ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------ *** ------
PHẠM THU HƢƠNG
VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ
CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
Chuyên ngành
: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số
: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI XUÂN ĐỨC
HÀ NỘI - 2009
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một bộ phận trong hệ thống chính trị nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò và trách nhiệm quan trọng
trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Vai trò quan
trọng này đã đƣợc xác định trong nhiều văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nhƣ văn kiện các Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng; Nghị quyết 07 (khoá
IX) của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng. Thể chế hoá các quan điểm của
Đảng về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 (đã đƣợc sửa đổi,
bổ sung năm 2001), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đã quy định khá đầy đủ về trách nhiệm và quyền của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân.
Phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, trong
những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều hoạt động phong phú
đa dạng, hiệu quả góp phần quan trọng vào việc tham gia xây dựng chính
quyền; xứng đáng là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Nhà nƣớc, cùng Nhà
nƣớc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
phát huy tinh thần yêu nƣớc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tích cực
vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động, chiến đấu, góp
phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới của đất nƣớc, đặc biệt là từ khi Nhà
nƣớc ban hành Hiến pháp năm 1992 đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
từng bƣớc củng cố, mở rộng về tổ chức, tích cực đổi mới phƣơng thức hoạt
động của mình; tăng cƣờng mối quan hệ với cơ quan nhà nƣớc; phối hợp và
thống nhất hành động với các tổ chức thành viên ở từng cấp; góp phần quan
trọng vào quá trình tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng
cao chất lƣợng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nƣớc, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng
nhà nƣớc ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực;
2
tiếp tục làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, xứng
đáng là cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng và Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn, công tác Mặt trận
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền đến nay chƣa đƣợc nghiên cứu,
tổng kết một cách toàn diện, hệ thống; mặt khác còn có những nhìn nhận,
đánh giá khác nhau, thậm chí chƣa thật đầy đủ, thiếu thống nhất về vị trí, vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia công tác này, từ đó làm hạn chế
phần nào kết quả trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong thời gian qua.
Từ thực tiễn của lịch sử và trƣớc yêu cầu đổi mới của toàn bộ hệ thống
chính trị, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đƣa đất nƣớc thoát
khỏi tình trạng kém phát triển, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
thì việc tìm hiểu và nghiên cứu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong công tác này là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu để thấy đƣợc những đóng góp to lớn của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, đồng thời tìm ra những nguyên nhân của sự hạn chế, đề
xuất các biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài "Vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong từng lĩnh vực cụ
thể nhƣ bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
hoặc ở lĩnh vực giám sát ... đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của một số
công trình khoa học riêng biệt hoặc trong phạm vi tổng thể chung của một số
công trình. Về giám sát thì có khá nhiều các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc sỹ đã nghiên cứu, nhƣ: công trình Đổi
3
mới tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã
hội ở nước ta hiện nay do Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phƣơng chủ
biên, HN. 2007; Đề tài khoa học cấp bộ "Những căn cứ lý luận và thực tiễn
sửa đổi Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam" do Giáo sƣ Lƣu Văn Đạt làm chủ
nhiệm đề tài, HN. 7/2009 "Chuyên đề: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội góp phần xây
dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh do Nguyễn Văn Pha là chủ
nhiệm, HN. 8/2009.
Đối với vai trò tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thiết đƣợc nghiên cứu một cách tổng
thể, trực tiếp riêng biệt và chuyên sâu. Đặc biệt, trƣớc yêu cầu của việc đổi
mới hệ thống chính trị trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và yêu cầu của thực tiễn đời sống chính trị xã hội đặt
ra; thì việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân là
hết sức cần thiết; có giá trị về lý luận và thực tiễn cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; đánh
giá tổng quan về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác này;
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Trên cơ sở mục đích
khoa học đó, luận văn góp phần vào việc tuyên truyền, giải thích những kết
quả đã đạt đƣợc của Mặt trận tham gia xây dựng và củng cố chính quyền;
nhằm khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ
thống chính trị nƣớc ta.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, Luận văn
phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Nêu lên khái niệm, đặc trƣng, vai trò, lịch
sử về vai trò và nội dung cơ bản công tác tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phân tích, đánh giá
4
thực trạng về những kết quả đạt đƣợc và hạn chế trong việc tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân trong thời gian vừa qua, rút ra những
nguyên nhân của hạn chế. Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thiết thực để phát
huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về vai trò một số nội dung, lĩnh vực chính của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay (tức là trong giai đoạn đổi mới), đặc
biệt là từ khi có Hiến pháp năm 1992 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm
1999 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và
về chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện đƣợc các yêu cầu đặt ra đối
với luận văn, việc nghiên cứu đề tài đƣợc tiến hành dựa trên phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng
hợp, logic - lịch sử, so sánh. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp
khai thác và sử dụng các tƣ liệu qua thực tiễn công tác để hoàn chỉnh luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu một cách tƣơng
đối hệ thống, chuyên sâu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
6.2. Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật, đồng thời
chứng minh sứ mệnh lịch sử to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
5
6.3. Luận văn đƣa ra một số kiến nghị về phƣơng hƣớng, giải pháp
chủ yếu về cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Chương 2: Thực trạng về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân
Chương 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở nƣớc
ta hiện nay.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và công tác xây dựng, củng cố chính
quyền nhân dân
1.1.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
Ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng Cộng
sản Việt Nam đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh – hình thức tổ
chức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lƣợng nhân dân
làm cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt
Nam suốt chặng đƣờng gần 80 năm không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, với những hình thức tổ chức và tên gọi
khác nhau, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đã
có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất trong giai đoạn
hiện nay.
Về vị trí, Cƣơng lĩnh Đảng năm 1991 ghi “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận”. Năm 1999, Nhà nƣớc thể chế hoá
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII và qua tổng kết 10 năm đổi mới đã ban hành
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Khái niệm hệ thống chính trị
đƣợc Đảng sử dụng từ hội nghị TW6 (khoá VI), hệ thống đó bao gồm Đảng,
Nhà nƣớc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Nhƣ
vậy, từ đó đến nay, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đƣợc xác định rõ
trong xã hội và hệ thống chính trị. Luận văn sẽ chủ yếu, tập trung đi sâu vào
7
mối quan hệ với Nhà nƣớc để thấy đƣợc vai trò tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Nhà nƣớc đều là bộ phận của hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm
vụ và phƣơng thức hoạt động của Mặt trận và Nhà nƣớc có khác nhau nhƣng
đều là công cụ để nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ của mình
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với Nhà nƣớc là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ và quyền
hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Sự phối hợp này là một tất yếu
và xuất phát từ nhu cầu tự thân của Mặt trận lẫn Nhà nƣớc. Bởi lẽ, củng cố và
tăng cƣờng đoàn kết phải trên cơ sở chính sách pháp luật. Nhà nƣớc có vai trò rất
quan trọng trong việc mở rộng và tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân, không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và công tác quản lý, tạo điều kiện để nhân
dân đƣợc làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhà nƣớc ban hành cơ chế
để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện
xã hội. Mặt trận phải chăm lo xây dựng, bảo vệ và giám sát Nhà nƣớc. Phối hợp
với Nhà nƣớc thì Mặt trận mới có khả năng và điều kiện thực hiện có hiệu quả
các nhiệm vụ của mình.
Nhà nƣớc điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhân dân là ngƣời
trực tiếp thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Nhà nƣớc cần tôn trọng
và tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể động viên nhân dân phát huy quyền
làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, giám
sát và bảo vệ Nhà nƣớc. Trong quá trình ban hành các văn bản về quản lý và điều
hành, cơ quan Nhà nƣớc các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và
các đoàn thể. Nhà nƣớc căn cứ quy chế tổ chức và cơ chế hoạt động để giải quyết
tốt mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và Mặt trận. Nhà nƣớc cần thể chế hoá quyền hạn
và trách nhiệm của Mặt trận trong việc tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Nhà
nƣớc cùng với Mặt trận chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân, vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào để thực hiện thắng lợi
các chƣơng trình kinh tế - xã hội. Mặt trận giới thiệu những ngƣời có đủ tiêu
chuẩn và điều kiện để nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;
8
tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, đại biểu
dân cử, cán bộ, công chức Nhà nƣớc. Cải cách bộ máy Nhà nƣớc trong giai đoạn
hiện nay còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cƣờng mối quan hệ mật
thiết giữa Nhà nƣớc với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Để Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
cùng với nhà nƣớc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, do
đó đòi hỏi sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nƣớc ngày một chặt chẽ hơn.
Trong bài phát biểu với Mặt trận, đồng chí Trƣờng Chinh đã từng nói:
... Chúng ta không nên tƣởng rằng có bộ máy nhà nƣớc trong tay, có
pháp luật thì chỉ cần ra lệnh cho quần chúng tuân theo là mọi việc
xong suôi cả. Tƣởng nhƣ thế là quan liêu, mệnh lệnh. Bất cứ chủ
trƣơng, chính sách gì, kể cả Hiến pháp và pháp luật, quy chế và điều
lệ, nếu không đem tuyên truyền phổ biến trong quần chúng nhân dân,
kiên nhẫn giải thích, thuyết phục và giáo dục cho quần chúng hiểu và
tự nguyện thi hành thì những cái đó cũng chỉ nằm trên giấy tờ. Chính
quyền cách mạng của nhân dân có thể dùng hai biện pháp: thuyết
phục và bắt buộc, kết hợp thuyết phục với bắt buộc, dựa trên cơ sở
thuyết phục mà thực hiện bắt buộc, nói chung thuyết phục vẫn là
chính. Làm thế nào để thuyết phục quần chúng thi hành những chủ
trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc. Đảng đã nắm chính quyền
thì những chủ trƣơng, chính sách quan hệ đến quyền lợi thiết thân
của toàn dân cần đƣợc biến thành quy định của Nhà nƣớc để toàn dân
thi hành. Đảng lãnh đạo chính quyền, chứ không bao biện thay chính
quyền. Song để tránh quan liêu, mệnh lệnh, chính quyền cần dựa vào
Mặt trận và các thành viên của Mặt trận; sử dụng những tổ chức đó
vào việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng để quần
chúng thấu suốt và hăng hái thi hành các chủ trƣơng, chính sách của
Đảng, Nhà nƣớc. [ 28, tr.56-57].
Trở lại mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nƣớc, Điều 9 Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thể chế hoá quan điểm của
Đảng về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhƣ sau:
9
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo và ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc
ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết
toàn dân, tăng cƣờng sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà
nƣớc chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên
nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, đại biểu dân
cử và cán bộ, viên chức Nhà nƣớc.
Nhà nƣớc tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên hoạt động có hiệu quả.[17, tr. 14]
Cũng trong Hiến pháp, tại điều 87 quy định về quyền trình dự án
Luật ra trƣớc Quốc hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận. Tại Điều 111 quy định: “Chủ tịch Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các
phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề liên quan”. Tại Điều 112 quy
định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ có nhiệm vụ: “Phối hợp với
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động
có hiệu quả” và tại Điều 125 quy định:
Chủ tịch Uỷ ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ngƣời
đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phƣơng đƣợc mời tham dự hội
nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình
hình mọi mặt của địa phƣơng cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây
10
dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng; phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân
dân cùng nhà nƣớc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh ở địa phƣơng. [17, tr. 67 ]
Nhƣ vậy, Hiến pháp có 5 điều quy định những nội dung cơ bản về
quyền và trách nhiệm của Mặt trận; về trách nhiệm của Nhà nƣớc, của
Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đối với Mặt
trận và mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nƣớc. Đây là những quy định
có tính Hiến định quy định mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nƣớc. Sở
dĩ cơ quan nhà nƣớc phải phối hợp với Mặt trận vì bản chất Nhà nƣớc ta là
Nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà
nƣớc có chức năng quản lý, Mặt trận Tổ quốc là tổ chức liên minh chính
trị, là nhân dân có tổ chức do nhân dân lập ra. Để thực hiện tốt chức năng
quản lý, Nhà nƣớc phải dựa vào Mặt trận, phối hợp với Mặt trận. Quan hệ
phối hợp ở đây đƣợc hiểu là sự bình đẳng, tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau
trên cơ sở các quy định thống nhất giữa hai bên để thực hiện một chủ
trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc hoặc Chƣơng trình hành động của
Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận có trách nhiệm phối hợp với Nhà nƣớc để thực
hiện tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, bảo đảm thực hiện
có hiệu quả các quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật,
trong đó có trách nhiệm tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội.
Phƣơng thức phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nƣớc đƣợc thực hiện
thông qua các quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các cơ quan nhà nƣớc cùng cấp ban hành ngày càng thiết thực và
có hiệu quả. Từ khi có Luật Mặt trận Tổ quốc (năm 1999) đến nay, thực
hiện điều 5 về quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nƣớc, ở trung ƣơng đã xây
dựng và ban hành đƣợc 21 văn bản liên tịch, trong đó có 5 quy chế phối
hợp công tác, 8 nghị quyết liên tịch, 8 thông tƣ liên tịch với cơ quan nhà
nƣớc ở trung ƣơng, trong số đó phần lớn là văn bản liên tịch với Chính phủ,
các bộ. Ở địa phƣơng, tất cả các tỉnh đã xây dựng và ban hành quy chế phối
hợp giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân, giữa Uỷ ban
11
Mặt trận Tổ quốc với Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ở cấp huyện có 98% số
huyện, ở cấp xã có 95% số xã đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp
giữa Mặt trận với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Hàng
năm, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đều phối hợp với cơ quan nhà nƣớc, chính
quyền cùng cấp liên quan tổ chức hội nghị liên tịch giữa hai bên để kiểm
điểm việc thực hiện quy chế và thống nhất chƣơng trình, nội dung phối hợp
công tác của năm tới; sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp công tác.
1.1.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp cách mạng là
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nƣớc đều thuộc
về nhân dân và thực tiễn hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt
Nam, gần tám thập kỷ qua cho thấy Đảng ta luôn coi trọng vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, đề cao vai trò
giám sát và tham gia góp ý kiến của các tổ chức này. Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngƣời sáng lập và rèn luyện Đảng ta khi nói về chính sách đại đoàn kết dân
tộc nhƣ sau: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới,
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân", "làm việc gì cũng
phải có quần chúng, không có quần chúng, không thể thực hiện được". Vì
thế, Nhà nƣớc và Mặt trận đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo và đều là bộ phận
của hệ thống chính trị. Tuy chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn có khác nhau
nhƣng đều là công cụ để quần chúng nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng viết: Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần được đổi mới về tổ
chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các công
việc quản lý Nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa
Đảng và Nhà nước với nhân dân…" [8, tr.364-365].
12
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khoá VII viết: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nước ta bao
gồm rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp, tạo thành cơ sở chính trị, chỗ dựa
vững chắc của Nhà nước...” [8, tr.378].
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng Cộng sản Việt Nam viết: "Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ
mọi hoạt động tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp
của Mặt trận và các đoàn thể. Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả" [8, tr. 367].
Nghị quyết Đại hội X Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc
tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”. Quan điểm nêu trên
của Đảng ta về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là phù hợp với nhiệm
vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới của cách mạng Việt
Nam và không chồng chéo, mâu thuẫn với vai trò, chức năng của Nhà nƣớc
là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Bởi lẽ, Cƣơng lĩnh xây
dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định: “toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi
ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân” mà Đảng là lực lƣợng lãnh
đạo Nhà nƣớc và Nhà nƣớc là ngƣời tổ chức thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng
của Đảng thông qua việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật và tổ
chức thực hiện chính sách pháp luật đó thì đƣơng nhiên mọi hoạt động của
Nhà nƣớc cũng đều phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
các tầng lớp nhân dân. Nhà nƣớc có quyền và trách nhiệm trọng đại là quản
lý và điều hành đất nƣớc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhƣng
phải bằng pháp luật và pháp luật đó phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chân chính của nhân dân. Để đạt đƣợc mục đích đó thì quá trình xây dựng
chính sách, pháp luật cần lấy và tiếp thu ý kiến của nhân dân thông qua Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và ở mức độ cao hơn là “phản
biện xã hội”. Mặt khác, khi chính sách pháp luật của nhà nƣớc đƣợc ban
13
hành, thì chính nhà nƣớc phải có trách nhiệm tổ chức, thực hiện nghiêm
chỉnh những quy định của chính sách, pháp luật đó, nhất là những chính
sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Thực
tiễn những năm qua, có những chính sách, pháp luật chƣa thực sự đi vào
cuộc sống, trong những lý do chủ yếu đó là còn có những vi phạm từ phía cơ
quan nhà nƣớc, công chức nhà nƣớc, do vậy, rất cần có sự giám sát của nhân
dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm động viên nhân dân thực
hiện quyền giám sát và nhân dân thực hiện giám sát qua Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể nhân dân. Tức là nhân dân có tổ chức mới tạo ra sức
mạnh, cá nhân mỗi ngƣời dân tự đứng ra để thực hiện quyền giám sát của
mình thì không thể tạo ra sức mạnh và hiệu quả sẽ thấp.
1.2. Lịch sử về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhƣ một tất yếu lịch sử của
dân tộc. Trải qua các giai đoạn lịch sử, Mặt trận có nhiều tên gọi khác
nhau phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Tiền thân là Hội phản đế đồng
minh đƣợc thành lập ngày 18/11/1930, Phản đế Liên minh (tháng 3/1935),
Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (tháng 10/1936), Mặt trận Dân chủ
Đông Dƣơng (tháng 6/1938), Mặt trận thống nhất Dân tộc phản đế Đông
Dƣơng (tháng 11/1939), Việt Nam độc lập đồng minh hội gọi tắt là Mặt
trận Việt Minh (19/5/1941), Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là
Liên Việt (29/5/1946), thống nhất Việt Minh-Liên Việt thành Mặt trận
Liên Việt (3/3/1951), đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 9/1955), Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam (20/12/1960), Liên minh các lực lƣợng
dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam (20/4/1968). Đại hội thống nhất
các tổ chức Mặt trận ở hai miền thành một Mặt trận dân tộc thống nhất
duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (4/2//1977).
Lịch sử cho thấy, khi chƣa có chính quyền, Mặt trận vận động nhân
dân làm cách mạng giành chính quyền, khi chính quyền về tay nhân dân,
Mặt trận vận động nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền, vì
14
đó là chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mối quan hệ
giữa Mặt trận với chính quyền và Mặt trận mang yếu tố lịch sử và cách mạng
suốt gần 80 năm qua, đó là mối quan hệ tất yếu, khách quan trong công cuộc
giành, giữ, bảo vệ chính quyền và xây dựng, phát triển đất nƣớc.
1.2.1. Vai trò của Mặt trận thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (1930-1975)
Tính tất yếu của Mặt trận dân tộc thống nhất trong Cách mạng nƣớc ta
đƣợc lịch sử chứng minh: Cách mạng càng tiến lên, Mặt trận Dân tộc thống nhất
không bị co hẹp lại, mà ngày càng được củng cố và phát triển rộng rãi.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lƣợc, với chính sách cai trị phản
động, hà khắc; đời sống nhân dân ta, nhất là giai cấp nông dân phải chịu kiếp
sống lầm than, cơ cực và bần cùng hoá sâu sắc. Mặt trận Dân tộc thống nhất
Việt Nam ra đời có sứ mệnh tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia
chống thực dân Pháp và địa chủ phong kiến, giành độc lập, tự do cho đất
nƣớc. Nếu nhƣ Hội phản đế đồng minh có nhiệm vụ là “hấp thụ các tầng lớp
trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào lớp giữa cũng
vậy và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp,
mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào
trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp ...” [12, tr.61]. Đến thời kỳ Mặt trận Việt
Minh, hoạt động lại tập trung vào việc: “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân
dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp
nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ
sở ...” [6, tr.431].
Lịch sử đã ghi nhận Mặt trận Việt Minh là một trong những đỉnh cao
của các hình thức tổ chức Mặt trận do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo. Đây là thời kỳ mà tính tổ chức và tính phong trào, tính hiệu
quả, thiết thực với tính tƣợng trƣng, tiêu biểu trong hoạt động Mặt trận đƣợc
phát triển và hoàn thiện nhất. Mặt trận Việt Minh đã thu hút đƣợc các giới
đồng bào yêu nƣớc, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tƣ sản đến tƣ sản
dân tộc, phú ông, địa chủ yêu nƣớc ... đƣa phong trào đấu tranh cách mạng ở
nƣớc ta phát triển mạnh mẽ, nhất là qua cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của
toàn dân ta trong những năm 1941 – 1945 và đặc biệt là thông qua cuộc
15
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong năm 1945. Mặt trận Việt Minh đã
góp phần quyết định vào thành công của Cách mạng tháng Tám, mang lại tự
do, độc lập cho dân tộc; thực sự đóng vai trò của chính quyền nhân dân, quản
lý mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Đánh giá khái quát về vai trò, ý
nghĩa và nguyên nhân thành công của Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ rệt, thiết thực
và hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn, thiết
thực mà đầy đủ của Mặt trận gồm 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể:
Có mười chính sách bày ra,
Một là lợi ích quốc gia, hai là lợi dân ...
Vì thế mà Việt minh được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh và cũng do
cán bộ rất cố gắng đi sát với dân, cho nên Việt Minh phát triển rất mau và
rất mạnh” [12, tr.342].
Văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) chỉ rõ: "Mặt trận hiện là
một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh vô biên
của cuộc kháng chiến kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một
áo giáp bền vững của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng".
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nƣớc ta bị tạm thời chia cắt
thành hai miền; miền Bắc đƣợc giải phóng, còn miền Nam bị đế quốc Mỹ
nhảy vào thay thế thực dân Pháp với âm mƣu chiếm đóng lâu dài và biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Cách mạng Việt Nam lúc này
có hai nhiệm vụ chiến lƣợc, đó là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
tiến tới thống nhất đất nƣớc. Trƣớc tình hình đó, Đảng ta đã sớm xác định do
mỗi miền đất nƣớc có chiến lƣợc cách mạng khác nhau, do đó cần thiết phải
thành lập ở mỗi miền một Mặt trận Dân tộc thống nhất phù hợp nhằm mở
rộng và tăng cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc và thống nhất đất nƣớc. Mặt trận trong giai đoạn này phải
đảm đƣơng một phần chức năng của chính quyền, nhất là ở vùng căn cứ địa
cách mạng và vùng mới giải phóng (nhƣ tổ chức Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam).
16
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận khẳng
định mà do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thắng lợi huy hoàng
của cách mạng tháng 8 năm 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt
Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách
mạng đã đƣợc chuẩn bị từ trƣớc của Hội Phản đế đồng minh (1930 – 1936)
và của Mặt trận Dân chủ Đông Dƣơng (1936 – 1939). Tiếp theo Mặt trận
Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đƣa cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh
thống nhất nƣớc nhà. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Liên minh các lực lƣợng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam
đoàn kết nhân dân cả nƣớc làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang; giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nƣớc. Từ khi đất nƣớc thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cƣờng khối đại đoàn
kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhƣ vậy, quá trình hình thành và phát triển Mặt trận dân tộc thống
nhất Việt Nam là quá trình không ngừng đấu tranh chống mọi khuynh hƣớng
"tả khuynh" và "hữu khuynh" nhằm tập hợp lực lƣợng để xây dựng và củng
cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Điểm then chốt có ý
nghĩa quyết định và sáng tạo về lý luận và thực tiễn trong tƣ tƣơng Hồ Chí
Minh là đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, một nƣớc thuộc địa, nửa phong
kiến, mà ở đó mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lƣợc và bè lũ tay sai.
1.2.2. Vai trò của Mặt trận thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa từ
năm 1975 đến nay
Từ sau khi nƣớc nhà thống nhất, Mặt trận đã trải qua hai thời kỳ hoạt
động. Đó là thời kỳ trƣớc đổi mới (năm 1986) và thời kỳ sau đổi mới. Gắn
17
liền với những chuyển biến của đất nƣớc qua hai thời kỳ đó, hoạt động của
Mặt trận cũng mang những sắc thái riêng của mỗi thời kỳ; trƣớc khi đổi mới
là thời kỳ hoạt động của Mặt trận mang tính hình thức, hạn hẹp; sau khi đổi
mới là thời kỳ không ngừng tìm tòi, đổi mới hoạt động và tổ chức mặt trận
tạo ra những biến đổi liên tục.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta còn tồn tại lâu dài các
giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Với nền kinh tế nhiều thành
phần, có nhiều hình thức sở hữu về tƣ liệu sản xuất, nhƣng cơ cấu, tính chất,
vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi
to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội
là quan hệ đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp ra đời, sự phát triển của khoa học
công nghệ, sự giao lƣu văn hoá không ngừng tác động đến lối sống, suy nghĩ
của mọi tầng lớp, mọi ngƣời trong xã hội. Mặt khác, các thế hệ thù đích đang
thực hiện chiến lƣợc “diễn biến hoà bình” với nhiều âm mƣu chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Ở giai
đoạn này, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục có sứ mệnh lịch sử là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nhằm đoàn kết rộng rãi mọi giai tầng
trong xã hội, tăng cƣờng sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân,
phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ, động viên nhân dân thi
đua lao động, sản xuất, tích cực tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhƣ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng cách
mạng to lớn của cách mạng nước ta”.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện đất
nƣớc tạo ra xu thế đổi mới chung, trong đó có phƣơng hƣớng đổi mới Mặt trận
và các đoàn thể. Tuy không có nhiều đột phá, nhƣng mở ra các nhiệm vụ mới
để Mặt trận có điều kiện tích cực tham gia đổi mới cơ chế quản lý, chuyển
mạnh hoạt động về cơ sở.
18
Trong thời kỳ đổi mới, với những thành công bƣớc đầu, khi đất nƣớc ta
thoát ra khỏi khủng hoảng, tháng 12-1993, Bộ Chính trị Trung ƣơng Đảng đã ra
Nghị quyết số 07-NQ/TW về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân
tộc thống nhất. Nghị quyết chỉ rõ: "Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yếu tố dân
tộc trở thành một đặc điểm cực kỳ quan trọng". Văn kiện này đã đánh dấu một
bƣớc chuyển rất quan trọng trong chủ trƣơng về vai trò, vị trí vấn đề về dân tộc,
và tăng cƣờng Mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm khắc phục những lệch lạc về
giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan niệm về ta, bạn, thù và xác lập tƣ duy về đại
đoàn kết, hoà hợp dân tộc.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) đã khẳng định: "Động lực
chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân".
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, với
nền dân chủ ngày càng phát triển thì sứ mệnh của Mặt trận và các đoàn thể
ngày càng đƣợc mở rộng. Nghị quyết Đại hội X của Đảng tại mục X về “phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ...” đã chỉ rõ vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có
vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đưa
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; các chương trình kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống nhân dân, góp phần xây dựng
sự đồng thuận trong xã hội. Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội” [5, tr.124].
Nhƣ vậy, là sau khi thống nhất các tổ chức Mặt trận cho đến khi chính
thức phát động công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc, đảng luôn chú trọng bổ
sung, hoàn thiện về vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận, những đổi mới về kinh tế diễn
ra sôi động trong xã hội đã dần thúc đẩy việc đổi mới hoạt động của Mặt trận.
Nhìn từ lịch sử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trƣớc chính quyền,
khi chƣa có chính quyền dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã đảm nhiệm một số chức năng của chính quyền ở vùng căn cứ địa
cách mạng, vùng mới giải phóng nhƣ Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam trƣớc đây. Khi cách mạng thành công,
19
chính quyền ra đời, chính quyền đƣợc xây dựng và củng cố trên cơ sở nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhìn lại quá trình hình thành và
phát triển của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khẳng định rõ bản chất cơ bản,
xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một
tổ chức luôn trung thành với lợi ích của nhân dân, ra sức xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp tất cả các lực lƣợng trong xã hội
thành một khối thống nhất, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc
để thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng đề ra
trong từng giai đoạn lịch sử. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp
phần quan trọng trong việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực và củng cố khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đã làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, là cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng, Nhà nƣớc; đã, đang
và sẽ thực hiện tốt vai trò đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân nhƣ Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu ra, đồng thời là nơi phối hợp
và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên.
1.3. Nội dung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền
1.3.1. Đặc trưng vai trò tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tại Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quy định:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo và ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc
ngoài.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của
nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể
hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
20
quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thƣơng, phối hợp, thống nhất
hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. [20, tr.5].
Từ quy định trên, có thể thấy một số đặc trƣng cơ bản thể hiện vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhƣ sau:
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện rộng rãi nhất của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo và ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài. Liên minh chính trị chính là sự liên kết các lực lƣợng với nhau trong
một khối thống nhất để cùng nhau thực hiện mục tiêu chính trị chung là giữ vững
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nƣớc giàu
mạnh, dân chủ, văn minh. Mục tiêu chung đó ở mỗi giai đoạn khác nhau phù hợp
với mục tiêu cách mạng và các lợi ích cơ bản của các lực lƣợng tham gia liên
minh. Là tổ chức liên minh chính trị, nhƣ vậy, đƣơng nhiên Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam không phải là đoàn thể, không có hội viên, đoàn viên, mà chỉ có các
thành viên bao gồm thành viên là tổ chức và thành viên là cá nhân tiêu biểu. Các
tổ chức, cá nhân tự nguyện gia nhập và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, khi tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các thành viên đều có địa vị bình
đẳng trong phối hợp và thống nhất hành động và độc lập về tổ chức. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức có cơ sở xã hội rộng rãi nhất so với các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị, do đặc điểm này mà Mặt trận có những điều kiện để tập
hợp, vận động đông đảo các tầng lớp nhân dân, mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn, cùng nhau thực hiện chƣơng trình phối hợp
và thống nhất hành động chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tham gia xây dựng chính quyền nhân dân.
Hai là: ngoài những phƣơng thức vận động quần chúng nói chung, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam còn có các phƣơng thức hoạt động đặc thù không
giống với phƣơng thức hoạt động của Đảng, chính quyền. Cƣơng lĩnh Đảng
21
năm 1991 ghi: “Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình
hành động chung”. Đặc điểm cơ bản trong phƣơng thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là vận động, giáo dục, thuyết phục, phối hợp và thống
nhất hành động. Đó chính là cách thức, phƣơng pháp tiến hành những công
việc để phù hợp với vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Đây chính là lợi thế căn bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc
động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, đại
biểu dân cử và các bộ, công chức nhà nƣớc. Phƣơng thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam rất phong phú, đa dạng và không ngừng đƣợc đổi mới
để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong giai đoạn mới, đồng thời phù hợp với tinh thần Nghị quyết VIII,
IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ... Thực hiện nề nếp việc Đảng và Nhà
nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến Mặt trận về những quyết định, chủ
trương lớn”.
Ba là: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận
cách mạng nƣớc ta. Đảng là thành viên của Mặt trận nhƣng với tƣ cách
thành viên lãnh đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lƣợng quần
chúng nhân dân theo Đảng làm cách mạng. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng
phải ở trong Mặt trận, là một thành viên của Mặt trận, Đảng không thể
đứng trên hoặc đứng ngoài để lãnh đạo Mặt trận. Về vấn đề này Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình,
mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, ... chỉ trong đấu tranh
và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách
đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành đƣợc
địa vị lãnh đạo. [6, tr.347].
22
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng
yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; Đảng tiến
hành công tác tuyên truyền vận động, thuyết phục, tổ chức, giám sát, kiểm tra và
bằng sự gƣơng mẫu của đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận
đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình
đẳng và có nghĩa vụ nhƣ mọi thành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng trong Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tham gia sinh hoạt đầy đủ, chủ
động trình bày các chủ trƣơng và kiến nghị của Đảng đối với Mặt trận, đồng thời
lắng nghe ý kiến, tâm tƣ nguyện vọng của các thành viên, thực hiện hiệp thƣơng
dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc
ngày nay, quan điểm của Đảng là phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở các cấp, các ngành để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Yêu cầu mới đặt ra trong giai
đoạn hiện nay, mà Đảng ta xác định đó chính là Nhà nƣớc cần xây dựng và ban
hành Quy chế về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân đối với dự thảo đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách,
quyết định lớn của Đảng, kể cả công tác tổ chức và cán bộ trƣớc khi ban hành.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, là nền tảng để xây dựng nên bộ máy nhà nƣớc. Hệ thống
của Mặt trận đƣợc hình thành theo cấp hành chính là: trung ƣơng; tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã,
phƣờng, thị trấn. Ở mỗi cấp hành chính có Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam – là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận cùng cấp; đại
diện cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở từng cấp là Ban Thƣờng trực.
Dƣới cấp xã có Ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cƣ. Với các cấp hành
chính nhƣ vậy, rất phù hợp với việc tham gia xây dựng và củng cố chính
quyền nhân dân ở từng cấp.
23
1.3.2. Nội dung tham gia xây dựng và củng cố chính quyền
Nhƣ đã nêu ở trên, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đặc
biệt là trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta suốt chặng
đƣờng 45 năm làm cách mạng (từ 1930) đổ biết bao xƣơng máu để lật đổ
chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc xâm lƣợc giành chính quyền về tay
nhân dân (năm 1945), giải phòng miền Bắc (năm 1954) và đấu tranh thống
nhất nƣớc nhà (năm 1975). Trong đấu tranh cách mạng để giành chính
quyền rồi phải xây dựng và củng cố chính quyền vững mạnh, trong sạch,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, luôn đƣợc đặt ra trong suốt quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, công tác này đƣợc hệ thống hoá thành những hoạt động cụ thể
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực chủ yếu nhƣ sau:
1.3.2.1. Tham gia xây dựng bộ máy nhà nước
- Vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong bầu cử
đƣợc quy định tại Điều 8 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đƣợc cụ thể
hoá trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân và các văn bản pháp luật liên quan. Đây là một trong những
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của công tác tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của
cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng và sự phối
hợp chặt chẽ của các cơ quan nhà nƣớc. Theo quy định của pháp luật, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tham gia công tác này với sáu nhiệm vụ cụ thể.
Một là, Ban Thƣờng trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng với cơ
quan nhà nƣớc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử và cử đại diện Ban Thƣờng
trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cùng cấp.
Hai là, Ban Thƣờng trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức hiệp
thƣơng, lựa chọn giới thiệu những ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân.
24
Ba là: Ban Thƣờng trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì phối hợp với
chính quyền cùng cấp ở xã, phƣờng, thị trấn tổ chức hội nghị cử tri ở nơi cƣ
trú, để lấy ý kiến nhận xét và sự tín nhiệm của cử tri trƣớc khi tổ chức hội
nghị hiệp thƣơng lần thứ ba lựa chọn, lập danh sách chính thức giới thiệu
ngƣời ứng cử.
Bốn là, Ban Thƣờng trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc chủ trì tổ chức các
hội nghị cử tri để ứng cử viên gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri, thực hiện quyền
vận động bầu cử.
Năm là, tham gia tuyên truyền, vận động cử tri thực hiện quyền bầu
cử, tự mình đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử.
Sáu là, thực hiện quyền giám sát việc bầu cử thông qua việc cử đại
diện của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban
Thƣờng vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc tự mình tổ chức các đoàn
giám sát thực hiện các công việc bầu cử.
Trong sáu nhiệm vụ về bầu cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kể trên,
có thể nói nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Mặt trận là tổ chức hiệp thƣơng
lựa chọn, giới thiệu ngƣời ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân. Bên cạnh đó, tại các kỳ họp của Quốc hội, đại diện Uỷ ban Trung ƣơng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay mặt nhân dân cả nƣớc trình bày trƣớc
Quốc hội những ý kiến, kiến nghị, tâm tƣ, nguyện vọng của cử tri và nhân
dân cả nƣớc để Quốc hội, các cơ quan Nhà nƣớc nghiên cứu, giải quyết.
Các phiên họp của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, đại diện Uỷ ban
Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đƣợc mời tham dự và phát biểu về
các vấn đề liên quan. Ở địa phƣơng, đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
các cấp tham dự các kỳ họp thƣờng kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp và
phát biểu về công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền; chủ trì các
Hội nghị cử tri, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri về các lĩnh vực thành
văn bản kiến nghị tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân cùng cấp, hoặc gửi
Ban Thƣờng trực Uỷ ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Trung ƣơng Đảng, Quốc hội, Chính phủ.