đáng. Các quyền của chủ thể đuợc quy định trong luật nội dung là cơ sở

của tố quyền. Không có lợi ích thì không có tố quyền, không có tố quyền mọi
quyền lợi cũng mới chỉ là quyền trên giấy mà chưa được đảm bảo thi hành bởi
quyền lực công.
Điều 161 BLTTDS quy định về quyền khởi kiện một cách khá chung
chung đó là: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Dựa vào quy định này và quy định
tại điều 29 BLTTDS về thẩm quyền giải quyết tranh chấp KD – TM của Tòa án
24


×