Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện thọ xuân, tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 137 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

THI XUN CNG

Tổ CHứC Và HOạT ĐộNG CủA CHíNH QUYềN CấP Xã
TRÊN ĐịA BàN HUYệN THọ XUÂN, TỉNH THANH HOá
Chuyờn ngnh: Lớ lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN MINH TUN

H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Thái Xuân Cƣờng



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ ....................... 7
1.1.

Lƣợc sử phát triển, vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã ở
Việt Nam............................................................................................... 7

1.1.1. Lược sử phát triển và những điểm mới của Hiến pháp năm 2013
về chính quyền cấp xã ........................................................................... 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong bộ máy Nhà nước .......... 21
1.1.3. Mối quan hệ chính quyền cấp xã với hệ thống chính trị ở cơ sở ........ 24
1.2.

Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ...... 27

1.2.1. Đối với Hội đồng nhân dân cấp xã...................................................... 27
1.2.2. Đối với Ủy ban nhân dân cấp xã ......................................................... 37
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 46
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỌ
XUÂN, TỈNH THANH HÓA ........................................................... 47

2.1.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa ......................................................................................... 47

2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ........................................................... 47


2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Thọ Xuân ................................. 48
2.2.

Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trên
địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ..................................... 51

2.2.1. Thực trạng tổ chức .............................................................................. 51
2.2.2. Thực trạng về hoạt động ..................................................................... 73
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ........................................................ 84
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 90
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA ...... 91
3.1.

Một số phƣơng hƣớng, quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính quyền cấp xã ........................................................... 91

3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã phải bám
sát và thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng. ..................... 91
3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã phải xuất
phát từ yêu cầu cụ thể hoá các quy định mới của Hiến pháp 2013

về chính quyền địa phương ................................................................. 92
3.1.3. Đổi mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã phải
hướng tới xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả phù hợp với đặc điểm cụ thể ở từng địa phương; đội
ngũ cán bộ, công chức trong chính quyền cấp xã phải được chuẩn
hoá, có phẩm chất chính trị vững vàng và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao ............................................................................. 93
3.2.

Những giải pháp cơ bản đổi mới tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã ............................................................................ 94

3.2.1. Về tổ chức của chính quyền cấp xã..................................................... 97
3.2.2. Giải pháp về hoạt động của chính quyền cấp xã ............................... 101


3.2.3. Đẩy mạnh thực hiện dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã ............................................................................ 107
3.2.4. Giải quyết tốt mối quan hệ với cơ quan hành chính cấp trên, với cấp uỷ
cơ sở, mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, với các thôn,
khu phố ............................................................................................... 110
3.2.5. Các giải pháp về nguồn lực ............................................................... 114
3.3.

Một số kiến nghị, đề xuất với các cấp nhằm thực hiện có hiệu
quả công tác cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá ... 118

3.3.1. Đối với Trung ương .......................................................................... 118
3.3.2. Đối với tỉnh Thanh Hoá .................................................................... 119

3.3.3. Đối với huyện Thọ Xuân ................................................................... 120
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 121
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 125


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

ĐTNCS:

Đoàn thanh niên cộng sản

HCCB:

Hội Cựu chiến binh

HĐBT:

Hội đồng Bộ trưởng

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HLHPN:

Hội Liên hiệp phụ nữ


HND:

Hội Nông dân

LĐ-TB&XH:

Lao động – Thương binh & Xã hội

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

TTCN:

Tiểu thủ công nghiệp

UBHC:

Uỷ ban hành chính

UBND:


Uỷ ban nhân dân

XDCB:

Xây dựng cơ bản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy chính quyền ở nước ta, cấp xã là cấp thấp nhất, gần dân
nhất. Xét về vị trí, vai trò, cấp xã được xác định là có vai trò rất quan trọng, vì
đây là nơi trực tiếp đưa các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.
Ngay từ những ngày đầu khi mới khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Về hành chính: Cấp xã là
gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì
mọi công việc đều xong xuôi…” [33, tr.372].
Lịch sử hình thành và phát triển của nước Việt Nam đã chỉ ra rằng:
Làng, xã là nền tảng của đất nước, tình hình chính trị - xã hội của đất nước có
ổn định hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự ổn định ở cấp xã. Thực tiễn
cho thấy ở đâu chính quyền cấp xã vững mạnh, ở đó mọi chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, quyền làm chủ của
nhân dân được bảo đảm và phát huy; còn ở đâu chính quyền cơ sở yếu kém thì
ở đó phong trào quần chúng kém phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan mà ở cấp xã việc tổ
chức và hoạt động của chính quyền còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết,
kể cả về lý luận và thực tiễn.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong những năm gần
đây, các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã

dần được hoàn thiện hơn, vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã tiếp tục được
khẳng định và củng cố. Trong thực tế, tổ chức và hoạt động của chính quyền
cấp xã đã có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhất là về nhận thức, tư duy, phương
thức lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo
quy định. Có thể nói, hoạt động của chính quyền cấp xã đã có tính chủ động

1


hơn, trách nhiệm hơn và không còn tuỳ tiện như trước đây. Mặc dù vậy, so
với yêu cầu cải cách mở cửa và hội nhập của đất nước hiện nay thì tổ chức và
hoạt động của chính quyền cấp xã còn bộc lộ nhiều yếu kém, không ít vấn đề
trong số đó đã và đang là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển, thậm chí dẫn
đến mất ổn định tình hình ở cơ sở. Bên cạnh đó, nếu so sánh với chính quyền
cấp trên thì quá trình đổi mới về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
diễn ra chậm hơn, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách và đổi mới đất nước.
Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, đưa ra
các giải pháp cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần thực
hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" và “xây
dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[41]. Xuất phát từ
tính cấp thiết nêu trên và yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động chính quyền
cấp xã ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa nơi tác giả đang công tác, tác giả
đã lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trên địa
bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học đã được công
bố có liên quan đến vấn đề tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, tiêu
biểu có thể kể đến một số cuốn sách như:

- “Tổ chức chính quyền Nhà nước ở địa phương - Lịch sử và hiện tại”
của tác giả Nguyễn Đăng Dung, NXB Đồng Nai, 1997
- “Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã" của Ban Tổ chức
Cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước do tiến sĩ Chu Văn
Thành chủ biên, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2000.
- “Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tập 2, Tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương”,

2


NXB Tư pháp, Hà nội, 2005.
- “Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn,
NXB Công an nhân dân, năm 2006.
- Dân chủ cấp ở địa phương, Sổ tay IDEA quốc tế, do Viện Chính sách
Công và pháp luật (IPL) biên dịch và xuất bản Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà nội, 2014, truy cập tại địa chỉ: />- Cuốn dân chủ trực tiếp, Sổ tay IDEA quốc tế, do Viện Chính sách
Công và pháp luật (IPL) biên dịch và xuất bản Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà nội, 2014, truy cập tại địa chỉ: h1ttp://ipl.org.vn/An-phamda-xuat-ban/Cuon-Dan-chu-truc-tiep-a33.
- Kỷ yếu Hội thảo về tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013,
Kỷ yếu Hội thảo do Viện chính sách công và pháp luật và Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp tổ chức, truy cập tại địa chỉ: />Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý có
nhiều các bài viết đăng tải trên các tạp chí, trang thông tin điện tử như:
- Tham luận “Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề tự quản địa
phương tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Phương tại Hội thảo:“Tổ
chức chính quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”
diễn ra tại Ninh Thuận tháng 4/2013.
- Bài viết “Chính quyền địa phương trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992” của tác giả Vũ Lương đăng trên Tạp chí Cộng sản số 851, T9/2013.
- Bài viết “Các quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp

năm 2013” của tác giả Hoàng Thế Liên đăng trên Tạp chí Dân chủ & Pháp
luật, số chuyên đề triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
- Bài viết “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Luật Tổ chức
chính quyền địa phương” của tác giả Nguyễn Văn Cương đăng trên Tạp chí

3


Dân chủ & Pháp luật, số chuyên đề triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
- Bài viết “Mô hình tổ chức chính quyền địa phương - sự phát triển qua
4 bản hiến pháp và vấn đề đổi mới” của tác giả Trương Đắc Linh - Trường
ĐH Luật Thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên Cổng thông tin điện tử của
QH: />- Tham luận “Cải cách hệ thống chính quyền địa phương ở Việt Nam –
Cấp huyện hay cấp xã?” của tác giả Phan Thị Lan Hương đăng trên trang
web:, xuất bản ngày 01/3/2013.
Nhìn chung, những công trình nói trên thể hiện tính nghiêm túc trong
học thuật, đồng thời chỉ ra một cái nhìn tổng quan về chính quyền địa
phương nói chung và chính quyền cấp xã nói riêng. Tác giả luận văn mong
muốn sẽ kế thừa những thành tựu mà những công trình đi trước đã đạt được
và sẽ tiếp nối những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra mà các công trình
nghiên cứu trước chưa có điều kiện giải quyết trên cơ sở lý luận và thực
tiễn nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trên địa
bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề mang tính lý
luận về chính quyền cấp xã ở nước ta, làm rõ vị trí, vai trò của chính quyền
cấp xã; phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã ở nước ta, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cụ thể về tổ chức
và hoạt động của HĐND và UBND cấp xã trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt

động của chính quyền cấp xã ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng và
cả nước nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là “Tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã”.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu, đánh giá thực trạng
về tổ chức và hoạt động của chính quyền các xã, thị trấn trên địa bàn huyện

4


Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp
phân tích-tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể và một
số phương pháp khác. Tất cả các phương pháp trên đều được vận dụng trên cơ
sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh, cũng như các phương
pháp tiếp cận khách quan, khoa học khác để từ đó rút ra những kết luận làm
sáng tỏ mục đích của đề tài, phục vụ cho lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn giới thiệu tổng thể về quá trình phát triển, thực trạng pháp
luật về cơ cấu tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã ở nước ta qua thực
tiễn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra một số nhận xét, đánh giá.
- Tác giả luận văn cũng đưa ra những yêu cầu, quan điểm, một số giải
pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong cả
nước nói chung, ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa nói riêng, phù hợp với
công cuộc cải cách hành chính của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã.
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
trên địa bàn huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hoá.

5


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Lƣợc sử phát triển, vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã ở Việt Nam
1.1.1. Lược sử phát triển và những điểm mới của Hiến pháp năm
2013 về chính quyền cấp xã
Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến,
nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với
HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính
thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền
cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận
cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được
thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là
các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân
nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa

ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình
hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 02/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó đến nay, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
quy định về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và
chính quyền cấp xã nói riêng. Quá trình hình thành và phát triển của chính
quyền cấp xã gắn liền với những giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam,
vì thế chúng ta có thể phân chia như sau:
- Từ 1945 đến 1954: Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra

7


đời, trong điều kiện chưa có Hiến pháp xác lập hệ thống chính quyền các cấp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành Sắc lệnh 63 và Sắc lệnh 77. Sắc
lệnh số 63 ngày 23/11/1945 về tổ chức HĐND và UBHC ở xã, huyện, tỉnh,
kỳ. Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức HĐND và UBHC thành phố,
khu phố. Theo 2 Sắc lệnh này, chính quyền địa phương có 4 cấp: cấp kỳ, cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp xã, trong đó cấp tỉnh và cấp xã là 2 cấp chính quyền
hoàn chỉnh có HĐND và UBHC, còn cấp kỳ và cấp huyện chỉ có UBHC.
Chính quyền xã gồm có HĐND và UBHC xã, HĐND do cử tri xã bầu ra, có
quyền quyết định những vấn đề ở xã, nhưng có những vấn đề phải được
UBHC cấp huyện, tỉnh chuẩn y; còn UBHC xã do HĐND xã bầu trong số các
hội viên HĐND. UBHC xã có nhiệm vụ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên,
thực hiện Nghị quyết của HĐND cùng cấp, triệu tập các kỳ họp HĐND xã và
giải quyết các công việc trong xã. Đến ngày 09/11/1946, bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (gọi tắt là Hiến pháp 1946),
đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Theo Hiến pháp 1946, tổ chức chính quyền cấp xã về cơ bản vẫn như Sắc
lệnh 63 và Sắc lệnh 77.
- Từ 1954 đến 1975: Giai đoạn này, đất nước tạm thời bị chia cắt thành 2
miền có nhiệm vụ khác nhau: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống
nhất nước nhà ở miền Nam. Trong điều kiện đó, Quốc hội ban hành Hiến pháp
năm 1959 và Luật tổ chức HĐND và UBHC năm 1962 cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Các đơn vị
hành chính lúc này được phân định: “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, khu tự trị; tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; huyện
chia thành xã, thị trấn; thành phố chia thành các khu phố” [42, Điều 1]. Cấp
kỳ không còn nữa nhưng lại có Khu tự trị, các khu tự trị chia thành tỉnh; tỉnh
chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn.

8


Mỗi đơn vị hành chính đều có HĐND và UBHC, UBHC cấp nào do HĐND
cấp đó bầu ra. So với trước tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
có nhiều thay đổi, cụ thể là:
+ Xác định rõ địa vị pháp lý của HĐND và UBND:
“HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa
phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương” [42, Điều 2].
Như vậy HĐND vừa thay mặt cho nhân dân địa phương, vừa thay mặt cho nhà
nước ở địa phương. “UBHC là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương” [42, Điều 3].
+ Luật tổ chức HĐND và UBND là cơ sở pháp lý chung cho tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương không phân biệt nông thôn hay thành
phố; hạn chế, thu hẹp những vấn đề chính quyền cấp trên phê chuẩn những
quyết định của cấp dưới (trừ những vấn đề quan trọng như phê chuẩn kết quả
bầu cử hay bãi miễn…).

+ Số lượng thành viên các cơ quan trong chính quyền cấp xã tăng lên:
Về số lượng đại biểu HĐND, Khoản 1, Điều 11 Pháp lệnh về việc bầu
cử HĐND các cấp năm 1961 quy định:
Thị trấn và xã miền xuôi có từ 2.000 nhân khẩu trở xuống bầu
cử 20 đại biểu; có trên 2.000 nhân khẩu, thì ngoài số 20 đại biểu tính
cho 2.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 200 nhân khẩu thì được bầu
thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 35 đại biểu.
Thị trấn và xã miền núi và hải đảo có từ 700 nhân khẩu trở
xuống bầu cử 20 đại biểu, có trên 700 nhân khẩu, thì ngoài số 20
đại biểu tính cho 700 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm từ 150 đến 200
nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được
quá 35 đại biểu.
Các thị trấn và xã miền xuôi và miền núi có trên 6.000 nhân

9


khẩu thì có thể bầu tới 40 đại biểu, nhưng số đại biểu thị trấn và xã
không được nhiều hơn số đại biểu HĐND cấp trên trực tiếp.
Các xã dưới 300 nhân khẩu có thể bầu dưới 20 đại biểu [63, Điều 11].
Về số lượng thành viên UBHC, Điều 51, Luật Tổ chức HĐND và
UBHC năm 1962 quy định: “Thành viên UBHC phải là đại biểu HĐND. Các
UBHC xã, thị trấn có từ 5 - 7 người. Ở các xã miền núi có nhiều dân tộc ở
xen kẽ thì UBHC có từ 5 - 9 người” [42, Điều 51].
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của cấp xã được mở rộng thêm, cụ thể là:
Luật Tổ chức HĐND và UBHC 1962 quy định:
HĐND xã và HĐND thị trấn có nhiệm vụ và quyền hạn như
sau: Căn cứ vào kế hoạch kinh tế và văn hoá của cấp trên, quyết
định kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá và những sự nghiệp lợi ích
công cộng của xã, thị trấn. Xét duyệt dự toán và phê chuẩn quyết

toán ngân sách của xã, thị trấn. Căn cứ vào pháp luật của Nhà nước,
ra những quy định về trật tự trị an, về vệ sinh chung của xã, thị trấn.
Những quy định này, trước khi thi hành, phải được UBHC cấp trên
trực tiếp phê chuẩn [42, Điều 19].
Luật Tổ chức HĐND và UBHC 1962 quy định:
UBHC xã và UBHC thị trấn có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
+ Chấp hành kế hoạch kinh tế, văn hoá và ngân sách của xã,
thị trấn;
+ Giúp các hợp tác xã xây dựng và thực hiện kế hoạch sản
xuất; đôn đốc giám sát các hợp tác xã và công dân thực hiện mọi
nghĩa vụ đối với Nhà nước; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết
trái pháp luật của hợp tác xã, nhưng phải báo ngay lên cấp trên trực
tiếp để quyết định;
+ Quản lý hệ thống tiểu thuỷ nông, các đường giao thông của
xã; quản lý công tác bưu điện và truyền thanh;

10


+ Thu thuế, thu nợ, thu mua cho Nhà nước; quản lý chợ, bến đò;
+ Đôn đốc việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của ngân
hàng; lãnh đạo việc củng cố và phát triển các hợp tác xã vay mượn,
quỹ tín dụng;
+ Quản lý tài sản công cộng;
+ Xây dựng trường phổ thông; quản lý các lớp mẫu giáo, lớp
vỡ lòng; lãnh đạo việc phát triển các nhà giữ trẻ, vườn trẻ;
+ Quản lý các trạm y tế, nhà hộ sinh và các sự nghiệp lợi ích
công cộng; quản lý công tác văn hoá, thông tin, thể dục thể thao;
+ Quản lý lao động và công tác cứu tế và xã hội;
+ Quản lý công tác hộ tịch;

+ Giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài sản công cộng, xây dựng lực
lượng hậu bị, dân quân, tự vệ và thi hành các công tác quân sự khác;
+ Quản lý các công tác khác do cấp trên giao cho [42, Điều 48].
- Từ năm 1975 đến trước năm 1992: Sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, nước nhà thống nhất, Quốc hội quyết định bỏ khu tự trị, đổi tên
nước… Để có cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước trong bối cảnh đất nước đã hòa bình và thống nhất, nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đã chuyển sang giai đoạn mới, Quốc hội ban hành bản
Hiến pháp 1980. Điều 113, Hiến pháp 1980 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
đơn vị hành chính tương đương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành
phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;

11


Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã
chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập HĐND và
UBND [39, Điều 113].
Trên cơ sở Hiến pháp, năm 1983 Quốc hội ban hành luật tổ chức
HĐND và UBND. Theo đó, chính quyền địa phương lúc này chỉ có 3 cấp là
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã (cấp xã bao gồm xã, phường, thị trấn); vị trí
pháp lý của các cơ quan trong bộ máy chính quyền địa phương cơ bản vẫn giữ
nguyên, UBHC được đổi tên thành UBND; nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền cấp xã giao nhiều hơn trước, cụ thể:
- Theo quy định tại Điều 20 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983,

HĐND xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ và quyền hạn:
Thực hiện các chủ trương, chính sách và công tác của Nhà
nước ở địa phương; quyết định các biện pháp giúp đỡ và giám sát các
hợp tác xã và các tổ chức kinh tế tập thể khác về các mặt xây dựng
và thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, phân phối, chấp hành
các chế độ, thể lệ tài chính, giá cả và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước;
xây dựng, bảo dưỡng và quản lý đường giao thông, các cơ sở văn
hoá, thông tin, giáo dục, y tế, xã hội, phân phối, lưu thông, dịch vụ ở
địa phương; bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự
và an toàn xã hội ở địa phương; vận động và giúp đỡ nông dân cá
thể, người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác
tiến lên con đường làm ăn tập thể; xây dựng nếp sống mới, xoá bỏ
nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín, dị đoan. [43, Điều 20].
Về tổ chức, HĐND cấp xã được bầu từ 15-45 đại biểu (tùy theo dân số,
vùng, miền) và có nhiệm kỳ là 2 năm. Số lượng đại biểu HĐND cấp xã được
mở rộng hơn và tăng so với quy định của Pháp lệnh bầu cử HĐND 1961.

12


- UBND do HĐND cùng cấp bầu ra, số lượng từ 7 - 9 người (1 Chủ
tịch, 1 - 2 Phó Chủ tịch, 1 Ủy viên thư ký, 3 - 5 Ủy viên khác phụ trách quân
sự; giao thông, thủy lợi; làm trưởng ban chuyên môn hoặc phụ trách các thôn,
bản); có Thường trực UBND; có các ban, trạm chuyên môn giúp UBND gồm:
Ban Kinh tế - kế hoạch; Ban Tài chính; Ban Văn hoá - xã hội; Ban Công an
xã; Ban Quân sự; Ban Thanh tra; Trạm Y tế; Trạm Bưu điện.
Nhiệm vụ quyền hạn của UBND cấp xã không được quy định riêng mà
thực hiện các nhiệm vụ luật xác định chung cho UBND các cấp trong phạm vi
thuộc thẩm quyền quản lý của mình [43, Điều 46, 47, 48].
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1989 Quốc hội ban hành

Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật bầu cử đại biểu HĐND thay thế Luật năm
1983. Theo luật mới số lượng đại biểu HĐND cấp xã từ 15 – 35 [44, Điều 9],
nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm [44, Điều 4], thành lập Ban thư ký HĐND cấp xã
[44, Điều 29]. Đối với UBND thì cơ bản không thay đổi [44, Điều 44, 45, 46, 47].
- Từ năm 1992 cho đến nay: Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội
khóa IX, kỳ họp thứ 5, ngày 21/6/1994 đã thông qua Luật tổ chức HĐND và
UBND thay luật 1989. Luật mới quy định HĐND cấp xã có từ 19 - 25 đại
biểu, nhiệm kỳ hoạt động là 5 năm; không có Thường trực Hội đồng như cấp
tỉnh và huyện mà chỉ có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND. UBND cấp xã từ 5 7 người, không được tổ chức các cơ quan chuyên môn [45].
Sau khi Hiến pháp 1992 được bổ sung, sửa đổi một số điều cho phù
hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, Quốc hội khóa
đã ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật bầu cử đại biểu
HĐND năm 2003. Theo các văn bản trên, tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã được quy định cụ thể như sau: HĐND cấp xã có số lượng đại
biểu tối thiểu là 15 (xã dưới 1.000 dân) và tối đa không quá 35 [47, Điều 49];
được tổ chức Thường trực HĐND [46, Điều 5]. UBND cấp xã do HĐND

13


cùng cấp bầu ra, có số lượng từ 3 - 5 thành viên [46, Điều 122], giúp UBND
cấp xã có các công chức xã là những người được tuyển dụng, giao giữ một
chức danh chuyên môn cấp xã [64, Điều 1] và một số cán bộ không chuyên
trách giúp việc.
So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ vị trí
của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân... Chức năng, nhiệm vụ của
HĐND được khái quát [40, Điều 120] là phù hợp với kỹ thuật của lập pháp.
Thẩm quyền của đại biểu HĐND được đề cao, nhất là quyền chất vấn và
quyền kiến nghị các cơ quan nhà nước ở địa phương [40, Điều 122]). Thẩm

quyền và trách nhiệm của UBND và Chủ tịch UBND cùng chế độ làm việc
tập thể được xác lập rõ.
Tuy nhiên, mô hình tổ chức chính quyền địa phương quy
định trong Hiến pháp năm 1992 không phù hợp với bối cảnh mới,
không phân biệt chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn.
Việc phân chia các đơn vị hành chính lãnh thổ còn hình thức, nhiều
cấp không phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính theo hướng
giảm cấp và giảm đầu mối, tăng giao dịch trực tiếp của người dân
với cấp chính quyền trực tiếp giải quyết công việc trong quá trình
hiện đại hóa nền hành chính.
Quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương là chưa đúng với tổ chức quyền lực thống nhất trong một
nhà nước đơn nhất của Việt Nam, do đó vô hình trung đã hình
thành hệ thống lập pháp ở cả địa phương.
Việc áp dụng chế độ làm việc tập thể tràn lan, chưa đề cao
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu hành chính địa phương các cấp
trong chấp hành Hiến pháp và pháp luật, trong điều hành hành chính.

14


Chưa xác lập nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quan hệ
Trung ương - địa phương, do đó tính tự quản của HĐND, chính
quyền địa phương chưa được xác lập để tăng tính chủ động, năng
động và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân và cơ quan
nhà nước cấp trên [36].
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã thông qua bản Hiến
pháp mới (Hiến pháp 2013), có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Đây là bản
Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ,
phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, là cơ sở mở đường cho việc tiếp tục

cải cách và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới theo
tinh thần các văn kiện của Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). Theo đó, tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương (gồm cả chính quyền cấp xã) có
nhiều nội dung mới:
Thứ nhất: Đổi tên Chương IX từ “HĐND và UBND” thành “Chính
quyền địa phương”. Việc thay đổi tên chương từ “HĐND và UBND” thành
“Chính quyền địa phương” cho phép nhìn nhận chính quyền địa phương như
là một thực thể tồn tại khá độc lập so với chính quyền trung ương.
Thứ hai: Về phân cấp đơn vị hành chính, theo quy định tại Khoản 1,
Điều 110, Hiến pháp 2013 thì về cơ bản các đơn vị hành chính của nước ta
vẫn chia thành 4 cấp nhưng có bổ sung một số quy định mới như: Có thêm
đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã, thành phố trong
thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do
Quốc hội thành lập. Khoản 2 Điều 110 Hiến pháp 2013 quy định:
Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo trình tự,
thủ tục do luật định [41, Điều 110]. Có thể nói Quy định này có tính

15


mở về loại hình đơn vị hành chính nhưng vẫn đảm bảo tính ổn định
của các đơn vị hành chính, tránh tình trạng “nhập – tách” có phần
dễ dãi, thiếu căn cứ, minh bạch, công khai và nhất là thiếu sự tham
gia có tính quyết định của nhân dân như thực tế lâu nay [32, tr.87].
Thứ ba: Về tổ chức chính quyền ở địa phương, khoản 2 Điều 111 Hiến
pháp 2013 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và
UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định” [41, Điều 111]. Với quy định này,

luật phải tiếp tục cụ thể hóa những điều kiện tổ chức các loại chính quyền địa
phương khác nhau (giữa chính quyền đô thị và nông thôn; giữa đơn vị hành
chính tự nhiên và đơn vị hành chính nhân tạo). Quy định này cũng tạo cơ sở
để xây dựng những quy chế đặc thù cho một số địa phương cụ thể theo luật
định xuất phát từ nhu cầu thực tế của một số địa phương như Thủ đô Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng trong thời gian vừa qua.
Thứ tư: Về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hiến pháp
2013 đã có quy định riêng với tư cách là một thiết chế hiến định. Khoản 2,
Điều 112 Hiến pháp 2013 quy định:“Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa
phương” [41, Điều 112].
Đồng thời Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò tự quản và tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương, trao cho người dân địa phương có
quyền quyết định những vấn đề của địa phương. Chính quyền địa phương vừa
là cơ quan “tổ chức, bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật”; “chịu sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”, nhưng đồng thời có quyền
“quyết định các vấn đề của địa phương do luật định” [41, Điều 112].
Hiến pháp năm 2013 quy định HĐND có quyền “quyết định các vấn đề

16


của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương và việc thực hiện Nghị quyết của HĐND” [41, Điều 113], “Việc
thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến
nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” [41, Điều 110].
Đây là những định hướng quan trọng để xây dựng cơ chế điều chỉnh
mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và trung ương cũng như giữa các
cấp chính quyền địa phương sắp tới. Vì nếu phân định rõ được thẩm quyền

của mỗi cấp chính quyền theo hướng phân cấp mạnh mẽ thì sẽ xác định trách
nhiệm, đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền.
Như vậy, những quy định mới của Hiến pháp 2013 về chính quyền địa
phương khá nhiều sẽ được cụ thể hoá trong Luật Tổ chức chính quyền địa
phương sắp tới. Vì thế, chính quyền cấp xã cũng được đứng trước cơ hội lớn
trong việc cải cách, đổi mới về tổ chức và hoạt động của mình, tuy nhiên vẫn
còn những vần đề cần làm rõ về chính quyền địa phương nói chung và chính
quyền cấp xã nói riêng như: Địa vị pháp lý của HĐND, UBND, về đại biểu
HĐND, về thành viên UBND, về mối quan hệ của chính quyền địa phương với
cấp uỷ, với MTTQ và các đoàn thể, với thôn, bản…trước khi được quy định
trong Luật để đảm bảo đúng quy định của Hiến pháp 2013 và thực tiễn đang
đặt ra, vấn đề này sẽ được bàn cụ thể hơn trong Chương 3 của Luận văn.
Quá trình lược sử trên cho chúng ta thấy: “Xã, thị trấn luôn là đơn vị
hành chính cơ bản mọi thời kỳ, có cả HĐND và UBND” [70, tr.16]. Chính vì
vậy mà trong thời kỳ, hoàn cảnh nào chính quyền cấp xã luôn được Đảng,
Nhà nước ta quan tâm xây dựng, củng cố để có khả năng làm tốt nhiệm vụ,
bảo đảm cho chính quyền nhà nước vững mạnh từ cơ sở. Tổ chức bộ máy
chính quyền cấp xã là cơ sở của hệ thống nền hành chính quốc gia, làm cho
bộ máy quản lý nhà nước thông suốt từ Trung ương tới cơ sở, có hiệu lực và
hiệu quả. Chính quyền cấp xã là một bộ phận trong trong bộ máy chính quyền

17


nhà nước, nó có tính liên tục và ổn định để thực hiện nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Nhà nước. Trải qua các lần Đại hội Đảng từ khoá VI đến khoá XI,
trong văn kiện của Đảng đều có đề cấp đến công tác tổ chức và hoạt động của
chính quyền cấp xã. Gần đây nhất, kết luận về tiếp tục đổi mới hệ thống chính
trị từ Trung ương đến cơ sở, Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục nêu rõ:
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND xã,

phường, thị trấn phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm
vụ mới. Quy định dưới xã, phường, thị trấn là thôn, tổ dân phố và
tương đương (có quy mô phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn,
miền núi), chủ yếu hoạt động theo mô hình tự quản của cộng đồng
dân cư, hạn chế tối đa việc sử dụng kinh phí từ ngân sách. Thực
hiện khoán kinh phí hoạt động cho các tổ chức chính trị - xã hội ở
cấp xã, thôn, tổ dân phố và tương đương, đảm bảo phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương [2, tr.6].
Phân tích về quá trình hình thành và phát triển của chính quyền cấp xã
qua các thời kỳ như trên, có thể thấy chính quyền cấp xã có những đặc điểm
cơ bản như sau:
- Một là: Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền thấp nhất trực tiếp
tiếp xúc với nhân dân. Cán bộ, công chức cấp hàng ngày sinh hoạt với người
dân trong rất nhiều mối quan hệ, không chỉ là quan hệ giữa chính quyền với
người dân mà còn là quan hệ gia đình, họ hàng, xóm giềng đã được hình
thành và gắn bó lâu đời với những thủ tục, quy tắc (có cả thành văn và bất
thành văn) ràng buộc. Khi giải quyết công việc cụ thể, cán bộ cấp xã phải làm
trực tiếp, không thể thông qua cấp chính quyền trung gian nào khác. Một mặt
vừa phải đảm bảo giải quyết đúng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; mặt khác lại phải phù hợp với tình hình thực tế của tại chỗ,
đảm bảo các mối quan hệ ràng buộc, thấu tình đạt lý để được chấp nhận.

18


Ngoài ra, trong điều kiện đổi mới và hội nhập hiện nay đòi hỏi cán bộ nói
riêng và chính quyền cấp xã nói chung phải có tư duy mới, trình độ và kiến
thức cao hơn về lý luận chính trị, quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội…(Ví dụ:
phải nâng cao trình độ lý luận chính trị, khả năng ứng dụng các phương pháp
quản lý hành chính mới, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác

quản lý nhà nước…).
- Hai là: Về tổ chức bộ máy của chính quyền cấp xã không hoàn toàn
giống như các cấp quản lý Nhà nước ở trên, ở xã chỉ có HĐND và UBND
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước theo luật định trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Do đó, chính quyền cấp xã
chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, là sự
chuyển tải, kết nối giữa các cơ quan Nhà nước các cấp đến với các tầng lớp
nhân dân, vai trò này không thể thay thế được. Đó cũng chính là yêu cầu đặt
ra đòi hỏi HĐND cấp xã phải thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và tiếng nói của người dân ở cơ sở, tiếp nhận, xử lý và phản ánh kịp thời
những yêu cầu, kiến nghị của người dân đối với chính quyền các cấp. UBND
là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính Nhà nước trực tiếp
tại cơ sở phải thực hiện chức năng quản lý một cách bao quát, toàn diện
nhưng đồng thời phải sâu sát, cụ thể và kịp thời giải quyết các sự việc phát
sinh ngay tại địa bàn dân cư, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của người dân
theo đúng quy định của pháp luật.
- Ba là: Ở xã thì hầu hết có nền kinh tế thuần nông nên có các hình thức
tổ chức sản xuất phù hợp với tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp. Vì
vậy, ngoài chức năng quản lý Nhà nước nói chung thì chính quyền xã dưới sự
lãnh đạo của Đảng uỷ còn phải thực hiện tốt chức năng quản lý, định hướng
cho các tổ chức kinh tế và nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh (Ví dụ: Xây
dựng quy hoạch các vùng sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đối với Hợp tác

19


×