Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 115 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phạm huy văn

T- t-ởng Hồ Chí Minh về nhà n-ớc của dân, do dân,
vì dân và vận dụng vào xây dựng Nhà n-ớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phạm huy văn

T- t-ởng Hồ Chí Minh về nhà n-ớc của dân, do dân,
vì dân và vận dụng vào xây dựng Nhà n-ớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế


Hà nội - 2010


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Sự hình thành và những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân

5

1.1.

Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân

5

1.1.1.

Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam


5

1.1.2.

Tinh hoa văn hóa nhân loại: phương Đông và phuơng Tây

6

1.1.3.

Chủ nghĩa Mác - Lênin

8

1.1.4.

Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh

12

1.1.5.

Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh

14

1.2.

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân


16

1.2.1.

Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân

16

1.2.2.

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân

22

1.2.2.1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ nghĩa
lập hiến

22

1.2.2.2. Nhà nước do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân

25


1.2.2.3. Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân


32

1.2.2.4.

35

Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân

1.2.2.5. Nhà nước kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong
trong quản lý xã hội

39

1.2.2.6. Tổ chức quyền lực nhà nước hợp lý và khoa học, đảm bảo
chủ quyền của nhân dân; xây dựng chính quyền mạnh mẽ,
sáng suốt và chịu trách nhiệm trước nhân dân

44

1.2.2.7. Nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa
chuyên; thực sự là công bộc của dân

51

Chương 2: Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân vào xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

56


2.1.

Sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

58

2.2.

Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam

60

2.3.

Một số nội dụng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

65

2.3.1.

Thực hiện nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực
nhà nước


65

2.3.2.

Cải cách tư pháp, đảm bảo cho Tòa án độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật

71

2.3.3.

Cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa

74


2.3.4.

Xây dựng đạo đức của người cán bộ trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay

76

2.3.5.

Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


79

2.3.6.

Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

95

kết luận

100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), trong văn kiện của mình, Đảng ta
đã xác định vai trò, ý nghĩa, giá trị to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng,
đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam. Đến Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và cách mạng Việt Nam. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan
trọng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác trong thế kỷ XX, tiếp tục có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và

phát triển của Đảng, Nhà nước và xã hội Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đại hội
lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Đại hội Đảng chỉ rõ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại [12].
Tư tưởng và quan điểm của Người về nhà nước của dân, do dân, vì
dân vô cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó
chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với
cách mạng Việt Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân không những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những

1


kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân
dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được bản chất cách mạng, từng bước xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với nước ta, cũng như nhiều quốc gia, dân tộc khác, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xu hướng tất yếu khách quan, nhưng đối
với chúng ta đây là nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trên thế giới cũng chưa có quốc
gia, dân tộc nào khẳng định đã xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, mà chỉ

đạt được một số thành tựu nhất định. Mặt khác, không có một nhà nước pháp
quyền với tư cách là khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do vậy,
cùng với việc tiếp thu những giá trị có tính chất phổ biến về nhà nước pháp
quyền mà nhân loại đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa và vận dụng
những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để từng bước xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng
riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội, truyền thống văn hóa và
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân không phải
là một cái gì đó đã xong xuôi, hoàn bị, nhất thành bất biến. Trái lại, nhà nước
trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự vận động, có tính mở, biết tự củng cố,
chỉnh đốn và đổi mới để ngày càng trong sạch, vững mạnh, phục vụ và bảo vệ có
hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân. Do vậy, trong giai đoạn đổi mới đất
nước hiện nay, phải làm cho Nhà nước ta mạnh mẽ, sáng suốt để đủ khả năng
điều hành và quản lý nền kinh tế thị trường, giữ vững ổn định chính trị- xã
hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tham giá có hiệu quả vào
các định chế quốc tế, đóng góp tích cực vào bảo vệ hòa bình, ổn định và phát
triển của thế giới là điều hợp quy luật và có tính tất yếu khách quan.
Trong ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào xây dựng Nhà nước

2


pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, xây
dựng nhà nước pháp quyền và mở rộng quan hệ quốc tế ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa- Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Do vậy, quan điểm, tư tưởng

của Người về nhà nước đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Trước hết phải kể đến
tác giả: Nguyễn Ngọc Minh: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1998. Đây là công trình nghiên cứu khá
toàn diện về những tư tưởng và những đóng góp thiết thực của Hồ Chí Minh
về nhà nước và pháp luật của Nhà nước ta trong cả hai giai đoạn cách mạng
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó là PGS.TS Hoàng
Văn Hảo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới- sự hình thành và
phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác giả cũng đã nghiên cứu
sự lựa chọn kiểu nhà nước của Hồ Chí Minh đến những tư tưởng của Người
về Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phần kết luật tác giả có nhiều
nghiên cứu về sự "kết hợp đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh";
từ đó nêu ra sự vận dụng tư tưởng về nhà nước pháp quyền và từng bước hoàn
thiện nó trong quá trình đổi mới đất nước. Tiếp theo phải kể đến công trình
chuyên khảo của PTS. Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 (sản phẩm của
đề tài cấp nhà nước KX 02. 13); Vũ Đình Hòe: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ
Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình
Phong: tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở
Việt Nam, Nxb Lao động, 2003; Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên): Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2003; Bùi Ngọc Sơn: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận

3


chính trị, 2004; Nguyễn Đăng Dung (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007;...
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí

Minh về nhà nước của dân, do dân, vị dân; từ đó vận dụng vào quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, làm sáng tỏ sự hình thành và những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Hai là, làm sáng tỏ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước của dân, do dân, vì dân và một số nội dung vận dụng vào xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những quan điểm chỉ đạo, kết luận của
Đảng ta từ quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đất
nước.
Tác giả của luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,
bao gồm: phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp hệ thống; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và
phương pháp xã hội học.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:

4


Chương 1: Sự hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện
nay


5


Chƣơng 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ
DÂN

1.1. SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƢỚC CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

1.1.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trƣớc hết là chủ nghĩa
yêu nƣớc Việt Nam
Trong quá trình lao động, sản xuất, chinh phục và chống chọi với
thiên nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm... đã hun đúc nên nhiều giá trị
cao quý trong nền văn hóa của dân tộc cũng như trong từng con người Việt
Nam những truyền thống, phẩm chất tốt đẹp như: tinh thần đoàn kết, tương
thân- tương ái, yêu thương thiên nhiên và con người, chăm chỉ lao động, lạc
quan yêu đời, ý chí đấu tranh anh dũng, tự lực, tự cường... Trong những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng
chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động
lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng
đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [35, tr. 171].

Chứng kiến cảnh đói khổ, dốt nát, lầm than của nhân dân; thân phận nô
lệ của kẻ mất nước; sự độc tài, chuyên chế, tàn bạo của chính quyền thực dân và

6


phong kiến, Hồ Chí Minh với lòng yêu nước nồng nàn, yêu thương con người
bao la đã thúc bách Người ra đi tìm đường cứu nước, quyết đấu tranh giành lại
độc lập, tự do cho dân tộc và xây dựng một nhà nước kiểu mới mang bản chất
nhân đạo, dân chủ, thực sự là công cụ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hồ Chí Minh viết: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba" [38, tr.
128].
1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại: phƣơng Đông và phuơng Tây
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Đông. Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân
chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh sáng, của cách mạng tư sản
phương Tây và cách mạng Trung Quốc, nhưng không bao giờ sao chép máy
móc, cũng không bao giờ phủ định một cách đơn giản, mà có sự phân tích sâu
sắc, tìm ra những yếu tố tích cực, hợp lý để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo,
nhuần nhuyễn những yếu tố hợp lý và tích cực của Nho giáo như: triết lý nhân
sinh, lấy tu thân làm gốc, lấy hành động để lập thân và có lý tưởng về một xã
hội bình trị, thế giới đại đồng, đề cao văn hóa và truyền thống hiếu học trong xã
hội. Khổng Tử đã nhận thấy "dân là gốc của nước". Mạnh Tử cho rằng trong
nước, dân là quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua là nhẹ; nên ai được lòng dân chúng
thì được làm thiên tử: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thị cố đắc hồ
khưu dân nhi vi Thiên tử." (Mạnh tử, thiên Tâm tâm hạ). Mặc gia chủ trương
chính sách kiêm ái trong công cuộc cai trị, nhà cầm quyền phải thương yêu

nhân dân, tận tụy vì lợi ích của nhân dân. Lão gia với tư tưởng Vô vi nghĩa là
thuận theo tự nhiên, tuân theo quy luật tự nhiên, mà tuân theo những quy luật
của tự nhiên cũng có nghĩa là tuân theo trật tự của cuộc sống, của xã hội [10].

7


Toàn bộ những tư tưởng, quan điểm tiến bộ đó đều được Hồ Chí Minh
kế thừa và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng nước ta. "Trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân" [27, tr. 544].
Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa, tiếp thu những yếu tố tích cực của Phật
giáo như là: tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thương người như thể thương thân;
là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; có tinh
thần bình đẳng, dân chủ chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động,
chống lười biếng... Người viết: "Không được báo thù báo oán. Đối với những
kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải chính sách khoan hồng" [33, tr.
420].
Như vậy, từ những giá trị tư tưởng của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia,
thuận theo tự nhiên của Lão gia, từ bi bác ái của nhà Phật đã góp phần hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì con người, một nhà
nước của dân, do dân và vì dân [10, tr. 77]. Nhà nước đó ra đời từ trong lòng
nhân dân, phục vụ và bảo vệ nhân dân, thỏa mãn những khát vọng và đem đến
cuộc sống ấm no cho nhân dân; nhà nước đó là công cụ của nhân dân mà
không phải của bất cứ nhóm người hay thế lực nào; nhà nước đó là "người
đầy tớ trung thành của nhân dân" [38, tr. 663].
Từ nhận thức ấy, cùng với những năm học ở Trường Quốc học Huế
được làm quen với những khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" của cách
mạng tư sản Pháp đã thôi thúc Người sang các nước phương Tây để tìm hiểu
bản chất của tư tưởng đó. Người nói: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi
được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất

muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau
những chữ ấy" [30, tr. 266].
Năm 1911, đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Người đã đi hầu hết các châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa tìm tòi, nghiên

8


cứu và học hỏi những tư tưởng, quan điểm tiến bộ về nhà nước, pháp luật, dân
chủ, tự do, quyền con người; xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng
Mỹ (1776), kinh nghiệm cách mạng Pháp (1789); tìm hiểu cách mạng Tân
Hợi và tư tưởng Tôn Trung Sơn... Người đã nhanh chóng chiếm lĩnh được
vốn tri thức của thời đại, tiếp thu được nền văn hóa dân chủ và cách mạng
phương Tây, thấy được bản chất giả tạo của chủ nghĩa thực dân... Người đánh
giá: "Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, là
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực thì trong nó
tước lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa... Cách mệnh An Nam nên
nhớ những điều ấy" [30, tr. 274].
Đúng như V.I. Lênin đã viết: Chỉ có những người cách mạng chân chính
mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại [10, tr. 81].
Bác Hồ của chúng ta là một người như thế. Với một lòng yêu nước nồng nàn,
quyết cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh cần lao, Người đã ra sức tự tìm tòi
học hỏi, vận dụng sáng tạo những tri thức tiếp thu được vào thực tiễn cách
mạng nước ta, tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với bản chất dân chủ,
nhân đạo và mang tính nhân dân sâu sắc.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, nhất là từ khi xuất
hiện các giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động bao giờ
cũng mơ ước được sống trong một xã hội bình đẳng và công bằng, có cuộc

sống ấm no và hạnh phúc. Họ đã liên tục đấu tranh để thực hiện ước mơ và
khát vọng của mình. Nhiều tư tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành và
phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại để dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần
chúng cần lao.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở
nhiều nước Tây Âu, nhất là nước Anh phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có lý

9


luận khoa học làm kim chỉ nam, hướng dẫn cuộc đấu tranh cách mạng nhằm
giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng con người khỏi áp bức xã hội.
Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của tình hình thực tiễn
cách mạng thế giới. Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của chủ nghĩa Mác không
chỉ là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là tình hình thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân mà là tất yếu khách quan trong tiến trình phát
triển hợp lôgic của lịch sử tư duy nhân loại, là thành tựu trí tuệ của loài người.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất được hình
thành từ ba bộ phận: triết học Mác- Lênin, kinh tế chính trị Mác- Lênin và
chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời từ những tiền đề
kinh tế, chính trị - xã hội, khoa học và lý luận nhất định.
Trước hết, tiền đề kinh tế là sự phát triển của lực lượng sản xuất ở
trình độ xã hội hóa cao nhờ những cải tiến và phát minh về kỹ thuật và công
nghệ sản xuất.
Tiền đề chính trị- xã hội, đó là việc xã hội tư bản càng ngày càng phát
triển làm nảy sinh mâu thuẫn cơ bản giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và
hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là
cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản ngày càng lan rộng, phát triển từ tự phát tới tự giác, từ đấu
tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đòi

hỏi bức xúc phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học và cách mạng. Lý luận
của Mác ra đời đáp ứng những đòi hỏi ấy.
Cuối cùng, tiền đề khoa học và lý luận là sự xuất hiện thuyết tiến hóa
của Đácuyn, học thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Lômônôxốp... Đó là việc Mác và Ăngghen đã kế thừa trực tiếp, phê phán,
chọn lọc và cải tạo một cách triệt để những thành tựu cũng như những hạn chế
của triết học cổ điển Đức (đại biểu tiêu biểu: Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc), kinh
tế chính trị cổ điển Anh (Ađam Xmít và Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không

10


tưởng Pháp thế kỷ thứ XIX (Xanh Ximông, Ôoen, Phuriê)... để sáng lập ra
học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc
và gây chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914- 1918); sự phát triển không đều
của chủ nghĩa tư bản làm cho cuộc cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi
ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển. Trong hoàn cảnh
này, Lênin (1870- 1924) đã vận dụng sáng tạo và phát triển toàn diện học
thuyết của Mác, làm cuộc Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, chủ nghĩa xã hội
từ lý luận trở thành hiện thực, đưa đến sự ra đời nhà nước công nông đầu tiên
trên thế giới, mở ra thời đại mới trong sự phát triển của lịch sử của xã hội loài
người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
Cũng chính năm 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở lại Pháp, lập ra
Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp việt kiều yêu nước ở Pháp.
Năm 1918, Người vào Đảng xã hội Pháp, tham gia những hoạt động của phong
trào công nhân Pháp, tìm hiểu những kinh nghiệm của cách mạng Pháp, tranh
thủ sự đồng tình của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp đối với cuộc
đấu tranh yêu nước của Việt Nam và tìm hiểu cách mạng Tháng Mười Nga.

Năm 1919, sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tư bản
thắng trận họp ở Véc- xây, ngoại "nước Pháp, để bàn việc chia phần thắng lợi
và chia thuộc địa. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân danh những người Việt
Nam yêu nước ở Pháp gửi tới hội nghị Véc- xây tám điều yêu cầu đòi quyền
tự do, dân chủ và bình đẳng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Tuy không được
chấp nhận, nhưng đã có tiếng vang lớn, làm thức tỉnh lòng yêu nước của nhân
dân Việt Nam, tạo tiền đề cho việc tập hợp các lực lượng chống đế quốc
Pháp.
Vừa tìm hiểu cách mạng Tháng Mười Nga, Người vừa tham gia tranh
luận trong Đảng xã hội Pháp về vấn đề nên theo Quốc tế thứ hai (Quốc tế cơ

11


hội cải lương) hay Quốc tế thứ ba (Quốc tế cách mạng). Kết luận cuối cùng
của Nguyễn Ái Quốc sau khi tìm hiểu, nghiên cứu, tranh luận và đọc bản Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin là: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản" [37, tr. 314]. "Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [38, tr. 128].
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp
họp ở thành phố Tua, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước
ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước ngoặt đứng hẳn về
con đường cách mạng tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác- Lênin và
đứng hẳn về Quốc tế cộng sản. Sự kiện đó đồng thời đánh dấu việc mở đường
dẫn đến bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam, bước ngoặt gắn liền độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin bắt đầu thâm nhập

phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí
Minh tổng kết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của loài người để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong Đường cách mệnh, khi phân
tích các chủ nghĩa, các học thuyết, Người viết: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa lắm, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin". Đó là cái cần nhất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân ta. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Người
chỉ rõ: chúng ta giành được thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì
thay thế được là chủ nghĩa Mác- Lênin. "Chủ nghĩa Mác- Lênin là cái cẩm
nang thần kỳ của chúng ta" [10, tr. 83-84].
Sau khi cách mạng Tháng Mười thành công, nhà nước Xô Viết ra đời,
đối chiếu, so sánh với chính quyền và nhà nước của bọn thực dân, phong kiến,

12


Hồ Chí Minh càng nhận rõ bản chất giả tạo, độc tài, chuyên chế, áp bức, bóc
lột nhân dân của chúng. Từ đó, Người càng mong muốn thiết lập ở Việt Nam
một mô hình nhà nước Xô Viết như Lênin đã tổng kết. Chính phủ côngnông- binh mà Người đặt vấn đề phải xây dựng ở Việt Nam trong Chính
cương vắn tắt là biểu hiện của mô hình nhà nước Xô Viết [10, tr. 84].
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự
hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. "Không có chủ nghĩa MácLênin thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và
giải quyết được những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam" [10, tr.
85].
1.1.4. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình
nhà nho yêu nước ở Nam Đàn- Nghệ An, mảnh đất giàu truyền thống cách
mang. Trước lúc ra đi tìm đường cứu nước, Người có hơn 20 năm sống, học
tập trong môi trường văn hóa gia đình, quê hương, dân tộc. Người được tiếp

xúc với các thầy giáo, các bậc sĩ phu yêu nước, những người có tên tuổi ở
Nam Đàn và Nghệ Tĩnh lúc bấy giờ, mà trước hết là người cha thân yêu, rồi
Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Hoàng Phan Quỳnh... Ngoài những trang
sách Nho giáo như Tam thiên tự, Tam tự kinh, Ngũ tự kinh, Kinh thư..., thông
qua những bài giảng tâm huyết của những người thầy, người thân luôn luôn coi
việc dạy học là để đào tạo học trò trở thành những người có ích cho dân, cho
nước, Nguyễn Sinh Cung dĩ nhiên biết khá nhiều về lịch sử Việt Nam, về quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ của dân tộc [57, tr.
247].
Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, Người càng khâm phục ý chí
đấu tranh anh dũng, kiên cường của các bậc tiền bối và cảm thương sâu sắc
đến thân phận nô lệ của người dân mất nước. Người được tận mắt chứng kiến
cảnh áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến

13


đối với đồng bào mình. Người nên án chính sách thực dân phản động của
chúng thi hành đối với nhân dân ta. Chúng làm cho đồng bào ta bị bần cùng
hóa, sống trong cảnh đói khát, tối tăm, dốt nát; mọi quyền làm người đều bị
chúng tước đoạt. Lấy tiếng là khai phá văn minh, là "Tự do, Bình đẳng, Bác
ái"... nhưng kỳ thực những lời lẽ tốt đẹp đó chỉ là mị dân, dối trá nhằm che
đậy bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Từ hiện thực tình cảnh đất nước,
cũng như chứng kiến nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân xâm lược và
phong kiến đều đi đến thất bại; đằng sau những lời lẽ hoa mỹ mà chúng rêu
rao là cái gì... đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước.
Suốt chặng đường 30 năm đi tìm đường cứu nước, Người trực tiếp quan
sát cuộc sống của những người lao động cùng khổ, tình cảnh của các dân tộc
thuộc địa bị áp bức, bóc lột và thống trị bởi chủ nghĩa thực dân, thấu hiểu nỗi
đau khổ, tủi nhục của đồng bào và dân tộc mình dưới ách thống trị của đế

quốc, thực dân và phong kiến. Vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu chủ
nghĩa Mác- Lênin, vừa tham gia trực tiếp các phong trào đấu tranh của công
nhân và nhân dân lao động, Người đã tích lũy được những tri thức và kinh
nghiệm phong phú, từng bước hình thành tư tưởng lý luận và phương pháp
cách mạng của mình [56, tr. 177].
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nét nổi bật, đặc sắc thuộc về
bản chất khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Mọi luận điểm của Người đều là những khái quát lý luận từ thực tiễn
chính trị- xã hội, được phân tích trên quan điểm lịch sử- cụ thể, quan điểm
toàn diện, hệ thống và phát triển. Người viết: "Thực hành sinh ra hiểu biết;
Hiểu biết tiến lên lý luận; Lý luận lãnh đạo thực hành" [35, tr. 247- 248]. Đó
là con đường của quá trình nhận thức các sự vật, hiện tượng; con đường
hướng đến chân lý của nhận thức.
Với Hồ Chí Minh, trước hết là thực tiễn, trên cơ sở quan sát, nghiên
cứu và tổng kết thực tiễn mà sinh ra lý luận. Nên tư tưởng, lý luận của Người

14


vô cùng sâu sắc, có tác dụng lớn lao trong việc định hướng và cải tạo thực
tiễn. Người nói: thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn mù quáng; lý luận
mà xa rời thực tiễn, không gắn với thực tiễn, không xuất phát từ thực tiễn,
không giúp ích thực tiễn là lý luận mù quáng.
Lý luận của Người về xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân
được từng bước hình thành trong thực tiễn cách mạng phong phú. Mô hình
nhà nước dân chủ nhân dân sau ngày nước nhà được độc lập năm 1945, theo
Hiến pháp năm 1946 là kết quả của sự nghiên cứu, kế thừa có phê phán của
nhiều mô hình nhà nước lúc bấy giờ, như: mô hình nhà nước Anh, nhà nuớc
Mỹ và nhà nước Xô Viết. Đó cũng là kết quả của việc tìm hiểu, nghiên cứu
những quan điểm, tư tưởng, học thuyết về tổ chức và hoạt động của nhà nước,

về phương cách trị nước của các nhà triết học, chính trị học, luật học ở
phương Đông và phương Tây. Người cũng nghiên cứu trình độ phát triển kinh
tế- xã hội, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, truyền thống văn hóa, tâm lý
và tình cảm của nhân dân để xây dựng nên một nhà nước thích hợp cho cách
mạng Việt Nam. Do vậy mà tư tưởng của Người về nhà nước của dân, do dân,
vì dân có giá trị hiện thực lớn lao đối với chúng ta cho đến tận hôm nay và cả
trong tương lai.. Giá trị hiện thực của nó phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Cách thức tổ chức nhà nước sinh thời Hồ Chí Minh, qua hai Hiến
pháp năm 1946 và năm 1959, là rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn dân tộc và
sắc thái phương Đông, đồng thời có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp, có
một phần của Mỹ về tổ chức nhà nước và các mối quan hệ quyền hạn giữa các
bộ phận chính quyền với nhau, đằng sau nó là kinh nghiệm của Anh, vì Anh
đã một thời là mẫu cho các nền dân chủ phương Tây [57, tr. 68].
Như vậy, trước hết và trên hết, chính thực tiễn hoạt động cách mạng
phong phú đã giúp Người sáng tạo và xây dựng nên một nhà nước dân chủ
nhân dân hiện thực đầu tiên ở Đông Nam Á lúc bấy giờ, phù hợp với điều

15


kiện, hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam, là mô hình nhà nước trong thời kỳ
quá độ để chúng ta tiên lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước đó mang bản chất
nhân dân sâu sắc. Tổ chức và mục tiêu hoạt động của nó tất cả là vì quyền lợi
và hạnh phúc của nhân dân.
1.1.5 Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Lý luận và tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con
người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan. Do đó mà tư
tưởng còn phụ thuộc vào các yếu tố trí tuệ, phẩm chất tinh thần của con
người, như tư duy, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh, tính cách, tình cảm...

Ngay từ khi còn nhỏ, Người đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định,
ý chí vượt khó khăn, giàu lòng nhân ái, yêu thương con người, sớm có chí cứu
nước, cứu dân và niềm tin vào chính mình. Lẽ sống của Người là yêu nước,
thương dân nên suốt đời hoạt động cách mạng, gặp muôn vàn khó khăn thử
thách nhưng không hề nao núng tinh thần. Người nói:
Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi tổ quốc, và
hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào
chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo- là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc
dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ,
tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng- cũng vì mục đích đó [33, tr. 240].
Người là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp, có lối
sống và phong cách giản dị, giàu lòng nhân ái, lại rất thông minh, sắc sảo,
nhạy bén về chính trị, rất ham học hỏi, có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ
uyên bác, kiến thức sâu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các dân tộc
trên thế giới [10, tr. 88].
Đối với Người, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân là mục đích duy nhất trong
mọi suy nghĩ cũng như hành động của Người. Được nhân dân tín nhiệm, được

16


phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân là đạo đức, là niềm hạnh phúc của
người cách mạng. Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi hành động cũng như
việc làm, Người luôn luôn đặt địa vị và quyền lợi của nhân dân lên trên hết,
trước hết. Người rất gương mẫu và cũng luôn căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng
viên phải kính dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân, tin tưởng vào trí tuệ
và lực lượng của dân. Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ Chí Minh là
luôn gần gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến

mọi tầng lớp nhân dân [10, tr. 88].
Phong cách chính trị của Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
việc tổ chức và hoạt động của nhà nước sau khi nước nhà giành được độc lập.
Theo Người, nhà nước đó từ nhân dân mà ra, nó là công cụ của nhân dân chứ
không phải của riêng cá nhân, tổ chức hay bất kỳ lực lượng nào, nhà nước đó
vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân mà tồn tại và hoạt động, nó hoàn toàn
không tồn tại vì mục đích tự thân. Với bản chất như thế, thực chất nó là nhà
nước pháp quyền, hình thức nhà nước mà hiện nay trở thành hướng đi chung
của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƢỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

1.2.1. Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân
- Tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân công, phân quyền và
kiểm tra, giám sát lẫn nhau nhằm phòng tránh sự lạm quyền và bảo đảm
chủ quyền của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước của dân, do dân, vì dân là nhà nước mà
trong đó cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân công, phân
quyền rõ ràng, rành mạch nhằm phòng tránh sự độc đoán, chuyên quyền dẫn
đến lạm quyền và vi phạm đến các quyền, tự do và dân chủ của nhân dân. Tư
tưởng phân công, phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước của Hồ Chí

17


Minh, mặc dù không đề cập chính thức bằng lời hay bằng văn bản, nhưng tư
tưởng đó được thể hiện đậm nét trong những quy định của Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959 do Người chủ trì việc soạn thảo. Theo Hiến pháp 1946, "Nghị
viện nhân dân là cơ quan có quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa" (Điều 22) và là cơ quan lập pháp; "Cơ quan hành chính cao nhất
của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa"(Điều 43); Điều 31
Hiến pháp 1946 còn qui định: "Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ
tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được
thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện
thảo luận lại, những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng
chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố"; "quyền kiểm soát và phê bình
Chính phủ" của Ban Thường vụ Nghị viện (Điều 36, Hiến pháp năm 1946);
quyền của "nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghị
viện (Điều 40, Hiến pháp 1946); Thủ tướng có quyền nêu vấn đề tín nhiệm để
Nghị viện biểu quyết (Điều 54 Hiến pháp 1946); "Trong thời gian 24 giờ sâu
khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm nội các thì Chủ tịch nước có quyền
đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại... Sau cuộc biểu quyết này,
Nội các mất tín nhiệm phải từ chức" (Điều 59 Hiến pháp 1946)... Những quy
định đó thể hiện đậm nét sự phân công, phân quyền, kiểm tra và giám sát lẫn
nhau giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, với tư cách là mối
quan hệ cơ bản tạo nên chính thể của mọi nhà nước [9, tr. 31].
Nhánh quyền lực tư pháp (Tòa án) được tổ chức bảo đảm sự độc lập
trong quá trình xét xử. Điều này đạt được nhờ hai cách: một là các tòa án
được thiết kế không theo nguyên tắc lãnh thổ mà theo cấp xét xử (Điều 63
Hiến pháp 1946); hai là khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ
quan khác không được can thiệp (Điều 69 Hiến pháp 1946). Theo Hồ Chí
Minh, để tòa án thực sự công tâm, khách quan, thực sự là thành trì của công lý
và lẽ phải thì cần có cơ chế bảo đảm cho tòa án độc lập trong quá trình hoạt
động.

18


Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để nhà nước thực sự là của dân, do dân,

vì dân thì trong tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân công, phân quyền
rõ ràng, có sự kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực. Điều
này không chỉ nhằm phòng tránh sự độc đoán, chuyên quyền dẫn đến lồng
quyền, lạm quyền, xâm hại đến các quyền, tự do và dân chủ của nhân dân mà
còn bảo đảm cho nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có tinh thần trách
nhiệm đối với nhân dân.
- Xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt; xây dựng chế độ trách
nhiệm của nhà nước, của chính phủ đối với nhân dân
Ngay trong lời nói đầu của Hiến pháp 1946 (do Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trì việc soạn thảo) đã khẳng định: "Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và
sáng suốt của nhân dân". Và Người cũng nhận thấy rằng, để có một đất nước
mạnh, đủ khả năng lãnh đạo, chỉ đạo và phản ứng nhanh nhạy, kịp thời với
tình hình của đất nước lúc bấy giờ thì đòi hỏi phải có một chính quyền mạnh,
sáng suốt, mà cụ thể hơn là Chính phủ- hành pháp phải mạnh, vì đây được
xem là động cơ, là xuất phát điểm của toàn bộ bộ máy nhà nước [9]. Theo
những quy định của Hiến pháp 1946 thì Chủ tịch nước có những quyền hạn
khá lớn với vị trí vừa là Nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu cơ quan
hành chính cao nhất của toàn quốc.
Qua các thẩm quyền của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946 cho
thấy, mặc dù chính thể của nước Việt Nam là cộng hòa dân chủ nhân dân
nhưng chế định Chủ tịch nước lại đóng vai trò hết sức quan trọng với các
quyền hạn tương tự quyền hạn của nguyên thủ quốc gia trong chính thể cộng
hòa tổng thống ở các nước tư bản. Đây là sự điều chỉnh hợp lý từ mô hình bộ
máy nhà nước dân chủ nhân dân cấp độ cao xuống cấp độ thấp hơn phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm
1945. Do tính phức tạp của tình hình chính trị sau Tổng tuyển cử năm 1946,
nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc đòi hỏi phải thiết lập và thực thi mộ bộ máy

19



hành chính mạnh mẽ và sáng suốt, vừa tôn trọng Nghị viện nhân dân, vừa
không quá lệ thuộc vào nó, có tính độc lập, chủ động... [17, tr. 47].
Theo Hồ Chí Minh, để có được chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của
nhân dân thì trong tổ chức bộ máy nhà nước còn phải tinh gọn, phân định rõ
ràng chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước, giữa
chính quyền trung ương và địa phương; phải giáo dục, bồi dưỡng và xây dựng
được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên; phải phát huy dân
chủ rộng rãi và phải biết dựa vào nhân dân để xây đựng và cổng cố chính
quyền cách mạng. Người viết: "Nếu chính phủ làm hại đến dân thì dân có
quyền đuổi chính phủ. Nhưng khi dân dùng đầy tớ làm việc cho mình, thì phải
giúp đỡ chính phủ. Nếu chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng
không phải là chửi" [26, tr. 282- 283].
Để có chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và càng mạnh mẽ, sáng suốt
bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm trước nhân dân bấy nhiêu. Nếu chính
quyền vô trách nhiệm trước nhân dân thì nhân dân có quyền đạp đổ chính
quyền đó và lập nên chính quyền mới. Người viết: "Chính phủ và Đảng chỉ
mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân
dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân" [27, tr. 459].
Bên cạnh đó, để có chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách
nhiệm trước nhân dân, theo Hồ Chí Minh cần phải có biện pháp phòng tránh
và kiên quyết chống lại những căn bệnh thường gặp trong bộ máy nhà nước
như tham ô, lãng phí, quan liêu... Nếu không thường xuyên và kiên quyết
chống lại những căn bệnh đó sẽ làm hủy hoại, suy yếu và biến dạng nhà nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt,
tinh thông nghiệp vụ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức là nguồn vốn của nhà
nước; công việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay xấu; chủ trương, chính

20



×