Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.59 KB, 128 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LI TH NGUYấN

thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh thanh hóa

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2014


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LI TH NGUYấN

thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh thanh hóa
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN HONG ANH

H NI - 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lại Thế Nguyên


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ .......................................................................... 7
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.

Dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................................... 7
Dân chủ ở cơ sở .......................................................................................... 7

Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................................................... 12
Quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về dân chủ
ở cơ sở ở Việt Nam ................................................................................... 14

1.2.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở ................................................................................... 16

1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.4.

Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở........ 16
Đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ...................................... 17
Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ...................................... 19
Hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ..................................... 31

1.3.
Vai trò của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ....................... 36
1.3.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần mở rộng dân chủ, đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân ....................................... 36
1.3.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước ........................................... 37
1.3.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương, các cơ
quan, đơn vị, xí nghiệp ............................................................................. 40
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA ..................................... 42

2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội có liên quan đến thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở của tỉnh Thanh Hóa ......................................... 42


2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.

Đặc điểm tự nhiên ..................................................................................... 42
Đặc điểm kinh tế ....................................................................................... 43
Đặc điểm xã hội ........................................................................................ 44
Đánh giá về đặc điểm tình hình của tỉnh Thanh Hoá tác động đến thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.............................................................. 45

2.2.

Quá trình triển khai và kết quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ........................................................ 47

2.2.1. Quá trình triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa................................................................................... 47
2.2.2. Kết quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ......... 50
2.3.

Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực
hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa .............. 67
2.3.1. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ....................... 67

2.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trong thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở ......................................................................................... 75
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH THANH HÓA...................................................................... 88
3.1.

Quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 88
3.1.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cần được tiến hành đồng bộ
trong công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và các nhiệm
vụ chính trị khác của Đảng và Nhà nước, của địa phương ......................... 89
3.1.2. Nâng cao nhận thức của các chủ thể về pháp luật về dân chủ ở cơ sở
và tầm quan trọng của thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................. 90
3.1.3. Nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở ..................................... 92
3.1.4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn về thực
hiện dân chủ ở cơ sở ................................................................................. 93
3.2.
3.2.1.

Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa .......................................................................... 94
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, đáp ứng yêu cầu
thực thi dân chủ cơ sở của cả nước nói chung và của Thanh Hóa nói riêng........ 94


3.2.2. Nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân
chủ ở cơ sở.............................................................................................. 105
3.2.3. Nâng cao năng lực của cấp ủy, của chính quyền và của các đoàn thể và

của Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở .................................................... 106
3.2.4. Tăng cường đối thoại giữa người dân và các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở ................................................................ 109
3.2.5. Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải đồng bộ với việc phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ....................................................... 111
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 118


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HTX:

Hợp tác xã

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

UBND:

Ủy ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc vận dụng đúng đắn những giá trị dân chủ vào đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội là một trong những điều kiện bảo đảm thắng lợi của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đất nước ta. Dân chủ có ý nghĩa to lớn trong việc
phát huy khả năng sáng tạo, sức mạnh của cộng đồng. Xây dựng môi trường thực
thi và phát huy dân chủ là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với một nước có trình độ
kinh tế thấp kém dựa trên nền nông nghiệp nhỏ và lạc hậu, lại chưa trải qua chế độ
dân chủ tư sản như nước ta. Chỉ có trong môi trường dân chủ, chỉ khi nào quyền tự
do dân chủ của người dân được giải phóng, thì sức mạnh và năng lực sáng tạo của
họ mới được phát huy. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thực
hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”.
Cùng với tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, Đảng ta thường xuyên
chăm lo xây dựng và thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng
định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi
cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là xã hội “do nhân dân làm chủ”. Nhà nước đại diện cho quyền làm
chủ của nhân dân, trong đó cán bộ, đảng viên, công chức phải thực sự là công bộc
của nhân dân, mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Đảng ta cũng đã xác định
các hình thức tổ chức và cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Các yêu cầu và nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, nghị định, các văn bản của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và được tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 18 tháng 02 năm 1998, Bộ Chính trị

(khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế

1


dân chủ ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 29-NQ/CP ngày 11 tháng 5 năm 1998, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7
tháng 7 năm 2003 về Quy chế dân chủ ở xã; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày
8/9/1998 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan và Nghị định số
07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999 về thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước;
Nghị định 87/2007 NĐ-CP ngày 28/5/2007 về thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn. Trước yêu cầu của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở,
ngày 20 tháng 4 năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa X) đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW, ngày 4/32010 về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở và gần đây nhất, ngày 19/6/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
60/2013/NĐ-CP quy định chi tiết Khoản 3, Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
Căn cứ các quy định trên, thời gian qua, việc triển khai thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở đã đạt những kết quả rất đáng ghi nhận: bầu không khí dân chủ,
cởi mở trong xã hội đã được tạo ra; quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng và
phát huy; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ngày càng được củng cố, từ
đó đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an
ninh, nâng cao chất lượng xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Bởi vậy, đánh giá 20
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (1991 - 2011), Đảng ta nhận định: “Dân chủ xã hội có bước phát triển. Quyền
của công dân tham gia vào các công việc Nhà nước và xã hội, xây dựng các quyết
định quan trọng của Đảng và Nhà nước được mở rộng và có tiến bộ. Trình độ và
năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên”.

Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ở nhiều nơi, trên
nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Không ít trường hợp việc thực hành dân chủ còn
mang tính hình thức; có nơi, có lúc còn biểu hiện lợi dụng dân chủ, khiếu kiện đông
người, vượt cấp hoặc gây mất đoàn kết nội bộ; gây rối, ảnh hưởng đến trật tự an
toàn xã hội. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, không thực sự tôn trọng
dân chủ còn tiếp diễn trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức. Nghiêm
trọng hơn ở một số nơi có biểu hiện quan liêu, xa dân ngay từ cơ sở. Tình trạng này

2


tồn tại ở khá nhiều cấp, nhiều nơi. Thanh Hóa - một địa phương với diện tích lớn, là
địa bàn sinh sống của khá nhiều dân tộc, nơi kinh tế phát triển đa dạng, đan xen với
những vùng núi, vùng nông thôn còn nghèo nàn, lạc hậu…, bên cạnh những thành
công, cũng gặp nhiều vấn đề bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở.
Với mong muốn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đồng thời góp phần tăng cường hiệu quả thực hiện dân
chủ ở địa phương, để từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời
sống của nhân dân địa phương, tôi mạnh dạn chọn chủ đề “Thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu các tài liệu đã được công bố những năm gần đây cho thấy: đã có
khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu vấn đề dân chủ và thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, trong đó có các công trình
tiêu biểu sau đây:
- “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và
phương pháp nghiên cứu”, của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/1992.
- “Cơ sở lý luận - Thực tiễn của phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra và mấy vấn đề về xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Đỗ Quang

Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 8, tháng 4/1998.
- “Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ”, của Lê
Minh Châu, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 01/1999.
- “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
-“Dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,của ThS.
Phạm Văn Bính, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8.2000.
- “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở”, của TS. Đặng Đình Tân
và Đặng Minh Tuấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2002.
- “Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền cơ sở
nông thôn”, của TS. Nguyễn Văn Sáu, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11 - 2002.
- “Tiếp tục xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, của Trương
Quang Được, Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng 4/2002.

3


- “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay”, do TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003.
- “Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam”, của Trần
Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003.
- “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
vững mạnh”, của Trịnh Ngọc Anh, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 4/2003.
-“Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ đổi
mới”, của Tòng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/2003.
- “Những điểm mới của quy chế dân chủ ở cấp xã”, của ThS. Ngô Thị Tám,
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 10/2003.
- "Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” của GS, TS
Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

- “Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, do
PGS, TS. Trần Ngọc Khuê và TS. Lê Kim Việt chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004.
- “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: Thành tựu, vấn đề và giải
pháp”, của GS. TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2004.
- “Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở lên một bước mới, rộng
rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn”, của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương
Đảng Nông Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2004.
- “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay”, do TS. Nguyễn
Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- “Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay”, của
Trần Quốc Huy, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2006, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
chí Minh.
- “Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay”, của Ngô Thị Hoà, Luận văn thạc sỹ Luật học,
2006, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Thực hiện Pháp luật và tăng cường pháp chế XHCN ở nước ta hiện nay”
của PGS. Tiến sĩ Quách Sĩ Hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế

4


dân chủ ở cơ sở”, của Nguyễn Thanh Bình, luận văn thạc sĩ Luật học, 2005, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh.
- "Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình", của Trần
Công Trung, luận văn thạc sỹ Luật học, 2012, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các công trình nêu trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện dân chủ, thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; đã làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực
hiện dân chủ, phản ánh thực trạng thực hiện cũng như phương hướng hoàn thiện chế

định pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở. Song vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách cập nhật và toàn diện về vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở, đặc biệt là xuất phát từ thực tiễn ở một địa bàn cụ thể: tỉnh Thanh Hóa.
Vì vậy, luận văn sẽ góp phần tổng kết các vấn đề lý luận, và đề xuất những
giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở - trên cơ sở
tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý luận thực hiện pháp luật nói chung của các
nhà nghiên cứu đi trước và thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lý luận về thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở; khảo sát đánh giá thực tiễn và đề xuất những giải pháp nhằm bảo
đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thông qua
đó góp phần tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở nói chung và trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu một số vấn đề có tính lý luận liên quan
trực tiếp tới việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; quan điểm của Đảng và
các văn bản pháp luật của Nhà nước về dân chủ ở cơ sở đã ban hành và tình hình
thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ ở ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

5


Phạm vị nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện quy chế thực

hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998, các văn bản pháp luật thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và việc thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ nói chung, về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, trong đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân
tích tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và logic…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn phân tích và góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận có liên
quan trực tiếp tới thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả pháp luật về
dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số chủ trương và giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu
quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ (Demoscratie) có nguồn gốc từ Hy lạp cổ đại, gồm 2 từ “demos” có
nghĩa là dân và “kratos” là quyền lực. “Demoskratia” - dân chủ - có nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào
các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [19].
Có thể nói rằng, phương thức thực hiện dân chủ đã trải qua một quá trình vận
động và biến đổi. Ở buổi đầu sơ khai lịch sử của nhân loại, quyền lực của cộng
đồng được thể hiện dưới hình thức tự quản, mọi thành viên đều có quyền tham gia
vào các quyết định lớn của cộng đồng, họ vừa là chủ thể, vừa là đối tượng chịu sự
điều chỉnh của quyền lực ấy. Đây là hình thức thực hiện dân chủ chất phác, và được
coi là “thời đại hoàng kim” của dân chủ, vì mọi quyền lực xã hội về cơ bản đều
thuộc về nhân dân.
Cho đến khi lực lượng sản xuất dần phát triển và xã hội có của cải dư thừa đã
làm xuất hiện tình trạng chiếm hữu tài sản và theo đó quyền lực công cộng dần bị
biến dạng từ chỗ là phương thức điều chỉnh hành vi con người trong xã hội, trở
thành công cụ của một bộ phận người này dùng để tước đoạt, đàn áp một bộ phận
người khác. Với sự xuất hiện của nhà nước - tổ chức đại diện cho quyền lực chính

trị của giai cấp chủ nô lập ra để bảo vệ lợi ích của giai cấp đó - quyền lực cộng đồng
chuyển hóa thành quyền lực nhà nước. Ngay từ thời kỳ đầu tiên của nhà nước, một
số nền dân chủ đã tồn tại, tiêu biểu là nền dân chủ Athens. Khi người dân Athens
nổi dậy, lật đổ giới quý tộc, họ đã cùng nhau tiến hành tổ chức công việc và quản lý
thành bang. Tuy nhiên theo các học giả, nền dân chủ đầu tiên trên thế giới này về
bản chất vẫn là “thể chế dân chủ không hoàn hảo” và “công dân chỉ thuộc về một số
người Athens” [12, tr.54-56].

7


Khi chế độ phong kiến ra đời thay thế cho chế độ chiếm hữu nô lệ, mặc dù
giai cấp nô lệ được giải phóng và không hoàn toàn thuộc sở hữu của giai cấp chủ
nô, nhưng họ vẫn không thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Tình
trạng mất dân chủ ngày càng trầm trọng hơn do quyền lực xã hội lúc này bị thâu
tóm vào tay một cá nhân, đó là vua.
Sự vận động và phát triển của dân chủ là khách quan, do đó nó không thể bị
kìm hãm bởi sự thống trị của giai cấp phong kiến. Cùng với sự phát triển của nền
công nghiệp, thương nghiệp, giai cấp tư sản ra đời và lớn mạnh, kéo theo sự sụp đổ
của giai cấp phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy nhiên, dân chủ tư sản
cũng có giá trị với giai cấp hữu sản. Trước quá trình đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tính dân chủ nhân dân bị đẩy lùi, thay vào đó là những
đạo luật phản dân chủ ra đời, bằng sự chuyên chính của giai cấp tư sản. Khi so sánh
với các nền dân chủ trước đó, thì dân chủ tư sản được cho là “…một tiến bộ vĩ đại”
nhưng “trước sau nó vẫn là… một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả
dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái bẫy và cái mồi giả dối với những
người bị bóc lột, đối với những người nghèo”. Quyền tự do, dân chủ của chế độ dân
chủ tư sản, theo C.Mác đó là “tự do” lựa chọn người thống trị mình, chứ không phải
lựa chọn những người đại diện cho lợi ích của bản thân mình. Vì vậy, dân chủ tư
sản không thể là mục tiêu cuối cùng của nhân loại.

Còn theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ luôn mang tính giai cấp, ở đó luôn
tồn tại và biến đổi cùng với các cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương
thức sản xuất chủ yếu là xã hội. Ở đây, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một bước tiến
cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác, bản chất của dân chủ xã hội chủ
nghĩa là giải phóng con người, để cho con người có thể hiện thực hóa những quyền
tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh, tự quyết định những vấn đề xã hội. Theo
C.Mác thì dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định
nhà nước” nhân dân chính là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân dân tự
tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn
đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước thông qua các hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Và chính thực tế đã chứng minh, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chính quyền
do giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được, thì quyền làm chủ của

8


nhân dân mới trở thành thực chất. Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người, vì sự tiến bộ xã hội. Suy cho cùng,
mục đích cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người và toàn thể
loài người, để xây dựng một xã hội không có giai cấp, không có áp bức bóc lột, mọi
người đều bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc. Chính dân chủ xã hội chủ nghĩa
luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc và toàn thể nhân loại.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch rõ rằng: một
khi những người cộng sản hoàn thành mục tiêu chính trị của mình, thì dân chủ
không còn mang tính hình thức nữa, mà đi vào cuộc sống. Giá trị về dân chủ, tự do
và công bằng của ngày hôm qua mang ý nghĩa mới về chất trong một tương lai
không còn sự phân cực xã hội gay gắt nữa. Bởi vậy, sau khi giành được chính
quyền, giai cấp công nhân cùng toàn thể nhân dân lao động bắt tay ngay vào việc
xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước - cơ chế đảm bảo dân chủ.

Đồng thời, giai cấp công nhân đã lãnh đạo nhân dân lao động đập tan bộ máy
nhà nước cũ, thiết lập nên một cơ chế mới để nhân dân xây dựng một xã hội thực sự
dân chủ, xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân cùng nhau xây
dựng một xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh. C.Mác cũng đã chỉ ra rằng: nền
dân chủ thực sự và rộng rãi phải gắn liền với nền dân chủ của nhân dân. Chỉ có thực
hiện nền dân chủ nhân dân một cách đầy đủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
gắn với nhà nước xã hội chủ nghĩa mới có một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thực sự về cơ sở kinh tế là chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, thực sự là dân chủ của đại đa số nhân dân
lao động (giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp giai cấp khác trong
xã hội). Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn bảo vệ quyền và lợi ích của đông đảo nhân
dân lao động, đồng thời trấn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa được thực hiện bằng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân” dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự lãnh đạo của Đảng luôn thể hiện bản chất của giai
cấp công nhân, đây chính là tính nhất nguyên của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở
Từ xa xưa trong lịch sử, con người đã cùng tồn tại, sinh sống trên một địa
bàn nhất định. Cho đến nay, trong học tập, lao động, công tác và sinh hoạt, mỗi cá
nhân luôn có sự gắn bó mật thiết với nhau, có sự ràng buộc và gắn bó với cơ quan,

9


đơn vị, tổ chức hoặc cùng sinh sống trên một địa bàn dân cư nhất định – đó là cấp
cơ sở. Theo TS. Trương Hồ Hải:
Ở bất cứ đất nước nào, xã hội nào, tổ chức nào, nếu xét theo cấu
trúc thì cũng bao gồm một hệ thống từ nhỏ đến lớn. Mà những cấu trúc
nhỏ này nếu xét trong một hệ thống thì nó có tư cách như một chỉnh thể
tương đối hoàn chỉnh, độc lập nhưng lại có sự thống nhất tạo nên một
nền tảng cho toàn bộ hệ thống thì đó được gọi là cơ sở [16, tr.209-211].

Cơ sở là tế bào trong hệ thống chính trị nước ta. Hệ thống chính trị ở nước
ta được tổ chức dựa trên 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã (cơ sở). Là cấp cuối
cùng nhưng chính ở cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp thực hiện và kiểm
nghiệm một cách chính xác nhất các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật
của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh trong thực tiễn khách quan của từng giai đoạn phát triển của lịch sử đất
nước. Bởi vậy, các quy định về dân chủ muốn thành hiện thực, trước hết phải
được thực thi tại cơ sở. Chỉ có dân chủ thực sự khi các quyền con người được thực
hiện trước hết ở cơ sở, từng người dân có quyền được biết, được bàn, được kiểm
tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Lúc đó quyền con người, quyền công
dân mới trở thành hiện thực.
Và dân chủ cơ sở cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy sức mạnh
của bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. “Khi dân chủ được
thực hiện từ cơ sở, thể chế, luật pháp, bộ máy nhà nước mới có sức mạnh, mới
hướng vào mục tiêu phục vụ dân, bảo vệ dân, chăm lo cho nhân dân, lắng nghe ý
kiến và nguyện vọng của nhân dân. Nhờ có dân chủ ở cơ sở mà Đảng mới phát huy
được uy tín, ảnh hưởng xã hội rộng lớn trong dân. Muốn có mối quan hệ gần gũi,
mật thiết giữa Đảng và nhà nước với nhân dân thì phải có dân chủ, thì khi ấy dân sẽ
dám nói, dám nghĩ, dám làm. Cán bộ đảng viên có gan nói, gan làm, dám chịu trách
nhiệm. Có dân chủ, thực hiện tự do tư tưởng, tự do thảo luận, tranh luận để tìm ra
chân lý thì sẽ khắc phục được thói áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh. Bảo đảm và phát
huy được dân chủ thì quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”.
Do đó, Nhà nước phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của
toàn dân. Nếu phát huy được sức mạnh của nhân dân thì các công việc của Nhà
nước mới được thực thi một cách hiệu quả. Sức của dân rất lớn, lực lượng của dân

10


dồi dào, sáng kiến của dân là vô tận; dân có trăm tai nghìn mắt ở cơ sở nên hiểu tình
hình, hiểu cán bộ, hiểu Đảng, hiểu Nhà nước, hiểu chính quyền nhân dân… Giám

sát, thanh tra của dân làm cho những sai trái, khuất tất sẽ lộ ra, nhờ đó mà kịp sửa
chữa, chấn chỉnh. Bộ máy có trong sạch, cán bộ có liêm khiết thì mới phục vụ được
dân. Muốn vậy phải dựa vào dân, phải đưa mọi vấn đề cho dân thảo luận và tìm
cách giải quyết.
Quan điểm về dân chủ cơ sở có cội nguồn trong lịch sử, và đã được kiểm
nghiệm, đúc kết bởi tư duy lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cội nguồn tư
tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là truyền thống trọng dân, nhận thức đúng
đắn, sâu sắc về vai trò và sức mạnh của nhân dân “dân là nước, nước có thể đẩy
thuyền cũng có thể lật đổ thuyền” [5]. Chính vì lẽ đó, cách mạng Việt Nam phải biết
dựa vào sức dân, lực lượng quần chúng, vì dân là cội nguồn của sức mạnh, là gốc của
nước, căn cứ vững chắc của cách mạng “dễ mười lần không dân cũng chịu; khó trăm
lần dân liệu cũng xong” [31, tr.212]. Trải qua thực tiễn cách mạng đã chứng minh
rằng “dân chúng có đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc
gì làm cũng không xong” [31, tr.213]. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Dân chủ là
chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn” [31, tr.249]. Hơn nữa, theo một số
học giả, thông qua việc tiếp thu vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời, kế thừa những yếu tố dân chủ truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra dân chủ và dân chủ xã hội
chủ nghĩa, rằng: “dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân làm chủ “nước ta là nước dân chủ, địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ” [30, tr.515]; thứ hai, dân chủ là toàn bộ quyền lực
và lợi ích đều thuộc về nhân dân và được thực hiện thông qua các tổ chức quần
chúng: Nhà nước ta là một nước dân chủ, mọi việc đều vì lợi ích của nhân dân mà
làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân như Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc,
Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… những đoàn thể ấy là tổ
chức, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền lợi của nhân dân, liên lạc mật thiết với
nhân dân và chính phủ [30, tr.66].
Tiếp tục kế thừa cơ sở nền tảng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân
chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng và yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt
Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn nhận đánh giá rất cao vai trò của dân


11


chủ ở cơ sở. Cơ sở (xã, phường, cơ quan, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp...) là
nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, công tác và học
tập. Cơ sở là nơi diễn ra sự tiếp xúc trực tiếp mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng
lớp nhân dân với Đảng bộ, chính quyền, với cán bộ, công chức điều hành xử lý
công việc hàng ngày. Đảng và Nhà nước ta luôn coi sự phát triển của dân chủ, mở
rộng dân chủ đồng thời phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật, dân chủ
phải gắn liền với pháp luật; đồng thời, muốn mở rộng và phát huy được dân chủ ở
cơ sở thì phải có sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí,
văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng dân cư, dân chủ phải
gắn với kỷ cương, luôn sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
(tháng 6-1997) đã nhấn mạnh, lúc này để giữ vững và phát huy được bản chất tốt
đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham
gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng
suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách
trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Khái lược về dân chủ cơ sở trong tình hình hiện nay, chúng tôi hoàn toàn
đồng ý với nhận định của GS.TSKH Đào Trí Úc:
Dân chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện dân
chủ ở nước ta. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn
thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình hình
phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn hướng tới
cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn bản,

lâu dài [45, tr.47].
1.1.2. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
“Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [21, tr.226]. Quan điểm
học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn,

12


khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện
tượng khác trong xã hội có giai cấp. Pháp luật chỉ phát sinh và tồn tại, phát triển
trong xã hội có giai cấp. Pháp luật vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã
hội. Mức độ đậm, nhạt của tính giai cấp và xã hội của pháp luật rất khác nhau và
thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm,
đường lối và các trào lưu chính trị của mỗi nước ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Pháp luật và Nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý,
luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp
luật và Nhà nước đều có chung nguồn gốc phát sinh và phát triển. Nhà nước là một
tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển
khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy
tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối
chính trị của lực lượng nắm quyền lực Nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được
triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,vì
dân, do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao
động, là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho
nhân dân lao động. Nó khác biệt căn bản về chất so với các kiểu pháp luật trước đó
như pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước
xã hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
Pháp luật có vai trò quan trọng trong thực hiện dân chủ. Pháp luật là phương
tiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng
rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội trong đó có các quan hệ giữa các cá nhân công
dân với Nhà nước, giữa công dân với nhau trong đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo
thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực của nhân dân, đảm bảo
công bằng xã hội. Dân chủ là thuộc tính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc tăng
cường hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội luôn gắn liều với quá trình thực hiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ

13


nghĩa. Dân chủ được thể hóa thành pháp luật. Những quyền tự do dân chủ của công
dân phải được quy định cụ thể trong pháp luật, Nhà nước phải đảm bảo cho công
dân thực hiện các quyền đó trong khuôn khổ luật định, đồng thời pháp luật cũng
quy định những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải thực hiện để đảm bảo trật tự
kỷ cương xã hội.
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà nước, các tổ chức
chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân nhằm đảm bảo cho công
dân thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Do đó, pháp luật về dân chủ có phạm vi và nội dung điều chỉnh rất rộng lớn. Pháp
luật về dân chủ ở cơ sở là một nội dung rất quan trọng của pháp luật về dân chủ,
bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước, các
tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân đảm bảo cho công
dân thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội

trên địa bàn xã, phường, thị trấn, trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế
và các doanh nghiệp.
1.1.3. Quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật về dân
chủ ở cơ sở ở Việt Nam
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 30-CT/TW về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị nêu rõ “Nhà nước cần ban
hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ
sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng
loại cơ sở, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành
chính phù hợp với từng loại cơ sở”. Tiếp đó, ngày 28/3/2003 Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa IX) ban hành chỉ thị số 10-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ thị 03 -CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn
2011 - 2015”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết số 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Quyết định 217-

14


QĐ/TW ngày 12/12/2013 về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội.
Thể chế những chủ trương của Đảng về thực hiện dân chủ ở cơ sở, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10, số
55/1998/NQ-UBTVQH10 và số 60/1998/NQ-UBTVQH10 về thực hiện dân chủ ở ba
loại hình đơn vị cơ sở chủ yếu là: đơn vị hành chính cấp cơ sở, các cơ quan nhà nước
và các cơ sở kinh tế. Đối với thực hiện dân chủ ở đơn vị hành chính cơ sở, ngày
15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân

chủ ở xã và đã được sửa đổi, bổ sung thay thế bằng Nghị định số 79/NĐ-CP ngày
7/7/2003 (quy chế này áp dụng cho cả phường và thị trấn). Ngày 20/4/2007, Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/ PL - UBTVQH12 về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đối với các cơ quan nhà nước, ngày 8/9/1998
Chính phủ ban hành Nghị định số 71/1998/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan. Đối với đơn vị kinh tế, ngày 13/02/1999 Chính phủ ban hành Nghị
định số 07/1999/NĐ-CP về thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước; ngày
28/5/2007 Chính Phủ ban hành Nghị định số 87/2007/NĐ-CP về thực hiện dân chủ ở
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; và gần đây nhất, ngày 19/6/2013
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 60/2013/NĐ-CP quy định chi tiết Khoản 3, Điều
63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
Trên đây là những văn bản pháp luật trực tiếp quy định về thực hiện dân chủ
tại xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên pháp luật về
dân chủ cơ sở còn bao hàm nhiều văn bản khác có liên quan, ví dụ: các đạo luật
chuyên ngành - khi quy định về sự tham gia của người dân ở cơ sở trong các lĩnh
vực cụ thể (Luật Đất đai; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật xử lý vi phạm hành
chính.v.v.); riêng với các cơ quan nhà nước, các quy định về thực hiện dân chủ
được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Luật Tổ
chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Cán bộ, công chức, Luật thanh
tra, Quy chế hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân… và ngoài ra trong quy
chế hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi chỉ đi sâu phân tích những quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật
trực tiếp điều chỉnh về thực hiện dân chủ cơ sở nói trên.

15


Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta được
ban hành kịp thời và đã từng bước đi vào cuộc sống, đây là cơ sở pháp lý quan trọng

nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán, xa rời quần chúng, tạo động
lực mạnh mẽ trong cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, góp phần
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
- Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan
của quản lý nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi
vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó,
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Một nền pháp chế tốt, một nhà nước pháp quyền thực sự không chỉ cần có hệ
thống pháp luật mà cần thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của chủ thể
pháp luật phù hợp với những quy định của pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thì thực
hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “thực hiện pháp luật là một quá
trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [20]. Thực
hiện pháp luật là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân; mọi tổ chức và cá nhân
trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những
quy trình khác nhau. Pháp luật gồm nhiều loại quy phạm khác nhau, với mỗi loại quy
phạm pháp luật có cách thức và quy trình thực hiện khác nhau. Việc thực hiện pháp
luật có thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của
nhà nước. Hành vi thực hiện pháp luật có thể được chủ thể tiến hành trên cơ sở nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm như vậy và do chủ thể đã tự giác thực hiện.
Như vậy, có thể thấy bản chất của thực hiện pháp luật chính là quá trình tạo
lập các hành vi hợp pháp của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Các tổ chức và cá


16


nhân khi gặp phải những tình huống thực tế mà pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận
thức của mình sẽ chuyển hóa một cách sáng tạo các quy định pháp luật vào tình
huống cụ thể của cuộc sống thông qua hành vi hợp pháp của mình.
- Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Hệ thống pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã được ban hành nhằm đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân, tạo lập hiệu quả cao nhất trong quản lý nhà nước và
phát triển xã hội. Song mục đích đó có đạt được hay không, pháp luật có triển khai
thực hiện trong thực tế cuộc sống hay không phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở của các chủ thể. Chủ thể thực hiện pháp luật có thể là cá
nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức.
Từ khái niệm chung về thực hiện pháp luật, có thể đưa ra khái niệm về thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở như sau:
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là hoạt động có mục đích của các cơ
quan nhà nước, tổ chức và các cá nhân, làm cho những quy định của pháp luật về
dân chủ cơ sở đi vào cuộc sống nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ, sức sáng tạo
của nhân dân trong phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng
xã hội giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
trong sạch, vững mạnh.
Trong phạm vi luận văn này, sẽ tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở ở ba loại hình đơn vị cơ sở là: đơn vị hành chính cấp xã, phường,
thị trấn theo Pháp lệnh số 34/ 2007- PL- UBTVQH11 ngày 20 tháng 04 năm 2007
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; các cơ quan nhà nước theo Nghị định số
71/1998/NĐ-CP ngày 8/9/1998 và các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp theo Nghị
định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết Khoản 3,
Điều 63 của Bộ luật lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở

Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân ở xã, phường, thị trấn và quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động trong cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp... . Thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở vì vậy có những điểm khác biệt với thực hiện pháp
luật trong các lĩnh vực, các ngành luật khác ở chủ thể, phạm vi, nội dung và hình
thức thực hiện.

17


Thứ nhất, chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trước hết là chính
quyền cơ sở (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân), các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn; các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, doanh
nghiệp và mọi công dân sinh sống, học tập, làm việc trên địa bàn xã, phường, thị
trấn, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Trong số các chủ thể đó, nhân dân, cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động là một chủ thể đặc biệt quan trọng.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là hoạt động diễn ra thường
xuyên, liên tục, được triển khai rộng khắp, gắn liền với mọi hoạt động trên địa bàn
thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố (đối với xã, phường, thị trấn) và trong mỗi cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp. Có thể nói, trong số rất nhiều lĩnh vực thực hiện pháp luật thì
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính
thường xuyên, liên tục và rộng rãi nhất. Điều này đến từ đặc trưng của cơ sở và của
chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quy phạm cụ
thể quy định trong các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này do Nhà nước ban hành.
Hệ thống các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở rất phong phú, nhưng tập trung
nhất nằm trong các văn bản cụ thể: Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trước đây
(ban hành kèm theo Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 và nay là Pháp lệnh
34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị
định số 71/1998/NĐ-CP ngày 8/9/1998 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong

hoạt động của cơ quan; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính
phủ quy định chi tiết Khoản 3, Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc. Ngoài những văn bản này, cũng có nhiều văn bản
khác là nguồn quy phạm cho thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, ví dụ: Hiến pháp
2013; Luật Đất đai; Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân; Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Cán bộ, công
chức. v.v. Sở dĩ có sự phong phú trong các loại nguồn của pháp luật về dân chủ cơ
sở là do các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở thường dẫn chiếu sang
các văn bản khác trong một lĩnh vực liên quan; quyền dân chủ của người dân ở cơ
sở không chỉ bó hẹp trong các văn bản về thực hiện dân chủ cơ sở, mà phần lớn
nằm trong các văn bản quy định về các quyền nội dung tương ứng. Các văn bản
pháp luật về dân chủ cơ sở - như đã nói ở trên - chủ yếu điều chỉnh về hình thức, cơ
chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.

18


×