Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ CẢNH CHIẾN

VĂN HÓA PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ CẢNH CHIẾN

VĂN HÓA PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN

Chuyên ngành: Lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế

Hà Nội – 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Cảnh Chiến

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan


Danh mục biểu đồ
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................1
CHƯƠNG 1.........................................................................7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT HẢI QUAN............7
1.1. Khái niệm và các thành tố cơ bản của văn hóa pháp luật............................................7
1.1.1. Khái niệm về văn hóa:..........................................................................................7
1.1.2. Khái niệm về văn hóa pháp luật:........................................................................10
1.2. văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan................................................................32
1.2.1. khái niệm và đặc trưng của văn hóa pháp luật hải quan.....................................32

1.2.2. Các thành tố (cấu trúc) cơ bản của văn hóa pháp luật hải quan:........................40

CHƯƠNG 2.......................................................................46
THỰC TRẠNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC......46
HẢI QUAN, KẾT QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG TỒN
TẠI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT.........46
HẢI QUAN..........................................................................46
2.1. Thực trạng về tổ chức hải quan Việt Nam từ khi thành lập đến nay (1945) đến nay
..........................................................................................................................................46
2.1.1 Giai đoạn 1945 - 1954........................................................................................46
2.1.2 Giai đoạn 1954 - 1975:........................................................................................48
2.1.3 Giai đoạn 1976 - 1986.........................................................................................49
2.1.4 Giai đoạn 1986 - 2002.........................................................................................50
2.1.5 Từ năm 2002 đến nay..........................................................................................53
2.2. Thực trạng về hệ thống pháp luật hải quan...............................................................54
2.3. Thực trạng về ý thức pháp luật, thực hiện pháp luật trong lĩnh vực hải quan...........70
2.3.1. Về cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho xuất khẩu, nhập khẩu, quá
cảnh, du lịch.................................................................................................................70
2.3.2. Về hiện đại hóa quản lý hải quan, áp dụng các phương thức quản lý hải quan
hiện đại.........................................................................................................................75
2.3.3. Hiện đại hoá, tin học hóa công tác thống kê hải quan........................................82
2.3.4. Đảm bảo thu đúng, thu đủ các nguồn thu cho ngân sách quốc gia theo chỉ tiêu
được giao......................................................................................................................83
2.3.5. Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan.................84
2.3.6. Triển khai thực thi các điều ước quốc tế............................................................87

CHƯƠNG 3.......................................................................93
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA PHÁP LUẬT HẢI
QUAN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......93

3.1 Quan điểm cơ bản về xây dựng văn hóa pháp luật hải quan......................................93


3.1.1. Xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan nhằm đảm bảo quyền, lợi
ích của các chủ thể trong lĩnh vực hải quan.................................................................93
3.1.2. Xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan nhằm tạo niềm tin, uy tín
của cơ quan hải quan đối với khách hàng, sự chuyên nghiệp, minh bạch và mang tính
hiệu quả cao..................................................................................................................95
3.1.3. Xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan theo định hướng hiện đại
hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc.................................................................................................................................95
3.2. Một số giải pháp đề xuất xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan........97
3.2.2.Giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực hải quan.............110
3.2.3. Một số giải pháp khác......................................................................................113

KẾT LUẬN........................................................................124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................125


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
1

Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

3.1

sơ bộ hệ thống VNACCS/VCIS [27]


Trang
117


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi bàn về văn hóa, chúng ta luôn biết về tầm quan trọng của vấn đề này. Văn
hóa luôn hiển hiện trong đời sống con người, người ta nhắc đến văn hóa như
là những gì tốt đẹp, chuẩn mực được xã hội thừa nhận. Nhưng văn hóa là một
khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận từ nhiều góc độ, liên ngành, đa
ngành thì mới có thể nhận thức, đánh giá, nhận diện đầy đủ được, dù đó là
hình thái văn hóa nào, chính trị, tôn giáo, kinh tế hay pháp luật. Mặc dù trên
thế giới cho đến nay tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, dẫn
đến những định nghĩa khác nhau song tựu trung lại, văn hóa là tổng thể những
giá trị vật chất, tinh thần được hình thành và sáng tạo trong hoạt động của con
người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ cộng đồng này sang
cộng đồng khác. Nghiên cứu về văn hóa đòi hỏi sự tìm tòi để nhận diện được
và đưa ra những giải pháp để xây dựng, vun đắp nền văn hóa càng phong phú,
tiên tiến và đậm đà bản sắc.
Khái niệm văn hóa pháp luật đã được biết đến ở nước ta từ lâu, nhưng sự
nghiên cứu vẫn còn ở mức độ vừa phải, chưa đáp ứng được với tầm quan
trọng của văn hóa pháp luật trong đời sống pháp luật Việt Nam. “Văn hóa
pháp luật là hệ thống các yếu tố, giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực
tác động của pháp luật được thể hiện trong ý thức, tư tưởng và hành vi của
con người”[14]
Nền kinh tế Việt Nam từ khi độc lập đã trải qua 30 năm chiến tranh ác liệt và
những năm thử thách trong thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh. Với cái
tên đầu tiên là “Sở Thuế quan và thuế gián thu” được thành lập với mục đích
đảm bảo việc kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu và duy trì nguồn thu ngân

sách. Hải quan Việt Nam không ngừng chăm lo xây dựng, hoàn thiện và nâng
cao cơ sở pháp lý - quản lý Nhà nước để ngày càng phù hợp hơn với thực tiễn

1


của nước Việt Nam. Từ chỗ Hải quan Việt Nam còn phải tạm thời sử dụng
những quy định nghiệp vụ về thuế quan của chính quyền thực dân đến nay đã
xây dựng và ban hành được “Điều lệ Hải quan”, Pháp lệnh Hải quan và tiếp
đó là Luật Hải quan Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002. Với
những mục tiêu nhằm tạo thuận lợi cho phát triển XNK, thu hút đầu tư nước
ngoài, phát triển du lịch và giao thương quốc tế, đáp ứng được những yêu cầu
hội nhập luôn là một nhiệm vụ quan trọng phải hoàn thành để ngành hải quan
luôn xứng đáng là “chiến sỹ gác cửa nền kinh tế”
Là một công chức hải quan, tác giả luôn trăn trở với những vấn đề về chính
sách pháp luật, về cách thức quản lý nhà nước về hải quan,về thực trạng thực
hiện, chấp hành pháp luật hải quan của công chức hải quan và các đối tượng
quản lý. Chính điều đó đã thúc đẩy người viết luận văn nghiên cứu sâu hơn về
văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan để làm rõ thêm lý luận về văn hóa
pháp luật trong lĩnh vực hải quan góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật về hải quan, đưa ra các tiêu chuẩn các hành vi ứng xử của các đối tượng
tham gia vào lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay đã được nghiên cứu, bình luận,
trao đổi dưới nhiều hình thức. Thông qua những Tạp chí chuyên ngành như:
Nghiên cứu lập pháp, Luật học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp
luật... các tác giả đã bày tỏ quan điểm cá nhân của mình xung quanh khái
niệm, vai trò, và những biện pháp nâng cao vấn đề văn hóa pháp luật. Cụ thể
như sau:
- Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt nam, Nxb Tư pháp, Hà nội.

- Hoàng Thị Kim Quế (2004), “Văn hóa pháp lý – dòng riêng giữa nguồn
chung của văn hóa dân tộc Việt nam”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật.

2


- Nguyễn Văn Động (2006), “Văn hóa pháp lý trong điều kiện phát huy dân
chủ ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật.
- Lê Vương Long (2006), “Văn hóa pháp lý Việt nam trong xu thế toàn cầu
hóa”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
- Lê Minh Tâm (1998), “Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Luật học.
- Lê Thanh Thập (1999), “Mấy suy nghĩ về văn hóa và văn hóa pháp luật ở
nước ta”, Tạp chí Luật học.
- Phạm Duy Nghĩa (2008), “Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật”, Tạp chí
khoa học – Đại học Quốc gia Hà nội.
- Nguyễn Thị Hồi (2008), “Ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật.
Với đề tài Văn hóa pháp luật cũng đã từng có nhiều luận văn, luận án, khóa
luận tốt nghiệp nghiên cứu và phân tích. Trong đó không thiếu các đề tài cấp
Bộ, cấp nhà nước, cấp tỉnh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề
nâng cao trình độ văn hóa pháp luật cho người dân cũng như thể hiện thái độ
quan tâm, chú trọng của Đảng và nhà nước ta.
Luận văn này người viết tập trung nghiên cứu những vấn đề về phương diện lý
luận chung về văn hóa pháp luật, chú trọng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực
hải quan ở nước ta hiện nay và hoạt động xây dựng văn hóa pháp luật trong
lĩnh vực hải quan, đáp ứng yêu cầu hội nhập của đất nước, những kết quả đạt
được và những tồn tại. Đồng thời đưa ra một số quan điểm và giải pháp xây
dựng văn hóa pháp luật hải quan trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào cơ sở lý luận của văn hóa pháp
luật trong lĩnh vực hải quan, đánh giá lại thực trạng của văn hóa pháp luật hải
quan từ khi thành lập ngành hải quan Việt Nam cho tới nay, để từ đó đưa ra
những quan điểm, giải pháp xây dựng văn hóa pháp luật hải quan trong bối

3


cảnh hội nhập
4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
văn hóa pháp luật trong lĩnh vực Hải quan, đánh giá lại những điểm còn tồn
tại trong thực trạng văn hóa pháp luật hải quan để từ đó đưa ra những quan
điểm, giải pháp xây dựng văn hóa pháp luật hải quan trong bối cảnh hội nhập
ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện tốt mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích làm sáng tỏ các khái niệm, vai trò và
đặc trưng của văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan
- Nghiên cứu thực trạng của văn hóa pháp luật hải quan ở góc độ các thành tố
cấu thành, những mặt còn tồn tại để từ đó đề xuất giải pháp xây dựng.
- Nêu quan điểm cơ bản về xây dựng văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải
quan và đề xuất những giải pháp xây dựng văn hóa pháp luật hải quan trong
bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu và hình thành trên cơ sở vận dụng các phương
pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu giữa lý
luận và thực tiễn....

6. Kết cấu của luận văn
Từ mục tiêu nghiên cứu luận văn này được chia làm ba phần chính:
- Phần thứ nhất sẽ làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về văn hóa pháp
luật trong lĩnh vực hải quan
4


- Phần thứ hai là nêu lên thực trạng của văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải
quan từ lúc thành lập ngành hải quan Việt Nam (1945) đến nay dưới góc độ
nghiên cứu thực trạng những thành tố cấu thành nên văn hóa pháp luật, đánh
giá thực trạng và những vấn đề còn tồn tại
- Phần thứ ba là đưa ra những quan điểm cơ bản và một số giải pháp xây dựng
văn hóa pháp luật hải quan trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Tổng hợp lại những vấn đề lý luận về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực
chuyên ngành, cụ thể là trong lĩnh vực pháp luật hải quan
- Đánh giá chi tiết thực trạng của văn hóa pháp luật hải quan dưới góc độ các
yếu tố cấu thành nên nó.
- Làm rõ vấn đề văn hóa pháp luật hải quan không chỉ đơn thuần là những
hành vi văn minh, lịch sự của công chức hải quan, của khách hàng mà còn là
cả hệ thống pháp luật hải quan tiên tiến, thích ứng với yêu cầu của công cuộc
đổi mới, hội nhập hiện nay
- Đưa ra những giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển văn hóa pháp luật
hải quan, có tính chất định hướng rõ để xây dựng ngành hải quan “chuyên
nghiệp – minh bạch – hiệu quả”
8. Lời cảm ơn và mong đợi của người viết luận văn
Văn hóa pháp luật xét về phương diện lý luận và thực tiễn là vô cùng phức
tạp, đa dạng cả về hình thức và nội tại và biểu hiện bên ngoài; quản lý nhà
nước về hải quan cũng là một lĩnh vực đòi hỏi sự nhanh nhạy và chuyển biến
kịp thời với sự phát triển của kinh tế. Tuy có nhiều cố gắng nhưng nội dung

của luận văn này vẫn còn nhiều thiếu sót, tác giả chỉ mong đóng góp một
phần cho sự phát triển của nền văn hóa pháp lý trong lĩnh vực mình công tác.
Xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế

5


cùng tập thể các thầy cô giảng viên Khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội

6


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA PHÁP LUẬT HẢI QUAN
1.1. Khái niệm và các thành tố cơ bản của văn hóa pháp luật
1.1.1. Khái niệm về văn hóa:
Văn hoá là khái niệm có nội hàm rộng lớn, có thể tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Văn hoá là tổng thể những hoạt động tinh thần, trí tuệ của xã hội,
thể hiện ở phong tục, tập quán, lối sống; ngôn ngữ, đạo đức, luật lệ, khoa học,
nghệ thuật…Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần được hình
thành và sáng tạo trong hoạt động của con người được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác tạo thành truyền
thống mang đậm bản sắc dân tộc bên cạnh những giá trị chung của nhân loại.
Tuy có sự đa dạng trong các quan điểm khác nhau về khái niệm, song điều cốt
lõi được thừa nhận chung về văn hoá đó là một phạm trù bao quát tất cả các
giá trị do con người sáng tạo nên trong quá trình hoạt động lý lụân và thực
tiễn nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần. Hiện nay trên thế
giới có khoảng 400 – 500 định nghĩa văn hoá. Điều đó nói lên sự phong phú
và sự không xác định cụ thể của khái niệm văn hoá. Có nhiều tiêu chí để phân

loại các hình thái văn hoá, thông thường cách phân loại chung từ góc độ xã
hội, có các hình thái ( lĩnh vực) văn hoá như: văn hoá chính trị, văn hoá đạo
đức, văn hoá thẩm mỹ ( nghệ thuật); văn hoá pháp lý. Trong mỗi một hình
thái văn hoá này lại được phân chia thành nhiều dạng cụ thể đặc thù. Văn hoá
xét trên bình diện xã hội được phân thành văn hoá vật chất ( văn hoá vật thể )
và văn hoá tinh thần ( văn hoá phi vật thể)
Vốn là một hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được
nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. Ở trình độ lý luận và yêu cầu của
xã hội ngày nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người,
ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con người. Văn hóa ra đời cùng

7


với sự xuất hiện của xã hội loài người, từ giai đoạn khởi thủy cho đến giai
đoạn phát triển thịnh vượng sau này. Quá trình phát triển của văn hóa cũng là
quá trình loài người tiến hóa, đi lên, nắm bắt các qui luật tự nhiên và làm chủ
thế giới. Có thể nói, sự phát triển của văn hóa chính là quá trình con người tự
hoàn thiện mình, hoàn thiện xã hội, xây dựng một xã hội tiến bộ hơn, dân chủ
hơn. Văn hóa đích thực là ánh sáng dẫn dắt đời sống nhân loại đi tới những
giá trị cao cả để đạt được sự toàn thiện, toàn mĩ. Bởi vậy, làm lành mạnh môi
trường văn hóa, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển cũng có ý nghĩa tích cực
đối với sự phát triển tiến bộ xã hội và hoàn thiện nhân cách mỗi cá nhân.
Có nhiều định nghĩa về văn hóa đã được các học giả đề cập và phân tích trong
các công trình nghiên cứu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1942, đã
đưa ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi

phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự tinh tồn”. [7,
tr.431, T3]. Cách định nghĩa văn hóa này là khá toàn diện, thể hiện được sự
nguồn gốc, chức năng của văn hóa, đồng thời cũng phản ánh tính kế thừa từ
thế hệ này sang thế hệ khác, thời kỳ lịch sử này sang thời kỳ lịch sử khác của
văn hóa.
Theo định nghĩa của UNESCO thì văn hóa phản ánh và thể hiện một cách
tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng
đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua
hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống,
8


thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên nó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng
của mình . Theo cách hiểu này thì văn hóa trong một lĩnh vực hoạt động xã
hội cụ thể của mỗi dân tộc được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi sau:
Các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ (yếu tố về ý thức).
- Những giá trị vật chất, kỹ thuật do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực đó.
- Năng lực, cách thức sử dụng các dạng vật chất đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng
nhu cầu của đời sống con người cả về vật chất và tinh thần.
Từ “văn hóa” trong tiếng Latin là “culture”, nghĩa là sự trồng trọt. Theo nghĩa
gốc, ta có thể hiểu văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ
những cá thể sinh học trở thành những con người. Cũng có thể nói rằng văn
hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân mình. Như
vậy, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, từ công cụ
sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến các tác phẩm
nghệ thuật. Văn hóa còn hiện diện trên các quan hệ giữa con người với con
người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay
quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng lực cấu
thành nhân cách con người là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao

động sáng tạo…
Dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là sản phẩm của con người, là cách quan
niệm cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống cuộc sống ấy. Văn hóa có thể
được xem xét như hệ thống “các giá trị, chân lý, các chuẩn mực và mục tiêu
mà con người cùng thống nhất với nhau trong quá trình tương tác và trải qua
thời gian”.
Vì là một khái niệm có nội hàm rộng lớn như vậy mà “Văn hóa cần được tiếp
cận từ góc độ liên ngành, đa ngành thì mới có thể nhận thức, đánh giá, nhận
diện đầy đủ được, dù đó là hình thái văn hóa nào, chính trị, tôn giáo, kinh tế
hay pháp luật. Những lĩnh vực có quan hệ gần gũi với văn hóa phải kể đến là:

9


xã hội học, khoa học hành vi, triết học, luật học; văn hóa học, sử học, nhân
chủng học vv. Nói một cách chính xác hơn, văn hóa hiện diện trong tất cả các
lĩnh vực khoa học, lý luận và thực tiễn của con người” (Văn hóa pháp luật
những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng chuyên ngành). Như vậy có nghĩa là
chúng ta cần nhìn nhận văn hóa theo nhiều phương diện, góc độ, lĩnh vực để
có những kiến thức tổng hợp và đưa ra những ý kiến xây dựng văn hóa phù
hợp trong từng lĩnh vực ấy. Văn hóa là gì đấy rất chung nhưng luôn có những
điểm riêng, đặc trưng trong từng lĩnh vực, từng dân tộc, từng quốc gia. Trong
nội dung của luận văn này, người viết đi sâu vào văn hóa pháp luật, cụ thể là
trong lĩnh vực hải quan và nhận thức “văn hóa là một phạm trù bao quát tất cả
các giá trị do con người sáng tạo nên trong quá trình hoạt động lý luận và thực
tiễn nhằm thỏa nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần”. Để từ góc độ chung đó
phân tích đâu là những giá trị mà chúng ta đã tạo ra trong quá trình hình thành
và thực hiện pháp luật về ngành hải quan, những yếu tố tác động đến việc xây
dựng và phát triển văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan và đưa ra những
ý kiến đề xuất xây dựng hoàn thiện văn hóa pháp luật trong ngành hải quan.

1.1.2. Khái niệm về văn hóa pháp luật:
“Văn hóa pháp lý, một trong những hình thái cơ bản của văn hóa nói chung,
cũng đa dạng như chính bản thân văn hóa và pháp luật, nảy sinh từ đời sống
xã hội và quay trở lại phục vụ xã hội”[14]. Văn hoá pháp lý thuộc lĩnh vực
văn hoá tinh thần. Văn hoá pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần
thuộc lĩnh vực tác động của pháp luật được thể hiện trong ý thức và hành vi
của con người. Trong cơ cấu của văn hoá pháp lý có các yếu tố văn hoá cơ
bản sau: pháp luật với tư cách là một hệ thống các quy phạm thể hiện ý chí
nhà nước, mệnh lệnh nhà nước; các quan hệ pháp luật; các thiết chế pháp luật
( như hệ thống các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội đảm bảo sự kiểm soát
10


pháp luật, sự điều chỉnh và sự thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật; hành vi
pháp luật. Một cách ngắn gọn hơn, các yếu tố cấu thành của văn hoá pháp lý
bao gồm: ý thức pháp luật, nền pháp luật, trình độ, kỹ năng, nghệ thuật sử
dụng công cụ pháp luật. Ba yếu tố này có mối quan hệ biện chứng, tác động
lẫn nhau, làm tiền đề, điều kiện cho nhau phát triển. Sự lạc hậu, trì trệ của yếu
tố này sẽ là lực cản của yếu tố kia.
Pháp luật là một lĩnh vực hoạt động xã hội, do đó nó luôn đòi hỏi phải tính
đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Trong lĩnh vực pháp luật, trước hết
văn hóa được thể hiện như là phương thức quản lí xã hội vì con người, đảm
bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như là
kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong việc xây dựng và thực thi
pháp luật hướng tới chân, thiện, mĩ.
Pháp luật là một trong những yếu tố của văn hóa và văn hóa pháp luật là văn
hóa chuyên ngành . Vì vậy để xây dựng được nền văn hóa Việt nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc thì tất yếu phải chú trọng phát triển văn hóa pháp luật.
Điều này không chỉ là xu hướng của riêng nước ta mà còn là phương hướng
phát triển chung của các nước trên thế giới. Bên cạnh việc phát triển văn hóa

giao tiếp, văn hóa du lịch, văn hóa chính trị…thì các quốc gia đều rất chú
trọng đến việc phát triển văn hóa pháp luật. Đây được coi là thước đo quan
trọng của tiến trình xây dựng xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền trong
sạch, vững mạnh.
Văn hóa pháp luật không phải là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong luật
học như: chế tài, khế ước, nghĩa vụ, lỗi, hành vi mà là một thuật ngữ gắn liền
với xã hội học pháp luật, lý luận nhà nước và pháp luật hay nó còn liên quan
đến các vấn đề tranh cãi hiện nay như triết học pháp quyền, sự du nhập pháp

11


luật trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Hiện nay, trong giới khoa học pháp lý vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về văn
hóa pháp luật. Ở mỗi một cách nhìn, mỗi người lại có một quan niệm riêng về
định nghĩa văn hóa pháp luật. GS. TS Lê Minh Tâm cho rằng “văn hóa pháp
luật là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo ra
trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống qui phạm pháp luật được ban
hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên
lí, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói
quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật” [23]. Theo
quan điểm của TS Phạm Duy Nghĩa thì “văn hóa pháp luật là một cách nhìn
về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa học
hành vi, cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính nhân học
của các cộng đồng và tộc người” [8]. Một quan điểm khác của GS.TS Hoàng
Thị Kim Quế thì: “Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh
thần thuộc hệ thống tác động của pháp luật được thể hiện trong ý chí và hành
vi của con người…Văn hóa pháp lý thể hiện ở trình độ cao của sự tôn trọng
pháp luật, trình độ tri thức pháp luật của nhân dân; thực trạng có chất lượng
của quá trình lập pháp và thực hiện pháp luật, các phương thức hoạt động

pháp luật đặc thù như của các cơ quan pháp luật, kiểm tra hiến pháp…; kết
quả của họat động pháp luật dưới dạng sản phẩm tinh thần và vật chất do
con người xây dựng như luật, hệ thống lập pháp, thực tiễn tư pháp và hành
pháp” [14].
Mục đích của văn hóa pháp luật nói riêng và văn hóa nói chung là dẫn dắt con
người tới những giá trị cao đẹp, hướng tới chân – thiện – mỹ - ích. Văn hóa
giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật trong xã hội, đồng thời hiệu quả pháp
luật lại phản ánh trình độ văn hóa pháp luật của xã hội đó. Phát triển văn hóa
12


pháp luật không những góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật mà còn giúp
hoàn thiện, phát triển nhân cách con người.
Ở luận văn này người viết đề cập đến văn hóa pháp luật là những giá trị do
con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm: ý thức pháp luật
(tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật), hệ thống pháp luật và hành vi thực
hiện, áp dụng pháp luật. Văn hóa pháp luật thể hiện ở ý thức pháp luật cao,
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tiến bộ, hành vi thực hiện pháp luật và áp
dụng pháp luật hợp pháp.
Có một số tác giả trong quan niệm của mình sử dụng các thuật ngữ như văn
hóa pháp lý hay văn hóa tư pháp. Theo cá nhân người viết luận văn, văn hóa
tư pháp là những giá trị được biểu hiện thông qua các qui định pháp luật và
hoạt động của riêng hệ thống tư pháp, tức là trong hoạt động (bao gồm thẩm
quyền, giới hạn xét xử, nghĩa vụ) của các cơ quan tư pháp. Đồng thời cũng là
những quan niệm, suy nghĩ, thái độ, hành vi ứng xử của các tầng lớp xã hội
đối với các văn bản pháp luật về tư pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp và các
cá nhân trong hệ thống đó. Văn hóa tư pháp cũng chỉ là một lĩnh vực của văn
hóa pháp luật, bên cạnh các lĩnh vực khác như: văn hóa lập pháp, văn hóa
hành chính, văn hóa tư vấn pháp luật, văn hóa phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục pháp luật…Còn văn hóa pháp lý hay văn hóa pháp luật đều thể hiện

những giá trị của cả hệ thống luật pháp trên tất cả các ngành, lĩnh vực trong
đời sống xã hội. Như vậy lựa chọn thuật ngữ văn hóa pháp lý hay văn hóa
pháp luật đều có thể bao quát và phù hợp với định nghĩa và các yếu tố cấu
thành. Để tìm hiểu sâu hơn về văn hóa pháp luật trong lĩnh vực hải quan, phần
lý luận người viết làm rõ thêm về văn hóa pháp luật với những nội dung như:
đặc điểm, chức năng, cấp độ, phân loại văn hóa pháp luật

13


1.1.2.1. Đặc điểm của văn hóa pháp luật.
Văn hóa pháp luật có các đặc điểm của văn hóa nói chung, các đặc điểm riêng
của mình và luôn có mối quan hệ mật thiết với các dạng văn hóa khác. Các
đặc điểm của văn hóa pháp luật có thể kể đến là:
- Văn hóa pháp luật có tính hệ thống, tính lịch sử: văn hóa pháp luật bao gồm
nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và những yếu tố đó luôn có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Đó là một hệ thống, một bức tranh tổng thể chứ không phải là một
sự liệt kê, một phép cộng giản đơn. Văn hóa pháp luật cũng là sự kết tinh sáng
tạo của con người qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Do đó, nghiên cứu văn
hóa pháp luật luôn phải đặt nó trong sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố
văn hóa truyền thống và hiện đại.
- Văn hóa pháp luật có tính giá trị: các giá trị đó có thể bao gồm những giá trị
vật chất và tinh thần. Văn hóa pháp luật có những giá trị riêng về công bằng,
công lý, tự do, bình đẳng, dân chủ. Văn hóa pháp luật xác lập một hệ thống
giá trị pháp luật cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi
của con người.
- Văn hóa pháp luật luôn có tính giao lưu, tính mở: văn hóa pháp luật của một
quốc gia luôn có mối quan hệ tương tác với nền văn hóa pháp luật khu vực và
thế giới. Văn hóa pháp luật thể hiện bản sắc riêng của dân tộc đồng thời tiếp
thu có chọn lọc những giá trị văn hóa pháp luật của các nước khác trong quá

trình mở rộng giao lưu quốc tế.
1.1.2.2. Chức năng của văn hóa pháp luật
Văn hóa pháp luật thực hiện những chức năng của văn hóa trong một lĩnh vực
đặc biệt – lĩnh vực pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp luật cũng mang những
chức năng chung của văn hóa.
- Chức năng nhận thức: đây là chức năng đầu tiên và quan trọng của văn hóa
14


pháp luật. Văn hóa pháp luật nếu thiếu chức năng nhận thức thì không thể đề
cập đến chức năng nào khác. Chức năng nhận thức một mặt giúp cho các nhà
lập pháp nhận thức đúng các qui luật của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh một quan hệ xã
hội…từ đó để xây dựng các qui phạm pháp luật tiến bộ, phù hợp với thực
tiễn. Mặt khác, chức năng nhận thức của văn hóa pháp luật cũng cung cấp
những thông tin, kiến thức pháp luật cho các chủ thể, đồng thời bồi dưỡng
niềm tin, tình cảm pháp luật cho các chủ thể pháp luật. Có thể nói văn hóa
pháp luật như một cuốn sách về đời sống pháp luật, nó gắn liền với hoạt động
sáng tạo pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật của các chủ thể.
- Chức năng định hướng: Văn hóa pháp luật bao gồm những giá trị về mặt vật
chất và tinh thần. Những giá trị đó luôn gắn liền với đời sống xã hội và là
những mục tiêu hướng đến của con người, đó là những giá trị của chân – thiện
– mỹ. Chính điều này đã làm cho văn hóa pháp luật có chức năng định hướng
những tư duy, suy nghĩ và hành vi ứng xử của các chủ thể. Văn hóa pháp luật
chính là những chuẩn mực hướng con người ta đến những suy nghĩ tích cực
và hành vi hợp pháp. Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh khác như đạo đức,
phong tục tập quán, văn hóa pháp luật trở thành một công cụ hữu hiệu giúp
giữ gìn trật tự xã hội, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, công bằng, dân chủ,
văn minh. Sự khác biệt trong cơ chế định hướng của văn hóa pháp luật với
các phương tiện điều chỉnh khác là ở chỗ văn hóa pháp luật được bảo đảm

thực hiện bằng pháp luật, pháp luật do nhà nước ban hành nên có quyền lực
cưỡng chế đối tượng phải thi hành. Còn đạo đức hay phong tục tập quán lại
được thực hiện thông qua sự tự nguyện của mỗi cá nhân, thông qua sự khích
lệ hay chỉ trích của dư luận xã hội. Chuẩn mực văn hóa pháp lý không những
hướng con người ta tới những giá trị cao đẹp của pháp luật mà còn giúp hình
thành và hoàn thiện nhân cách con người.
- Chức năng giáo dục: giáo dục và môi trường giáo dục luôn là những yếu tố
15


quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đối với văn hóa pháp
luật, giáo dục lại càng có vai trò quan trọng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến
hành vi ứng xử có văn hóa pháp luật hay không của các chủ thể. Chức năng
giáo dục của văn hóa pháp luật chính là nằm ở chỗ: nó quyết định việc lựa
chọn hay không lựa chọn thực hiện một hành vi tích cực hoặc tiêu cực của
con người. Bên cạnh ý thức pháp luật, sự tự giác của mỗi người, chức năng
giáo dục pháp luật giúp hỗ trợ cho các chủ thể hành động hợp pháp. Giáo dục
pháp luật hiện nay được thực hiện dưới nhiều hình thức: hình thành các trung
tâm tư vấn pháp luật, câu lạc bộ pháp luật, hoạt động phổ biến tuyên truyền
giáo dục pháp luật, giáo dục pháp luật thông qua việc đào tạo tại các trường
Trung học, Đại học…Thông qua đó, văn hóa pháp luật đã nâng cao trình độ
hiểu biết, ý thức tôn trọng pháp luật của các tầng lớp nhân dân đồng thời giáo
dục lối sống, nhân cách, đạo đức phù hợp với các qui định của pháp luật.
- Chức năng phản ánh thực tiễn: Pháp luật luôn luôn phải gắn liền với thực
tiễn, với các qui luật của sự vận động và phát triển trong đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội. Nhưng thực tiễn cũng chính là bức tranh phản ánh
hiệu quả pháp luật, tính đúng đắn và khả thi của các qui phạm pháp luật ban
hành. Văn hóa pháp luật với sự phản ánh ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật,
hành vi ứng xử của các chủ thể đã trở thành công cụ hỗ trợ giúp cho pháp luật
đi sâu vào đời sống hơn, hoàn thiện hơn. Dưới sự tác động của văn hóa pháp

luật, việc hoạch định và xây dựng các chính sách pháp luật trở nên đúng đắn
hơn, phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của đại đa số bộ phận dân
chúng, phản ánh những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của họ vào pháp luật.
Trong chức năng phản ánh thực tiễn còn có vấn đề dự báo tình hình và xu
hướng phát triển của pháp luật. Dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các qui luật
phát triển của đời sống kinh tế xã hội, văn hóa pháp luật đưa ra khả năng dự
liệu các qui phạm để điều chỉnh các quan hệ xã hội sẽ phát sinh.
1.1.2.3. Các cấp độ của văn hóa pháp luật
16


Văn hóa pháp luật thể hiện ở những cấp độ khác nhau tùy thuộc vào những
điều kiện khách quan và năng lực nhận thức chủ quan của chủ thể nhận thức.
Các cấp độ đó bao gồm: văn hóa pháp luật thông thường, văn hóa pháp luật lý
luận và văn hóa pháp luật nghề nghiệp.
Văn hóa pháp luật thông thường: được hiểu là mức độ nhận thức pháp luật
còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các hiện tượng
pháp luật. Văn hóa pháp luật thông thường được hình thành dưới sự tác động
trực tiếp của những điều kiện khách quan và kinh nghiệm của cuộc sống cá
nhân, trong đó yếu tố tâm lý xã hội chiếm vị trí quan trọng. Ở cấp độ này, văn
hóa pháp luật nhìn chung mới chỉ biểu hiện ở sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự
theo sự thừa nhận và tiếp thu đó. Ví dụ, dưới sự tác động của các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến pháp luật hoặc sự tự học tập, mỗi cá nhân có thể có
được sự hiểu biết và nắm được những kiến thức pháp luật nhất định; thông
qua việc tham gia vào các hoạt động như bầu cử, góp ý kiến vào các dự án
luật và trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, mỗi người cũng sẽ
có được sự hiểu biết và kinh nghiệm nhất định. Nhưng đó mới chỉ là sự hiểu
biết thông thường, chưa toàn diện và sâu sắc.
Văn hóa pháp luật lý luận: được hiểu là trình độ nhận thức cao, có hệ thống
và sâu sắc về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng

pháp luật. Nói cách khác, đó là sự nhận thức có căn cứ khoa học, được hình
thành trong quá trình đào tạo, học tập, nghiên cứu một cách có hệ thống và
được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống. Văn hóa pháp luật lý luận có ưu
thế đặc biệt, nó là cơ sở cho hoạt động sáng tạo pháp luật, truyền bá tư tưởng,
quan điểm pháp lý, cũng như những hoạt động pháp luật thực tiễn.
Văn hóa pháp luật nghề nghiệp: là văn hóa pháp luật của các luật gia và các
nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính sách
pháp luật, nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. Văn hóa pháp
luật nghề nghiệp là sự kết hợp hài hòa của những yếu tố tư tưởng pháp luật và

17


tâm lý pháp luật. Nó không những chỉ biểu hiện ở trình độ hiểu biết cao của
pháp luật mà còn phản ánh trình độ nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng và áp dụng
pháp luật vào việc giải quyết các công việc của thực tế đời sống.
Như vậy, văn hóa pháp luật thông thường có tính phổ quát, phong phú được
đặc trưng bằng yếu tố tâm lý xã hội; văn hóa pháp luật lý luận thể hiện tính tư
tưởng và khoa học sâu sắc, toàn diện còn văn hóa pháp luật nghề nghiệp là sự
kết hợp hài hòa của hai cấp độ văn hóa đó. Có thể coi văn hóa pháp luật nghề
nghiệp là cầu nối giữa văn hóa pháp luật lý luận và văn hóa pháp luật thông
thường. Văn hóa pháp luật thông thường góp phần tạo nên sự phong phú và
đa dạng của văn hóa pháp luật; văn hóa pháp luật lý luận qui tụ, soi sáng và
định hướng cho sự phát triển của văn hóa pháp luật, còn văn hóa pháp luật
nghề nghiệp góp phần tạo ra sự hài hòa phát triển của văn hóa pháp luật. Vì
vậy trong phát triển văn hóa pháp luật cần chú trọng toàn diện cả ba mặt: nâng
cao văn hóa pháp luật thông thường, tăng cường văn hóa pháp luật lý luận và
đề cao văn hóa pháp luật nghề nghiệp.
1.1.2.4. Phân loại văn hóa pháp luật
*Phân loại theo chủ thể: gồm văn hóa pháp luật của cá nhân, văn hóa pháp

luật nhóm và văn hóa pháp luật xã hội.
- Văn hóa pháp luật của cá nhân: thể hiện những quan điểm, tư tưởng, tâm lý,
tình cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và các cơ quan pháp luật. Văn
hóa pháp luật ở mỗi cá nhân là khác nhau, thể hiện ở ý thức pháp luật cao hay
thấp, suy nghĩ, quan niệm về pháp luật tích cực hay tiêu cực từ đó dẫn đến
hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp. Văn hóa pháp luật của mỗi cá nhân chịu
sự tác động của các yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế - xã hội) và các yếu
tố chủ quan (tư chất bẩm sinh).
- Văn hóa pháp luật nhóm: nhóm ở đây được hiểu là một nhóm người hay
một tầng lớp có những điểm chung tương đồng về điều kiện làm việc và sinh
hoạt, mục đích, nhu cầu và lợi ích…Do vậy về mặt ý chí và nhận thức pháp
luật của nhóm cũng có những điểm chung. Văn hóa pháp luật nhóm do vậy là
18


những quan điểm, tư tưởng điển hình của nhóm về hệ thống pháp luật. Giáo
dục và nâng cao văn hóa pháp luật nhóm có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó
đóng vai trò là cầu nối giữa văn hóa pháp luật cá nhân và văn hóa pháp luật xã
hội.
- Văn hóa pháp luật xã hội: được hiểu là những giá trị văn hóa pháp luật đã
được thừa nhận rộng rãi và thực thi trên toàn xã hội. Văn hóa pháp luật xã
hội thể hiện tích đặc trưng và khái quát cao.
* Phân loại theo lĩnh vực hoạt động: bao gồm văn hóa lập pháp, văn hóa hành
pháp và văn hóa tư pháp.
- Văn hóa lập pháp: là những giá trị của văn hóa pháp luật trong hoạt động
hoạch định, xây dựng các chính sách pháp luật, văn bản qui phạm pháp luật.
Văn hóa pháp luật trải dài trong suốt quá trình lập pháp, từ việc thu thập tài
liệu, điều tra thực tiễn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh, xây dựng dự thảo,
lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân cho đến giai đoạn thông qua và ban hành
văn bản pháp luật.

- Văn hóa hành pháp: là những giá trị văn hóa pháp luật trong lĩnh vực thực
thi pháp luật. Nó bao gồm hoạt động của các cơ quan hành pháp và cả hoạt
động của các cá nhân được nhà nước giao quyền làm việc trong các cơ quan
đó.
- Văn hóa tư pháp: giá trị của văn hóa pháp luật được biểu hiện trong lĩnh vực
tư pháp: điều tra, xét xử…
Có một số tác giả cho rằng cần bổ sung hai loại hình văn hóa xét xử và văn
hóa phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật. Nhưng theo tác giả, việc đề cập
đến các loại hình văn hóa pháp luật theo cách liệt kê như trên thì không những
dừng lại ở 2 loại hình văn hóa đó mà sẽ còn phát sinh nhiều loại hình khác
như: văn hóa tư vấn pháp luật, văn hóa pháp luật điều tra…Vì vậy cần phân
chia rõ các lĩnh vực tác động của văn hóa pháp luật là: lập pháp, hành pháp và
tư pháp để từ đó xếp các loại hình văn hóa theo các lĩnh vực khác nhau.
- Phân loại theo phạm vi tác động: có thể kể đến văn hóa pháp luật ở trường

19


×