Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức thực tiễn vận dụng vào nhiệm vụ giảng dạy pháp luật và môn đạo đức ở trường cao đẳng cộng đồng bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN BIỆN

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠO ĐỨC - THỰC TIỄN VẬN DỤNG
VÀO NHIỆM VỤ GIẢNG DẠY MÔN PHÁP LUẬT
VÀ MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CỘNG ĐỒNG BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN BIỆN

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠO ĐỨC - THỰC TIỄN VẬN DỤNG
VÀO NHIỆM VỤ GIẢNG DẠY MÔN PHÁP LUẬT
VÀ MÔN ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
CỘNG ĐỒNG BẮC KẠN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

Hà Nội - 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ trích dẫn trong luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 10 năm 2010
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Biện


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………….……………..…………..…1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC

8

1. 1. Một số quan niệm cơ bản về pháp luật và đạo đức.……………...…..8
1.1.1. Một số quan niệm về pháp luật………………………………….........8
1.1.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của pháp luật………….....................10
1.1.3. Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội…....................................14
1.2. Quan niện về đạo đức.………………….…………...…………...…..17
1.2.1. Một số quan niệm chủ yếu về đạo đức……………….………...……17
1.2.2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ đạo đức………….….…....................21
1.2.3. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội…..............................…. ..25
1.3. So sánh một số điểm giống nhau và khác nhau giữa
pháp luật và đạo đức. …………………………..........………...….. .27
1.3.1. Điểm giống nhau giữa pháp luật và đạo đức…………………….......27
1.3.2. Điểm khác nhau giữa pháp luật và đạo đức…………..……….....….28
1.4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. ……………………..…..….31
1.4.1. Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng tồn
tại và phát triển, cùng phản ánh đời sống kinh tế xã hội đương
thời và định hướng cho sự phát triển của xã hội. ………………......31
1.4.2. Những quan niệm đạo đức tiến bộ, phù hợp được nâng
lên thành pháp luật…………………………………...…..………. 36


1.4.3. Pháp luật tác động mạnh mẽ tới ý thức, quan điểm, quan niệm
đạo đức trong xã hội, góp phần loại bỏ những tập tục lạc
hậu, xây dựng nền đạo đức tiến bộ và xây dựng lối sống mới……..38

1.5. Đạo đức là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng pháp
luật và có tác động mạnh mẽ đối với pháp luật....................................42
1.6. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức biểu hiện trong mộ số
ngành luật cụ thể:…………………………………….………...…....46
1.7. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường
hiện nay……………………...............................................................48
Chương 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT
VÀ ĐẠO ĐỨC VÀO THỰC TIỄN NHIỆM VỤ
GIẢNG DẠY MÔN PHÁP LUẬT VÀ MÔN ĐẠO
ĐỨC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG
BẮC KẠN

53

2.1. Vài nét sơ lược về Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc kạn...……….....53
2.2. Thực trạng nhiệm vụ giảng dạy môn Pháp luật học Và môn Đạo
đức học theo chương trình đổi mới ở Trường Cao đẳng Cộng đồng
Bắc Kạn……………..……………...…………………………..….....54
2.3. Vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ
giảng dạy môn Pháp luật học và môn Đạo đức học theo chương
trình đổi mới. ………………………..................................................62
2.3.1. Vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ
giảng dạy phần pháp luật học………….…..….…………………….62
2.3.2. Vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào
nhiệm vụ giảng dạy môn đạo đức học……………….……………..83


2.4. Một số giải pháp chủ yếu mhằm tăng cường vận dụng mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào thực tiễn thực hiện

nhiệm vụ giảng dạy môn pháp luật học và môn đạo đức học có
hiệu quả. …………………………………………………………...102
2.4.1. Tiếp tục đẩy mạnh Tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp
dạy học, tăng cường mua sắm các phương tiện kỹ thuật dạy
học, đổi mới cách học tập của sinh viên, giáo sinh, học sinh……..102
2.4.2. Tiến hành biên soạn các tập đề cương bài giảng môn
Pháp luật học và môn Đạo đức học để sử dụng lưu hành trong
nội bộ trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn………………...…..105
2.4.3. Thực hiện tốt các giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả mối
Quan hệ giữa Pháp luật và đạo đức vào giảng dạy theo chương
trình đổi mới………………………………………..………….....105
KẾT LUẬN…………………………………………………...…113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.………………………………...…....115


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay chưa có bài viết chuyên sâu về việc vận dụng mối quan hệ
giữa Pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ giảng dạy tại các trường cao đẳng
cộng đồng, đặc biệt là trường Cao đẳng Cộng đồng miền núi đào tạo đa
ngành nghề, chức năng nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo mã ngành Sư phạm sau
khi sinh viên, giáo sinh ra trường là những thầy giáo, cô giáo tiểu học, trung
học cơ sơ tiếp xúc nhiều với môn Đạo đức học, môn Giáo dục công dân và
đào tạo một số mã ngành khác nhằm hoàn thiện đội ngũ cán bộ thiết yếu một
số ngành trong tỉnh đáp ứng nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Trong chương trình giảng dạy môn Đạo đức và môn pháp luật học tại
các trường cao đẳng có sự đan xen kiến thức đạo đức và pháp luật, đặc biệt
là môn đạo đức học và môn Phương pháp dạy đạo đức, các sinh viên, giáo
sinh chuyên ngành Sư phạm cần nắm rõ mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức để sau khi ra trường có kiến thức cần thiết phục vụ cho nhiệm vụ giảng

dạy môn Đạo đức ở tiểu học và môn Giáo dục công dân ở trung học cơ sở.
Đối với các chuyên ngành ngoài Sư phạm, đề tài này có là tư liệu
tham hữu ích trong học tập và trong quản lý chuyên môn nghiệp vụ.
Thực hiện đề tài này còn là tư tham khảo liệu hữu ích giúp cho giảng
viên, giáo viên, các nhà nghiên cứu quan tâm có thêm cơ sở lý luận để
nghiên cứu thêm mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức và vận dụng vào
công việc thực tiễn có liên quan đế lĩnh vực này.
Với những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài "Mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức - thực tiễn vận dụng vào nhiệm vụ giảng dạy môn pháp luật
và môn đạo đức ở trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn", hy vọng đề tài sẽ
hữu ích, thiết thực cho công tác nghiên cứu, nhiệm vụ giảng dạy và học tập
tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc kạn.
1


2. Mục đích, tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục tiêu chính của đề tài là:
Phân tích để làm rõ thêm các khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của
pháp luật và đạo đức và so sánh một số chức năng, nhiệm vụ của pháp luật
và đạo đức trong đời sống xã hội để làm nổi bật tầm quan trọng của pháp
luật và đạo đức trong đời sống xã hội và làm cơ sở cho việc vận dụng vào
giảng dạy môn Pháp luật học và môn Đạo đức học ở Trường Cao đẳng Cộng
đồng Bắc Kạn theo chương trình đổi mới.
Giúp sinh viên, giáo sinh, học sinh và các độc giả quan tâm đến
chuyên đề này hiểu sâu thêm mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, trang
bị thêm cho họ một phần kiến thức quan trọng liên quan tới lĩnh vực này tạo
hành trang cần thiết đi vào cuộc sống, góp phần đào tạo họ trở thành những
cán bộ, giáo viên, người lao động có kiến thức, có tài, có đức, để xây dựng
quê hương, đất nước.
Đề tài là một trong những tư liệu tham khảo quan trọng cho các giảng

viên, giáo viên các nhà nghiên cứu tại các trường Cao đẳng nói chung, các
trường cao đẳng Cộng đồng nói riêng nghiên cứu, tham khảo vận dụng trong
thực tế công tác xây dựng cơ chế, chính sách quản lý giáo dục, và thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy các môn học có liên quan tại trường Cao đẳng Cộng
đồng Bắc Kạn.
Nhiệm vụ chính của đề tài:
Phân tích làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về pháp luật và đạo đức
và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức để làm cơ sở vận dụng vào thực
tiễn nhiệm vụ giảng dạy môn pháp luật và môn đạo đức ở Trường Cao đẳng
Cộng đồng Bắc Kạn.

2


Phân tích thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy các môn pháp
luật học và môn đạo đức học tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn.
Từ những luận cứ trên, đề tài vạch ra khuynh hướng vận dụng mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ giảng dạy môn Pháp luật
học và môn Đạo đức học tại trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn theo
chương trình đổi mới đồng thời đề tài đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả của việc vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
vào nhiệm vụ giảng dạy môn pháp luật học, môn đạo đức học ở Trường Cao
đẳng Cộng đồng Bắc kạn.
Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài là tư liệu thiết thực phục vụ việc thực hiện nhiệm giảng dạy
môn Pháp luật học và môn Đạo đức học tại các trường cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp miền núi nói chung và Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn
nói riêng.
Đề tài phân tích toàn diện, sâu sắc về toàn bộ mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức, giúp chúng ta hiểu thêm khoa học về mối quan hệ giữa pháp

luật và đạo đức và cũng là cơ sở lý luận để triển khai nhiệm vụ giảng dạy
môn pháp luật, môn đạo đức, môn Phương pháp dạy đạo đức tại Trường Cao
đẳng Cộng đồng Bắc Kạn, giúp cho giảng viên, giáo viên làm tốt hơn nhiệm
vụ giảng dạy một số môn học thuộc nhóm chính trị trong các trường cao
đẳng cộng đồng, trung học chuyên nghiệp và cả ở các trung học phổ thông.
Ngoài ra đề tài còn có tác dụng cho các cấp quản lý tham khảo định
hướng xây dựng cơ chế quản lý giảng dạy có hiệu quả hơn.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Trong những năm gần đây, thực trạng tình hình nghiên cứu mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức đã được một số nhà nghiên cứu chú ý đến và đã
có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập tới mối quan hệ giữa pháp
3


luật và đạo đức, nội dung những công trình, bài viết này đề cập tới rất nhiều
khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, cụ thể có
một số công trình nghiên cứu, bài viết có nội dung liên quan đến vấn đề này
sau đây:
* Các công trình lớn:
- Cuốn sách chuyên khảo pháp luật và đạo đức của GS.TS. Hoàng Thị Kim
Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2007.
- Cuốn sách cơ chế chuẩn mực đạo đức xã hội và hành vi đạo đức của cá
nhân của Đỗ Huy Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003.
- Cuốn Pháp quyền và nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin của
Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội, năm 2001.
- Cuốn Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn, của Hà Nhật Thăng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, năm 1988.
- Giáo trình Đạo đức học mác Lê Nin, dùng cho các trường Đại học cao
đẳng, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1983.
- Một số giáo trình và công trình nghiên cứu khác.

* Các bài viết nêu ý kiến phân tích bình luận về vấn đề này bao gồm:
- Bài "Hội nhập khu vực châu Á nhìn từ góc độ sự tương tác của nền văn
hóa pháp luật", Tạp chí Nhà nước pháp luật, số 7 - 1999.
- Bài "Tác động của các nhân tố phi kinh tế trong đời sống pháp luật", Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, số 8, 9 - 2001.
- Đề tài "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", của thầy Đào Chí Úc,
Đề tài khoa học KX-07.17, Hà Nội, 1995.
- Cuốn "Đạo đức Tư pháp và việc vận dụng các phạm trù đạo đức trong xét
sử các vụ án hình sự", của Nguyễn Tất Viễn, Tạp chí Bộ Tư pháp. số 111998.
- Một số bài viết bình luận nằm rải rác ở trong các tạp chí, báo trí khác.
4


Tất cả các giáo trình, bài viết liệt kê trên đã đề cập, phân tích tương
đối đầy đủ, chi tiết ở nhiều khía cạnh khác nhau về mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức, nhưng chủ yếu chỉ đề cập đến vấn đề mối quan hệ qua lại và
tác động của mối quan hệ này trong việc xây dựng, áp dụng pháp luật, thực
hiện pháp luật hoặc quản lý xã hội trong một lĩnh vực nào đó, chưa có bài
viết chuyên sâu về việc vận dụng mối quan hệ này vào công tác giảng dạy
tại các trường cao đẳng cộng đồng có nhiều môn học có liên quan đến kiến
thức đạo đức và kiến thức pháp luật hoặc công trình nghiên cứu với nội dung
tương tự.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích một số khái niệm, chức năng,
nhiệm vụ của pháp luật và đạo đức, so sánh chúng để xác định được giá trị
các quan niệm pháp luật và đạo đức làm nổi bật vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ và tầm quan trọng của nó trong đời sống xã hội để làm cơ sở cho
việc vận dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức, sự tác động lẫn nhau giữa pháp luật và đạo đức để làm cơ sở lý luận để
vận dụng mối quan hệ vào nhiệm vụ giảng dạy môn pháp luật, môn đạo đức,

môn Phương pháp dạy đạo đức. ở trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn.
Đưa ra một số kiến nghị về việc xây dựng cơ chế, chính sách, vận
dụng mối quan hệ này vào đổi mới giảng dạy môn Pháp luật học, môn Đạo
đức học, môn Phương pháp dạy đạo đức nhằm nâng cao chất lượng học tập.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
Để hoàn thành đề tài của mình tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu như: Kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp xã hội học,
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp luật học lịch sử, phương
pháp luật học so sánh, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, các phương
pháp cụ thể trên được thực hiện trên nền tảng phương pháp biện chứng để
5


rút ra các luận điểm tổng kết ý nghĩa lý luận và thực tiễn để khẳng định giá
trị của đề tài. Ví dụ trong chương 1 đề tài sử dụng nhiều phương pháp phân
tích, so sánh kết hợp với thống kê các quan điểm đã được thừa nhận để rút ra
những luận điểm cần thiết được sử dụng để hỗ trợ đắc lực cho các luận điểm
đề tài đưa ra. Đề tài còn sử dụng kết hợp các phương pháp khác như nghiên
cứu, so sánh các vấn đề lý luận và thực tiễn dạy học để làm tăng khả năng
thuyết phục khi đưa ra những giải pháp kiến nghị kết luận tại chương 2
khẳng định được giá trị lý luận cũng như thực tiễn của đề tài.
6. Những đóng góp của đề tài:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trên cơ sở
kế thừa một số quan điểm trước đó đồng thời nhấn mạnh phâm tích làm sâu
thêm một số quan điểm có tính thực tiễn cao, có thể vận dụng được vào thực
tiễn quản lý, giảng dạy tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc kạn.
Nội dung chính của đề tài đề cập đến lĩnh vực vận dụng mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ giảng dạy ở Trường Cao đẳng Cộng
đồng Bắc Kạn. Đề tài nhận định những nguyên nhân dẫn tới hạn chế và tìm
ra giải pháp khắc phục và có kiến nghị để ngày càng nâng cao hiệu quả thực

hiện nhiệm vụ quản lý, giảng dạy tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn.
7. Kết cấu đề tài:
Kết cấu của đề tài bao gồm 2 chương chính:
Ngoài phần mở đầu; xác định lý do chọn đề tài, cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn, mục đích, phạm vi và thực trạng nghiên cứu đề tài, sự cần thiết
thực hiện đề tài, những điểm mới của để tài và một số phương pháp nghiên
cứu đề tài, đề tài khai thác làm rõ các nội dung chính sau đây:
Chương 1; Đề tài tìm hiểu một số quan niệm về pháp luật, Bản chất,
chức năng, nhiệm vụ của pháp luật và đạo đức, tầm quan trọng của pháp luật

6


trong đời sống xã hội. So sánh một số điểm giống nhau và khác nhau giữa
pháp luật và đạo đức.
Chương 2; Đề tài xác định thực trạng và một số giải pháp về việc vận
dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức vào nhiệm vụ giảng dạy môn
Pháp luật học và môn Đạo đức học tại trường Cao đẳng cộng đồng Bắc Kạn
theo chương trình đổi mới và có đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục môn Pháp luật
học và môn Đạo đức học Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn.
Cuối cùng rút ra kết luận các nội dung chính để thấy được tính thực
tế, hữu ích của đề tài.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
VÀ ĐẠO ĐỨC

1.1. Một số quan niệm cơ bản về Pháp luật và Đạo đức.
1.1.1 Một số quan niện về pháp luật.
Có nhiều quan niệm pháp luật khác nhau đã tồn tại trong lịch sử phát
triển của nhân loại, nỗi quan niện đều có những lý do riêng giải thích cho sự
hình thành tồn tại và phát triển của pháp luật một cách khác nhau; ví dụ như:
Theo trường phái "ý tưởng" các nhà làm luật quan niệm pháp luật điều
chỉnh hành vi con người thoát ly khỏi hiện thực.
Quan niệm của thiên chúa giáo coi pháp luật là những lời răn dạy của
chúa trong kinh thánh được nhà nước thể chế hóa thành luật.
Thuyết duy danh cho rằng pháp luật xuất phát từ ý chí con người vì
chúa đã để con người tự do sinh ra các luật lệ. Trường phái "pháp luật tự
nhiên" quan niệm pháp luật vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính duy lý,
bất kỳ một sự vật hiện tượng nào cũng đều có quy luật tự nhiên, khách quan
không phụ thuộc vào nhà làm luật nào cả đặc biệt là lẽ phải và sự hợp lý
phải được coi là nguyên tắc của mọi người và các nhà làm luật phải cụ thể
hóa các nguyên tắc đó thành pháp luật. Pháp luật chỉ có thể tồn tại khi hợp
với quá trình tự nhiên đang diễn ra trong xã hội.
Trường phái "Pháp luật thực định" cho rằng pháp luật phải phù hợp
với hiện thực, phù hợp với quy tắc nhà nước ban hành ít liên hệ với pháp
luật tự nhiên quan điểm này nghiêng về quyền lực nhà nước trong việc xây
dựng, ban hành pháp luật.
Quan điểm của "Thuyết vị lợi " cho rằng mục đích của pháp luật là lợi
ích, lợi ích vừa là nền tảng, vừa là giá trị pháp luật. Cốt lõi trong giá trị pháp
luật là tìm được tỷ lệ lợi ích chung và lợi ích cá nhân. Quan điểm này đã
8


nhìn nhận được yếu tố lợi ích chứa đựng trong pháp luật, nhưng lại chưa
thấy rõ ngoài yếu tố lợi ích pháp luật còn bị tác động bởi nhiều yếu tố xã hội
khác nữa.

Thuyết tương đối của Montesquieu luận giải theo công thức luật xuất
phát từ bản chất sự vật, hiện tượng hoàn toàn mang tính tương đối vì vậy
việc nhìn nhận pháp luật cũng như các sự việc diễn ra trong xã hội như bản
thân chúng đang tồn tại khách quan và tìm ra cách xử lý vấn đề sao cho hợp
lý nhất.
Trường phái xã hội học pháp luật đặc biệt chú ý đến quá trình thực
hiện pháp luật trong thực tiễn, giành quyền phán quyết đánh giá cho tòa án
mà không bị ràng buộc nhiều bởi pháp luật nhà nước. Tòa án có thể vận
dụng luật theo sự đánh giá của mình để dạt được sự đồng thuận tối ưu của
các bên. Quan điểm này tuy rằng coi trọng hiệu quả công tác thực tiễn xét
xử, nhưng dễ dẫn tới sự tùy tiện trong công tác xét xử nên theo một số ý kiến
là quan điểm này chỉ phù hợp với một số ngành luật như luật dân sự, luật
kinh tế, luật lao động, mà không phù hợp với việc vận dụng vào xét xử các
vụ việc trong lĩnh vực hình sự, hành chính…
Học thuyết Mác - Lê Nin cho rằng pháp luật có tính giai cấp và tính
xã hội, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội là cội nguồn của pháp luật. Trên cơ
sở học thuyết Mác - Lê Nin một số định nghĩa về pháp luật đã được các nhà
nghiên cứu đưa ra, cụ thể như:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung, do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các yêu cầu về lợi ích
xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định vì sự phát triển
bền vững của xã hội. [26, tr. 228]
9


Theo như định nghĩa trên thì pháp luật không những thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị mà còn ghi nhận các nhu cầu về lợi ích xã hội và vì sự ổn
định và phát triển của xã hội. Như vậy rõ ràng pháp luật vừa mang bản chất

giai cấp vừa mang bản chất xã hội.
Dựa trên quan điểm Mác – Lê Nin về pháp luật, quan điểm về pháp
luật xã hội chủ nghĩa được định nghĩa như sau:
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của đảng, do nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và
bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên
cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực
hiện.[26, tr .337]
Theo như các định nghĩa trên, thì pháp luật đều do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận, nó có hai thuộc tính đó là tính giai cấp và tính xã hội. Khi
các quy phạm đạo đức hoặc quy phạm xã hội được nâng lên thành pháp luật
thì sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế thông
qua các cơ quan có chức năng của nhà nước.
1.1.2 Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của pháp luật.
Bản chất của pháp luật:
Ngay từ buổi đầu, để xã hội có trật tự, phải có sự điều chỉnh nhất định
đối với các mối quan hệ của con người; trong bất kỳ xã hội nào cũng có sự
điều chỉnh bằng một hệ thống các quy phạm xã hội. Khi chưa có nhà nước
các quy tắc điều chỉnh là tập quán, đạo đức, tín điều, tôn giáo…
Do kinh tế phát triển, mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được,
quá trình đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ đến mức khốc liệt dẫn tới sự ra
đời của nhà nước đồng thời xuất hiện một loại quy tắc mới do nhà nước ban
hành đó là pháp luật. Pháp luật được hình thành cùng với nhà nước trong
10


quá trình đấu tranh giai cấp một mặt giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà
nước cải tạo, sửa chữa các quy tắc phong tục tập quán, đạo đức có sẵn phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị đưa lên thành luật. Mặt khác thông qua

bộ máy nhà nước của mình giai cấp thống trị đặt ra các quy phạm pháp luật
mới, dùng quyền lực nhà nước buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân
theo nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và duy trì xã hội trong vòng
trật tự chung.
Bản chất pháp là một thể thống nhất bao gồm hai mặt - hai phương
diện cơ bản: đó là phương diện giai cấp và phương diện xã hội hay còn được
gọi là tính giai cấp và tính xã hội.
Bản chất giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ ý chí của giai cấp thống
trị được thể chế hóa thành pháp luật và được bảo đảm được thực hiện bằng
nhà nước. Nội dung ý chí do điều kiện tồn tại xã hội của giai cấp thống trị
quyết định. C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết:
"Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên
thành luật, cái ý chí mà nội dung do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai
cấp các ông quyết định".[12, tr. 262]
Bản chất giai cấp được thể hiện rõ nét nhất trong pháp luật, ví dụ như
ở nước ta Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành là căn cứ pháp lý trực tiếp,
duy nhất để các cơ quan bảo vệ pháp luật và tòa án áp dụng trong thực tiễn
nhằm giải quyết các vấn đề trách nhiệm hình sự như định tội danh, quyết
định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự…đối với hành vi bị nhà nước coi
là tội phạm. Bộ luật hình sự thật sự là một công cụ quyền uy thể hiện bản
chất giai cấp thống trị, trong một số trường hợp, người phạm tội có thể bị
tước đi cả mạng sống.
Pháp luật không chỉ phản ánh tính giai cấp mà còn thể hiện thông qua
tính xã hội của pháp luật. Trong trường hợp lợi ích của giai cấp thống trị về
11


cơ bản phù hợp với lợi ích dân tộc và lợi ích của các giai cấp khác thì pháp
luật sẽ phản ánh được lợi ích chung được số đông chấp nhận và những quy
phạm pháp luật này trở thành khuôn mẫu, chuẩn mực hành vi. Giá trị xã hội

pháp luật còn thể hiện ở chỗ quy phạm pháp luật vừa là công cụ kiểm
nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội, vừa là công cụ để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, trật tự hóa các quan hệ xã hội theo đúng hướng vận động
phát triển phù hợp với quy luật nội tại của đời sống xã hội; ví dụ như: Trong
bộ luật dân sự quy định các quy tắc ứng xử bảo đảm hài hòa lợi ích giữa cá
nhân và xã hội, đã có những quy định như khi đào giếng, đào ao hoặc xây
dưng công trình ngầm dưới mặt đất chủ sở hữu công trình phải đào ao, xây
cách mốc giới một khoảng do pháp luật xây dựng quy định. Trong trường
hợp công trình có nguy cơ đe dọa sự an toàn của bất động sản liền kề và
xung quanh thì chủ công trình phải thực hiện ngay các biện pháp khắc phục,
nếu gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề hoặc xung quanh thì
phải bồi thường. Những quy định như vậy nhằm bảo đảm hành lang pháp lý
điều hòa lợi ích giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội, vì sự phát triển
chung của cộng đồng. Tính xã hội được thẩm thấu vào pháp luật khi lợi ích
của giai cấp thống trị về cơ bản phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích
của các giai cấp khác trong xã hội.
Xu hướng dân chủ hóa xã hội, xuất hiện những đòi hỏi về nhân quyền,
các quyền tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn luôn là động lực thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội, là động lực thúc đẩy việc giải quyết hài hòa một cách tối ưu
nhất lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Chúng ta hiểu:
Các quy phạm pháp luật là kết quả tuyển chọn lâu dài trong
thực tiễn xã hội. Bản thân các quy phạm pháp luật cũng mang tính
quy luật. Những cách xử sự hợp lý, khách quan được trải nghiệm
trong cuộc sống, chuyển giao qua nhiều thế hệ rất nhiều trong số đó
12


có cội rễ từ trong xã hội tiền giai cấp được nhà nước tuyển chọn, đưa
thêm các quan điểm, lợi ích của mình thông qua những thủ tục, hình
thức pháp lý nhất định nâng lên thành luật.[26, tr. 278 - 279]

Bản chất xã hội còn thể hiện pháp luật có quan hệ chặt chẽ với các
quy phạm xã hội khác như quy phạm đạo đức, quy tắc xử sự của tổ chức xã
hội và đoàn thể quần chúng phản ánh lợi ích cơ bản, lâu dài của họ bởi vậy
một mặt pháp luật tác động mạnh mẽ tới đạo đức, mặt khác pháp luật cũng
bị ảnh hưởng của đạo đức.
Tập quán và các quy phạm xã hội khác cũng có tác động qua lại với
pháp luật cho nên để phát huy vai trò của pháp luật thì cần xem xét đến mối
quan hệ của pháp luật với tập quán và các quy phạm xã hội khác. Để pháp
luật thể hiện đúng bản chất của mình đồng thời phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội cần xem xét mối quan hệ pháp luật với nhiều yếu tố khác mới hiểu
rõ bản chất pháp luật.
Chức năng của pháp luật:
Chức năng điều chỉnh: Nhà nước ban hành pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng nhất định, một mặt nhà nước ghi nhận
những quan hệ xã hội cơ bản và phổ biến trong xã hội, mặt khác nhà nước
quy định bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội đó phát triển theo hướng
phù hợp với lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội. Bằng các quy định như khuyến
khích, cho phép, ngăn cấm, pháp luật đã tạo hành lang pháp lý, xác định
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội điều
chỉnh họ đi vào nề nếp, trật tự theo khuôn khổ quy định của pháp luật. Ví dụ
như: Quy định về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự là quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác; quy định quyền, nghĩa vụ các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các

13


quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình và một số quan hệ khác như quan hệ
thương mại, hợp đồng lao động, thừa kế…
Chức năng bảo vệ; Pháp luật bảo vệ các quan hệ xã hội cơ bản phù

hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và một số quan hệ xã hội khác. Khi có
hành vi vi phạm pháp luật xảy ra sẽ bị nhà nước dùng biện pháp cưỡng chế
quy định tại chế tài của quy phạm pháp luật tương ứng nhằm bảo vệ các
quan hệ xã hội tránh khỏi bị bị xâm hại. Bằng các quy định của mình pháp
luật tạo ra hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội vận động và phát triển
trong vòng trật tự. Khi lợi ích cơ bản của giai cấp phù hợp với lợi ích của xã
hội, lợi ích của dân tộc thì pháp luật sẽ trở thành công cụ đắc lực để bảo vệ
lợi ích phổ biến của cả cộng đồng xã hội.
Chức năng giáo dục: Trong thực tế pháp luật thực hiện chức năng giáo
dục không chỉ thông qua công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật mà còn
thông qua sự tác động trực tiếp hay gián tiếp của pháp luật vào các vụ việc
cụ thể, thông qua đó pháp luật đi vào ý thức con người, từng bước hình
thành ý thức pháp luật, hình thành hành động phù hợp với quy định của pháp
luật đã ban hành. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật góp
phần thực hiện tốt hơn chức năng này.
Nhiệm vụ của pháp luật:
Pháp luật có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp
cầm quyền trong xã hội, điều hòa các quan hệ lợi ích khác nhau trong xã hội
để giảm bớt mâu thuẫn về lợi ích, tạo ra môi trường ổn định cho sự phát
triển và điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng nhất định.
1.1.3 Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Vai trò của pháp luật đối với nhân dân:
Pháp luật tiến bộ ghi nhận một cách chính thức các giá trị và lợi ích
mà nhà nước và các chủ thể cùng hướng tới, nhờ đó các thành viên trong xã
14


hội bằng phương tiện pháp luật có điều kiện hơn trong việc bảo vệ các quyền
tự do, dân chủ và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, chống
lại các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Nhân dân có thể sử dụng pháp luật

làm công cụ hữu hiệu nhất bảo đảm cho các quyền tự do, dân chủ, các
quyền, lợi ích thiết thực, hợp pháp sẽ bảo đảm được thực hiện.
Vai trò của pháp luật đối với hệ thống chính trị:
Pháp luật là phương tiện để kiểm chứng tính đúng đắn đường lối,
chính sách của đảng cầm quyền trên thực tế, pháp luật đồng thời là công cụ
hữu hiệu, đắc lực nhất để quản lý về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đối
với các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng pháp luật pháp luật là
phương tiện cho các tổ chức đó hoạt động, pháp luật tạo nên hành pháp lý
trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước với các cơ quan nhà nước, đồng thời
pháp luật tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và
hoạt động xây dựng, quản lý nhà nước xác định nhiều quyền về chính trị như
quyền bầu cử, ứng cử và các cơ quan quản lý nhà nước.
Pháp luật là phương tiện cho mặt trận tổ quốc và các thành viên của
Mặt trận tổ quốc tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã
hội, là công cụ pháp lý của các tổ chức chính trị xã hội để xác định mối quan
hệ giữa các tổ chức chính trị xã hội với nhà nước và công dân...
Vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận, bảo vệ và định hướng cho
việc phát triển kinh tế:
Pháp luật tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Pháp
luật tiến bộ là người đồng minh tự nhiên của nền sản xuất thuộc mọi thành
phần kinh tế được công nhận và đồng thời cũng là đồng minh tự nhiên của
bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại áp bức, bất công xây dựng xã hội mới.

15


Pháp luật là một trong những nền tảng quan trọng đưa các quan hệ xã
hội hướng tới công bằng, dân chủ, văn minh, khơi dậy mọi tiềm năng, sức
sáng tạo của nhân dân, giải phóng sức sản xuất để phát triển nền kinh tế thị

trường theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy hơn
nữa quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trước hết pháp luật ghi
nhận về mặt pháp lý cho các quan hệ kinh tế phản ánh và định hướng cho
trật tự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, xác định giá trị đích thực của nền kinh
tế, đồng thời là hành lang pháp lý để cho các doanh nghiệp xây dựng mối
quan hệ bình đẳng chống lại việc hành xử ngẫu nhiên, tùy tiện, ngăn ngừa
rối loạn, khủng hoảng kinh tế. Pháp luật thể chế hóa các quan hệ hàng hóa,
tiền tệ, lợi ích giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội, các quan
hệ liên quan đến việc quản lý, điều hành kinh tế đất nước giữ gìn sự bảo đảm
cho các quan hệ này ổn định và phát triển.
Vai trò của pháp luật đối với xã hội:
Pháp luật ghi nhận, thể chế hóa các quyền tự do, dân chủ và lợi ích cơ
bản của công dân mặt khác ghi nhận những giá trị văn hóa tốt đẹp mà con
người hướng tới nhờ đó các quan hệ xã hội được bảo đảm thực hiện ngày
càng tốt hơn. Pháp luật còn là công cụ hữu hiệu bảo đảm sự an toàn tính
mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, tự do và công bằng của công dân, nhờ có
pháp luật mà công dân có điều kiện hơn trong việc tự bảo đảm các quyền, lợi
ích hợp pháp cho mình một cách tốt nhất.
Vai trò của pháp luật đối với đạo đức:
Các quy phạm pháp luật thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy, đắc lực cho
việc hình thành các chẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa. Các nguyên tắc cơ
bản nhất của đạo đức phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội thường
được thể chế hóa thành pháp luật, giữa một số chuẩn mực đạo đức xã hội
16


chủ nghĩa và pháp luật xã hội chủ nghĩa có sự đan xen về nội dung, nhiều
quy phạm đạo đức tồn tại có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện pháp luật do
vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa luôn luôn có khuynh hướng bảo vệ các quan

hệ đạo đức tiến bộ, bảo vệ sự tự do, dân chủ, công bằng, nhân đạo.
Vai trò của pháp luật đối với tư tưởng:
Pháp luật là công cụ đắc lực để chuyển tải hệ tư tưởng nhất định, là
phương tiện quản lý khoa học về thế giới quan của giai cấp cầm quyền.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là phương tiện để chuyển tải tải thế giới
quan khoa học của chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và các
giá trị tiến bộ của nhân loại, vì vậy pháp luật là công cụ chủ yếu để định
hướng hệ tư tưởng trong một xã hội nhất định.
1.2. Quan niện về đạo đức.
1.2.1 Một số quan niệm chủ yếu về đạo đức.
Từ buổi đầu sơ khai con người phải quan hệ với nhau để sinh tồn và
phát triển, mối quan hệ đó ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng, phong phú
đòi hỏi mỗi cá nhân phải lựa chọn cho mình cách ứng xử điều chỉnh hành vi
thái độ của mình cho phù hợp với lợi ích chung của mọi người, của xã hội,
của cộng đồng. Đối với những trường hợp ứng xử đúng đắn, biết kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng của con người được coi
là có đạo đức, và ngược lại những cá nhân ứng xử không đúng đắn không
biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội thì bị coi
là người không có đạo đức.
Các hiện tượng xã hội phản ánh mối quan hệ đạo đức không phải có
cội nguồn xa lạ mà bắt nguồn từ chính hành vi cuộc sống con người, đạo đức
góp phần làm cho họ nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống trong quá khứ,
hiện tại và tương lai, cho phép xác định mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng giới hạn trong vòng trật tự chung của cộng
17


đồng, của dân tộc, tạo nên nét đặc sắc văn hóa của cộng đồng, dân tộc. Sự
phát triển của đạo đức nhân loại là cả một quá trình từ thấp đến cao trên cơ
sở sự phát triển sản xuất, quá trình đấu tranh, gạn lọc, kế thừa phát triển theo

các nấc thang giá trị nền văn minh nhân loại.
Có rất nhiều quan niệm đạo đức khác nhau đã từng tồn tại trong lịch
sử của nhân loại, ví dụ như:
Khổng Tử coi trọng chữ "nhân” nghĩa, lễ, trí, tín, trong đó lấy "nhân"
làm gốc mong mỏi xây dựng xã hội tốt đẹp hơn đó là quan điểm tiến bộ,
nhưng quan niệm này chưa đầy đủ vì chỉ thiên dạy cách làm người để phục
vụ mục đích chính trị của chế độ xã hội đương thời, chưa chú ý đẩy mạnh
phát triển sản xuất, xây dựng xã hội nên chưa thể xây dựng được những quy
chuẩn đạo đức thật sự tốt đẹp, mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Max Weber chỉ ra rằng những giáo hội kháng cách ủng hộ việc tìm
kiếm các lợi ích kinh tế cách thuần lý, các hoạt động trần thế được xem là có
ý nghĩa tích cực về đạo đức, theo quan điểm này mỗi người đề có bổn phận
tôn giáo theo đuổi nghề nghiệp với lòng nhiệt tình cao nhất, điều này tạo cho
xã hội phát triển. Học thuyết này khuyến khích việc sử dụng số tiền kiếm
được cho tái đầu tư kiếm ra lợi nhuận tạo đà cho xã hội ngày càng phát triển.
Quan điểm này đã góp phần thúc đẩy lao động sản xuất làm ra của cải vật
chất, góp phần giúp cho xã hội phát triển hơn.
Chủ nghĩa hiện sinh, đề cao giá trị cá nhân, đề cao giá trị con người,
và ở một mức độ nhất định quan điểm này mang tính nhân đạo, vì nó coi
trọng nguồn lực con người, coi con người là đối tượng nghiên cứu, là chủ
thể xã hội.
Chủ nghĩa thực dụng lấy hữu dụng và vô dụng làm tiêu chuẩn để phân
biệt chân lý với sai lầm, chủ nghĩa này tuy dẫn dắt con người đi đến lối sống
thực dụng, hưởng lạc, nhưng cũng có nhiều điểm tích cực, như dẫn dắt con
18


người làm những việc thực tế, hữu ích có hiệu quả cao, thỏa mãn mục đích
mà họ lựa chọn vì vậy ở mức độ nhất định họ cũng giúp cho xã hội phát
triển nhanh chóng nhưng dễ dẫn đến sự phát triển lệch lạc.

Thực tế, con người vẫn luôn luôn mong muốn xây dựng xã hội hạnh
phúc, xã hội tự do phát triển mà ở đó cái đẹp và đạo đức ngự trị, con người
có cuộc sống lành mạnh cả về thể chất, tinh thần, một xã hội "hạnh phúc như
trời định", một xã hội hùng mạnh giàu có xuất phát từ lợi ích cá nhân không
mâu thuẫn với lợi ích tập thể…Mặc dù có nhiều quan điểm đạo đức khác
nhau giữa phương Tây và phương Đông nhưng tựu trung lại đạo đức đều
xây dựng những chuẩn mực trong ứng xử giữa con người với con người, con
người với xã hội thông qua việc giải quyết hài hòa lợi ích và sự nỗ lực của
cá nhân nhằm vươn lên trong cuộc sống.
C. Mác coi đạo đức và hạnh phúc phải là quá trình đấu tranh không
ngừng để cải tạo tự nhiên và xã hội. Đạo đức phản ánh mối quan hệ bắt
nguồn từ chính bản thân con người, trong cuộc sống đòi hỏi mỗi con người
phải ý thức được hành động của chính bản thân mình trong quá khứ, hiện tại
và tương lai, quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và xã hội trong vòng
trật tự chung của cộng đồng dân tộc. Xuật phát từ tư tưởng của C. Mác có rất
nhiều quan điểm đạo đức được nhiều người thừa nhận rộng rãi như:
Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã
hội, trong quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng
xã hội.
Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực, nhằm điều chỉnh đánh
giá cách ứng xử của con người với nhau, trong quan hệ xã hội và quan hệ
với tự nhiên.
19


×