Đại học quốc gia hà nội
Khoa luật
Nguyễn Thị Ph-ơng Thủy
Chứng minh trong thủ tục giải quyết
tranh chấp kinh doanh tại tòa án
luận văn thạc sĩ luật học
hà nội Năm 2006
Đại học quốc gia hà nội
Khoa luật
Nguyễn Thị ph-ơng thủy
Chứng minh trong thủ tục giải quyết
tranh chấp kinh doanh tại tòa án
chuyên ngành : Luật
Mã số
Kinh tế
: 6.01.05
luận văn thạc sĩ luật học
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Phan chí hiếu
hà nội năm 2006
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH TẠI TÒA ÁN ...................................
7
1.1. Chứng minh và vai trò của nó đối với việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh tại Toà án ............................................................................
7
1.1.1. Khái niệm chứng minh .............................................................
7
1.1.2. Vai trò của chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh chấp
kinh doanh .........................................................................................
15
1.2. Các nội dung cấu thành của quá trình chứng minh .........................
17
1.2.1. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự .........................................
17
1.2.2. Chứng cứ, nguồn chứng cứ, đối tượng chứng minh và phương
tiện chứng minh trong tranh chấp kinh doanh ...................................
22
1.3. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài về chứng minh trong thủ
tục tố tụng dân sự ..................................................................................
29
1.3.1. Pháp luật các nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng .........
29
1.3.2. Pháp luật các nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi ...............
Chương 2 - chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành..........
35
38
2.1. Nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự .....................
38
2.1.1. Cơ sở của nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự
38
2.1.2. Các biểu hiện của nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về
đương sự ...........................................................................................
41
2.1.3. Hậu quả của việc đương sự không thực hiện nghĩa vụ chứng
52
minh ..................................................................................................
2.2. Cơ chế bảo đảm cho đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh ......
2.2.1. Cơ chế bảo đảm cho đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh
trong hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ .....................................
54
54
2.2.2. Pháp luật bảo đảm cơ chế khiếu nại của đương sự về việc thu
thập chứng cứ của Toà án. ................................................................
60
2.3. Việc đánh giá và sử dụng chứng cứ của Toà án ..............................
61
Chương 3 - thực tiễn chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh và
một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả các quy định về chứng minh ........................
68
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Toà án .............
68
3.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả các quy định về
chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Tòa
án ..............................................................................................
75
3.2.1. Thực hiện triệt để nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về
đương sự ............................................................................................
75
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho đương sự thực
hiện nghĩa vụ chứng minh .................................................................
77
3.2.3. Xây dựng cơ chế minh bạch hoá trong hoạt động của Toà án...
82
3.2.4. Phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều
kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh .......
83
3.2.5. Nâng cao năng lực của Toà án trong việc đánh giá, sử dụng
chứng cứ ............................................................................................
85
KẾT LUẬN ...............................................................................................................
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................…...
91
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động xét xử của Toà án, chứng minh là một yêu cầu quan
trọng, gắn liền với quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án. Quá trình
này được biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hoạt động chứng minh, trong
đó toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các tình tiết khác nhau về vụ kiện đều được
xem xét, đánh giá công khai, khách quan và toàn diện, qua đó, làm sáng tỏ các
nội dung của vụ kiện, là cơ sở để Toà án đưa ra phán quyết có căn cứ và đúng
pháp luật, góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội.
Xuất phát từ tính chất của các quan hệ pháp luật nội dung nên với mỗi
hình thức tố tụng, trách nhiệm chứng minh trong thủ tục giải quyết các vụ án
tại Tòa án là khác nhau. Do đó, việc xác định các nội dung cấu thành của quá
trình chứng minh như: Nghĩa vụ chứng minh thuộc về chủ thể nào của quan
hệ pháp luật tố tụng, vị trí và vai trò của họ thể hiện ra sao đối với hoạt động
cung cấp, thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ, các cơ chế pháp lý cần
thiết để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chứng minh đạt hiệu quả... có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, quyết định tới chất lượng của hoạt động chứng minh cũng
như tính đúng đắn của bản án.
Nếu như trong tố tụng hình sự, việc chứng minh tội phạm thuộc trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng thì tố tụng dân sự có đặc trưng là
trách nhiệm chứng minh thuộc về các đương sự. Hoạt động xét xử các vụ án
tranh chấp kinh doanh thương mại phát sinh trên cơ sở có sự tranh chấp quan
hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng bình đẳng
về địa vị pháp lý mà trong đó mỗi bên đương sự có nghĩa vụ chứng minh
1
những tình tiết mà mình đã viện dẫn, làm cơ sở cho những yêu cầu của mình,
hay nói một cách giản đơn hơn là: “Ai khẳng định một sự việc gì phải chứng
minh cho sự việc ấy”. Do vậy, quá trình chứng minh trong thủ tục giải quyết
tranh chấp kinh doanh gắn liền với việc các đương sự thực hiện nghĩa vụ cung
cấp các chứng cứ, tài liệu cho Toà án để chứng tỏ cho Toà án và những
người tham gia tố tụng khác thấy được sự đúng đắn trong yêu cầu của
mình. Vì vậy, có thể nói chứng minh đóng một vai trò quan trọng trong
việc tìm ra sự thật khách quan của quan hệ pháp luật mà từ đó phát sinh
tranh chấp, đồng thời xác định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
theo quy định của pháp luật.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, các tranh chấp kinh doanh ở nước ta
ngày càng gia tăng về số lượng, phức tạp về nội dung. Thực tế cho thấy, hàng
năm Toà án nhân dân đã giải quyết số vụ án kinh doanh không nhỏ, đã và
đang thực sự góp phần vào việc ổn định môi trường kinh doanh, tạo sự tin
tưởng cho các chủ thể kinh doanh vào Toà án – vốn được coi là chỗ dựa của
doanh nhân khi tìm đến công lý.
BLTTDS năm 2004 của nước ta được ban hành và có hiệu lực kể từ
ngày 1 tháng 1 năm 2005 với việc quy định các nguyên tắc và trình tự thủ tục
tố tụng chung cho việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân - gia đình,
kinh doanh, thương mại và lao động; tiếp tục kế thừa và phát triển các quy
định của PLTTGQCVAKT năm 1994, trong đó có quy định về nghĩa vụ
chứng minh của đương sự trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh. Bộ luật
có nhiều quy định mới liên quan đến quá trình chứng minh như: chứng cứ và
nghĩa vụ chứng minh; trình tự thủ tục tiến hành thu thập, cung cấp chứng
cứ…Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được xác định cụ thể như: còn lẫn
lộn giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh; các vấn đề
2
liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự chưa được
làm rõ; chưa có quy định về đối tượng chứng minh và phương tiện chứng
minh … Từ đó dẫn đến thực tế áp dụng giải quyết các vụ án kinh doanh tại
Tòa án còn nhiều vướng mắc.
Do đó, để bảo đảm cho quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh
tại Toà án được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật, nhất là trong
điều kiện BLTTDS mới được thực thi và Việt Nam đang trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế thì việc nghiên cứu đề tài: “Chứng minh trong thủ tục
giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Tòa án” là một yêu cầu cấp thiết có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời góp phần vào việc xây dựng cơ
chế và các biện pháp đảm bảo cho các quy định của BLTTDS về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại được thực thi có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những quy định về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong BLTTDS
năm 2004 được xem là một trong những điểm mới nổi bật so với
PLTTGQCVAKT 1994 và nó có tác động trực tiếp tới quy trình giải quyết
các tranh chấp của Toà án, làm thay đổi căn bản so với thủ tục tố tụng trước
đây. Do đó, các chế định về chứng minh trong thủ tục tố tụng dân sự luôn
được sự quan tâm không chỉ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ
thể kinh doanh mà còn gây sự chú ý cho các nhà nghiên cứu trước và sau khi
BLTTDS ra đời. Bởi vậy, đã có nhiều bài viết về khía cạnh lý luận và pháp lý
của vấn đề này trên các báo, tạp chí khoa học, kỷ yếu như: Tạp chí kiểm sát
số tháng 01/2005 – Những nguyên tắc tố tụng dân sự đặc trưng trong Bộ luật
Tố tụng dân sự; Tạp chí Toà án số tháng 10, 11/2004 - Một vài suy nghĩ về
vấn đề chứng cứ và chứng minh được quy định trong BLTTDS; Kỷ yếu dự án
VIE/95/017 - Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam của Tòa án nhân dân
3
tối cao; Những vấn đề cơ bản của BLTTDS 2004…. đã cho thấy vị trí và vai
trò quan trọng của chứng minh trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự
tại Toà án nói chung và tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng.
Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên mới chỉ từng bước tháo gỡ và giải
quyết những vấn đề riêng biệt, hoặc chỉ tập trung vào nghiên cứu về tố tụng
dân sự nói chung trong khi nhiều nội dung có ý nghĩa quan trọng về lý luận và
thực tiễn của quá trình chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
chưa được lý giải hoặc lý giải nhưng chưa thoả đáng. Hơn nữa, chứng minh là
một quá trình diễn ra thường xuyên trong hoạt động xét xử tại Tòa án các cấp
nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt mục đích nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan đến quá trình chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh
chấp kinh doanh tại Toà án, từ đó đề xuất giải pháp thực thi có hiệu quả các
quy định của BLTTDS và tiếp tục hoàn thiện các quy định về chứng minh.
Từ mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chứng minh trong thủ tục giải
quyết tranh chấp kinh doanh như làm rõ các khái niệm chứng minh, chứng cứ,
nguồn chứng cứ, đối tượng chứng minh, phương tiện chứng minh và các nội
dung cấu thành của hoạt động chứng minh.
- Nghiên cứu các quy định về chứng minh trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam như: nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh của đương sự, các cơ chế
bảo đảm cho đương sự thực hiện nghĩa vụ này và vai trò của Toà án trong quá
trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ.
4
- Đưa ra những kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về
hoạt động chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có liên quan
đến chứng cứ và chứng minh, đặc biệt là các quy định về nguyên tắc nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh và các cơ chế bảo đảm cho đương sự thực
hiện nghĩa vụ chứng minh, vai trò của Toà án trong việc đánh giá, sử dụng
chứng cứ.
- Những quy định của pháp luật tố tụng dân sự của một số nước trên
thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Thuỵ Điển…về quá trình chứng minh
nhằm so sánh và tham khảo.
- Thực tiễn của quá trình chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh
chấp kinh doanh tại Toà án thông qua các số liệu thống kê và các vụ án cụ
thể.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Những đặc thù trong hoạt động
chứng minh đối với tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: phân tích, chứng minh,
tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học để làm
sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
5
Để minh họa cho những lý luận, tác giả đã tham khảo những bản án,
quyết định của Toà án về giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh cụ thể; các
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề cuả ngành Toà án nhân dân về công tác
xét xử án kinh doanh trong những năm gần đây.
6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa
học của luận văn:
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng dân sự liên
quan đến chứng cứ và chứng minh.
- Làm rõ vai trò của hoạt động chứng minh trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
- Phát hiện và dự báo trước những vướng mắc có thể nảy sinh trong
thực tiễn áp dụng, từ đó khuyến nghị một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu
quả các quy định về chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh hiện
nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và cho các cán bộ ngành tư pháp trong quá trình hoạt
động thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chứng minh trong thủ thục giải
quyết tranh chấp kinh doanh tại Tòa án.
Chương 2: Chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành.
6
Chương 3: Thực tiễn chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh chấp
kinh doanh và một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả các quy định về chứng
minh.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINH TRONG THỦ
TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH TẠI TÒA ÁN
1.1. Chứng minh và vai trò của nó đối với việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh tại Toà án
1.1.1. Khái niệm chứng minh
Chứng minh trong giải quyết tranh chấp được biết đến ngay từ những
thời đại xa xưa của xã hội loài người. Các nhà nghiên cứu về lịch sử pháp luật
đều thống nhất hoạt động chứng minh thường gắn liền với quá trình tranh
tụng - loại hình tố tụng đầu tiên được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau này được
đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”.
Trong thời La Mã, loại hình tố tụng xuất hiện sớm nhất là tố tụng
theo nghi thức (legisactioné). Theo Luật XII bảng, để bắt đầu xét
xử, các bên phải có mặt trước quan chấp chính. Nguyên đơn (chủ
nợ) có quyền dẫn giải bị đơn (người mắc nợ) đến toà. Trước quan
chấp chính, các bên nguyên và bên bị phải phát ngôn theo quy định
về câu chữ và những hành vi tượng trưng. Kết thúc quá trình tự xét
xử này là litis contestatio (thụ lý tranh chấp có người làm chứng)
hoặc là sự khẳng định đối tượng tranh chấp trước các nhân chứng
7
và chuyển tranh chấp cho quan toà giải quyết, sau đó quan toà sẽ
xét xử với sự có mặt của các bên và nhân chứng. Tại đây, các
chứng cứ mà các bên đương sự nêu ra được thẩm định và thông
qua án quyết. [23, tr.235-238]
Tiếp theo, quá trình chứng minh này được thay đổi cùng với sự ra đời
của hình thức tố tụng tranh tụng legisactiones formular (tố tụng công thức)
trong đó hoạt động chứng minh được thực hiện thông qua việc: “Bên nguyên
đơn và bị đơn đưa ra các chứng cứ, sau đó quan toà thu thập lại rồi chuyển
cho toà, chánh án toà là người đưa ra phán quyết cuối cùng” [23, tr.241].
Cùng với thời gian, quá trình chứng minh được kế thừa và phát triển
với nội dung và mức độ khác nhau trong khoa học luật tố tụng kinh tế và dân
sự, trong đó nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự còn được thừa nhận là
một trong những nguyên tắc của tố tụng dân sự ở các nước theo hệ thống luật
lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.
Theo pháp luật của các nước thuộc hệ thống luật lục địa mà điển hình
là nước Pháp, tại Bộ luật tố tụng dân sự Pháp năm 1807 quy định: “Hai bên
đương sự có bổn phận tổ chức điều khiển lấy vụ kiện; trong vụ kiện có tương
quan đến quyền lợi hoàn toàn của tư nhân, Thẩm phán ngồi xử chỉ đóng vai
trò khán giả hay trọng tài, mà không có quyền đôn đốc, thúc đẩy hay ra mệnh
lệnh” [22, tr.8], có nghĩa là “nguyên cáo tự mình đảm nhận lấy việc mướn
thừa phát lại gởi triệu hoán trạng đòi bị đơn ra toà, tự mình lo liệu lấy việc
thẩm cứu vụ kiện, viện dẫn chứng cứ, xúc tiến xin xét xử… Khi hai bên hoàn
tất hồ sơ và đệ nạp giấy tờ thủ tục lên toà, lúc đó Toà án mới nghị án để cứu
xét”. [22, tr.379]
Ở các nước theo trường phái án lệ mà điển hình là nước Mỹ, Giáo sư
Michael Browde cho rằng:
8
Nước Mỹ thừa hưởng bốn truyền thống luật của nước Anh, trong đó
truyền thống thứ hai thừa hưởng luật của Anh là hệ thống đối
nghịch (contradiction system). Lý thuyết về hệ thống đối nghịch cụ
thể: Ví dụ: bên trái là nguyên đơn, bên phải là bị đơn và mỗi bên
này đều có luật sư của họ đại diện, như vậy trong sự tranh luận
giữa luật sư của nguyên đơn và luật sư của bị đơn thì sẽ nảy sinh
qua sự tranh luận này. Đó là lý thuyết chung, trên thực tế thì đôi khi
không phải như vậy. Khía cạnh trong hệ thống đối nghịch đóng vai
trò quan trọng là mỗi bên có nhiệm vụ đưa ra bằng chứng, xây dựng
những tranh luận pháp lý của mình. Nếu nhìn về khía cạnh khác thì
chính các bên sẽ kiểm soát vụ kiện ấy. Kết quả vủa việc đó Thẩm
phán sẽ là người thứ ba đứng trung gian và ra quyết định và có thái
độ vô tư, họ là trọng tài. [46, tr.5-6]
Ở Việt Nam, khái niệm chứng minh có thể được nhận xét dưới các
bình diện dưới đây:
Về mặt ngôn ngữ:
Theo từ điển tiếng Việt năm 2003 thì “Chứng minh là làm cho thấy
rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ” [30, tr.192]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam năm 1995: “Chứng minh là một
kiểu lập luận. Đó là quá trình tư duy sử dụng nhiều lý lẽ khác nhau, gọi là
luận cứ để bảo vệ sự đúng đắn của một hoặc nhiều tư tưởng khác nhau, gọi là
luận đề”. [29, tr.547]
Theo cách giải thích này thì chứng minh là quá trình giải quyết vụ
kiện theo đó đương sự làm rõ sự thật khách quan của vụ kiện thông qua việc
đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
9
Về mặt pháp lý: Khái niệm chứng minh đã chính thức được ghi nhận
trong các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án lao động năm 1996. Trong đó tại Điều 3 PLTTGQCVAKT quy
định: “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ
quyền lợi của mình”. Trong việc giải quyết vụ án kinh tế, đương sự có nghĩa
vụ cung cấp, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Tòa án
không có nghĩa vụ điều tra, xác minh về sự thật của vụ án.
Các quy định liên quan đến chứng minh và chứng cứ tiếp tục được kế
thừa và phát triển trong BLTTDS, theo đó: “Các đương sự có quyền và nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp” (Điều 6).
Về mặt lý luận: Chứng minh là hoạt động có tính chất chi phối kết
quả giải quyết tranh chấp kinh doanh của Toà án nên có nội hàm rất rộng. Có
ý kiến cho rằng: “ Chứng minh thường được hiểu theo nghĩa là hoạt động
cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ ” [13, tr.133]
Các hoạt động chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải
quyết vụ án và bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng.
Trong đó, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
của các chủ thể là chủ yếu và mang tính quyết định. Tuy nhiên nếu hiểu
chứng minh là hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ và chủ thể chứng minh thường được hiểu là đương sự là chưa chính
xác. Nếu xem xét một cách đầy đủ và toàn diện thì trong quá trình tố tụng
ngoài việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, các chủ thể
tố tụng còn phải làm rõ cả những cơ sở pháp lý liên quan đến các yêu cầu
trong vụ án. Tham gia vào quá trình này không chỉ có các đương sự mà còn
10
có chủ thể khác như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người giám định, người làm chứng…Do vậy, chứng minh không đồng nghĩa
với thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ và chủ thể chứng minh trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh không chỉ là các đương sự. Chứng minh bao
gồm cả hoạt động cung cấp, thu thập, đánh giá chứng cứ và chỉ ra các căn cứ
pháp lý để làm cho mọi người nhận thức đúng sự việc.
Để giải quyết được tranh chấp thì mọi vấn đề của vụ án dù ai nêu ra
cũng đều phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định. Đặc thù trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh thực chất là những người tham gia tố tụng,
những người tiến hành tố tụng cùng nhau lập lại bức tranh toàn cảnh về quan
hệ pháp luật mà các bên tranh chấp một cách trung thực, khách quan, toàn
diện với đầy đủ các chứng cứ tài liệu, các tình tiết khác nhau về quan hệ pháp
luật trên cơ sở các thủ tục được quy định bởi pháp luật tố tụng. Để có thể tìm
ra chân lý, xác định sự thật khách quan mà từ đó phát sinh tranh chấp thì các
chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng phải:
- Phát huy tính chủ động tích cực trong cung cấp, thu thập, nghiên cứu
và đánh giá chứng cứ, tài liệu, các tình tiết liên quan một cách chính xác,
khách quan và đầy đủ;
- Đưa ra các lý lẽ, các quan điểm khác nhau, viện dẫn các quy định
của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên theo quan hệ pháp luật mà từ
đó phát sinh tranh chấp.
Đây chính là phương pháp khoa học và công bằng nhất để tiếp cận đến
việc làm rõ quyền và nghĩa vụ đích thực của các bên theo đúng quy định của
pháp luật. Tất cả các hoạt động như: thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá
và sử dụng chứng cứ …đều có thể hiểu là một trong những công đoạn của quá
trình chứng minh.
11
Từ những phân tích kể trên có thể đi đến kết luận: Chứng minh trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh là quá trình xác định sự thật khách quan về
vụ kiện được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, theo đó các các chủ thể tố tụng sử
dụng chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để làm rõ các sự kiện, tình tiết cuả vụ
án.
Khi giải quyết tranh chấp kinh doanh, Toà án chủ yếu căn cứ vào các
chứng cứ do đương sự đưa ra. Đương sự phải cung cấp cho Toà án những
chứng cứ cần thiết để chứng minh cho yêu cầu của mình. Mỗi vụ án kinh
doanh, thương mại phát sinh tại Toà án thường chứa đựng những mâu thuẫn
nhất định giữa các bên đương sự, nên rất phức tạp. Các tranh chấp này được
phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh và đều có mục
đích lợi nhuận; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ giữa các cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận hoặc có thể là những tranh chấp phát
sinh trong quá trình nội bộ trong quản trị nội bộ doanh nghiệp…Chứng minh
trong tranh chấp kinh doanh có những đặc điểm sau:
1.1.1.1 Trách nhiệm chứng minh thuộc về các bên tham gia tố tụng,
Tòa án không có nghĩa vụ điều tra
Trong vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại, các đương sự là chủ thể
của quan hệ pháp luật tranh chấp, vì vậy họ phải có trách nhiệm làm sáng tỏ
vấn đề, chứng tỏ cho Toà án và những người tham gia tố tụng khác thấy được
sự đúng đắn trong yêu cầu của mình, đồng thời chứng minh rằng bị đơn phải
có nghĩa vụ đối với yêu cầu của mình: “Quyền lợi chỉ có nghĩa lý nếu chủ
quyền chứng tỏ được sự hiện hữu của nó. Trong một vụ tranh tụng, đem được
bằng chứng về quyền lợi của mình là một điều quan trọng. Thiếu sự chứng
minh này quyền lợi nhiều khi có cũng như không”. [22, tr.383]
12
Do đó, trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, trách nhiệm chứng
minh thuộc về các bên đương sự. Để thực hiện trách nhiệm chứng minh của
mình, các đương sự phải tìm kiếm, thu thập mọi chứng cứ cần thiết để bảo vệ
quyền lợi của mình như chứng cứ viết, đề xuất để Toà án triệu tập những
người làm chứng cần thiết, các vật chứng…và cung cấp chứng cứ đó cho Toà
án và thông báo cho bên kia biết những chứng cứ đó. Đồng thời với việc xuất
trình những chứng cứ cho Toà án thì các đương sự phải đưa ra các lý lẽ, các
căn cứ pháp lý để chứng minh rằng yêu cầu của mình hoặc phản đối yêu cầu
của đối phương là có căn cứ hợp pháp. Trên cơ sở các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ
pháp lý do các bên đương sự xuất trình, Thẩm phán xem xét, nghiên cứu đánh
giá các yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý đó của mỗi bên, thông báo
cho các bên về yêu cầu, chứng cứ hay những lập luận bảo vệ các yêu cầu
đó…để mỗi bên tiếp tục củng cố các chứng cứ, lập luận, lý lẽ của mình.
Trong trường hợp Thẩm phán thấy rằng chứng cứ mà các đương sự xuất trình
chưa đầy đủ để giải quyết vụ kiện thì Thẩm phán yêu cầu các bên đương sự
cung cấp thêm chứng cứ hoặc triệu tập các bên để họ đối chất với nhau.
Sở dĩ Toà án không có nghĩa vụ phải tiến hành điều tra bởi vì Toà án
là cơ quan xét xử, Thẩm phán là người trung gian khách quan đứng giữa hai
bên đương sự. Nếu để Thẩm phán tiến hành các công việc như tìm kiếm, thu
thập chứng cứ thì có thể dẫn đến không đảm bảo khách quan trong quá trình
giải quyết vụ kiện, không tôn trọng quyền tự định đoạt, đồng thời không phát
huy tính tích cực, chủ động của các đương sự, gây nên tâm lý ỷ lại của các
đương sự đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.1.1.2 Chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh gắn liền
với hoạt động thu thập, cung cấp, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
13
Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ
thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ án mà còn thể hiện ở chỗ
phải làm cho mọi người “thấy rõ là có thật, là đúng”. Do vậy, các phương
thức được các chủ thể chứng minh sử dụng để chứng minh trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh cũng rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục đích,
nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra
được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến tranh chấp.
Các hoạt động chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết
vụ án và bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong
đó, hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là chủ yếu
và mang tính quyết định. Vì vậy quá trình giải quyết vụ án là quá trình thực
hiện các hoạt động chứng minh gồm cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh
giá chứng cứ của các chủ thể chứng minh và chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
thường được hiểu là đương sự.
Về bản chất, đây cũng là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ
kiện được bắt đầu từ khi có yêu cầu khởi kiện, khởi tố và kết thúc khi bản án,
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, theo đó các đương sự được đưa
ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình theo những trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng
dân sự quy định. Đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại có quyền và
nghĩa vụ cung cấp, thu thập tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình.
Có thể nói sự chiến thắng hay thất bại của họ trong một vụ tranh tụng tại Toà
án phụ thuộc rất nhiều vào việc đương sự có cung cấp đầy đủ các chứng cứ
bảo vệ quyền lợi của mình hay không. Thậm chí hoạt động chứng minh còn
được tiến hành lại từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trong trường hợp
bản án, quyết định về vụ tranh chấp bị Toà án cấp trên huỷ để tiến hành xét
xử lại. Do đó có thể thấy, hoạt động chứng minh xuyên suốt quá trình giải
14
quyết vụ án và nó gắn liền với hoạt động thu thập, cung cấp, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ.
Phần lớn đương sự trong tranh chấp kinh doanh đều là các cá nhân
hoặc tổ chức có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận nên trình độ
hiểu biết và tuân thủ pháp luật nhìn chung cao hơn so với đối tượng là đương
sự trong các vụ án dân sự. Vì vậy, ý thức pháp luật của đương sự trong tranh
chấp kinh doanh cao hơn trong tranh chấp dân sự.
Nội dung tranh chấp thường phát sinh từ những quan hệ xã hội phức
tạp và chủ yếu xuất phát từ quá trình hoạt động kinh doanh, thu lợi nhuận nên
các chứng cứ pháp lý về vụ tranh chấp thường cụ thể, rõ ràng bởi thông
thường các bên đương sự đều có sự chuẩn bị kỹ về thủ tục ngay từ khi xác lập
quan hệ kinh doanh với nhau, đồng thời đã dự liệu, phòng ngừa những vi
phạm, thiệt hại, rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Họ có điều kiện thực hiện
nghĩa vụ chứng minh tốt hơn đương sự trong tranh chấp dân sự. Điều này
cũng lý giải vì sao, đa phần các chứng cứ trong các vụ án kinh doanh thương
mại đều là chứng cứ viết, trong đó chủ yếu thể hiện ở bản tự khai. Còn chứng
cứ viết trong tranh chấp dân sự chủ yếu và phổ biến là biên bản ghi lời khai và
biên bản đối chất. Do vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ của Toà án trong thủ
tục giải quyết tranh chấp kinh doanh phần nhiều dựa vào những tài liệu,
chứng cứ do đương sự xuất trình.
Đánh giá chứng cứ là việc xem xét, tìm hiểu chứng cứ nhằm xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ. Hoạt động này được Tòa án tiến hành và được
coi là hoạt động cuối cùng của quá trình chứng minh nhưng lại mang tính
quyết định vì Tòa án đưa ra nhận định về việc giải quyết vụ án .
1.1.2 Vai trò của chứng minh trong thủ tục giải quyết tranh chấp
kinh doanh
15
Tranh chấp kinh doanh thương mại được coi là dạng đặc biệt của tranh
chấp dân sự. Chứng minh là hoạt động tố tụng cơ bản của các chủ thể tố tụng.
Kết quả giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào kết quả của hoạt động chứng
minh. Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì chứng minh vẫn là biện pháp
duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án. Vì vậy, chứng minh có
những vai trò cụ thể sau:
Chứng minh là biện pháp rất quan trọng để các đương sự làm rõ được
cơ sở quyền, lợi ích hợp pháp của họ trên cơ sở đó thuyết phục Toà án bảo vệ.
Trước Toà án, nếu đương sự không chứng minh được sự tồn tại quyền và lợi
ích hợp pháp của họ thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ không
được Toà án bảo vệ. Vì trên thực tế, các Toà án cũng có thể có sai lầm trong
việc xác định các tình tiết, sự kiện của vụ tranh chấp. Điều này, một mặt dẫn
đến việc giải quyết án không đúng với sự thật, mặt khác làm cho đương sự
không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Để có một phán quyết công minh, làm sáng tỏ được các tình tiết cần
chứng minh trong vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thì trước hết đương sự phải xuất trình chứng cứ cũng như khẳng định giá trị
chứng minh của chứng cứ mà mình xuất trình. Điều này buộc họ phải suy
nghĩ chín chắn trước khi đưa ra yêu cầu vì nếu đưa ra yêu cầu mà không đưa
ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó thì Toà án sẽ phải dựa vào các chứng
cứ khác để giải quyết vụ kiện và đương sự đó phải chịu án phí cho phần yêu
cầu không được chấp nhận. Do vậy, chứng minh bảo đảm cho các đương sự
có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra một chứng cứ hoặc luận điểm nào
đó để bảo vệ mình.
Chứng minh còn là yếu tố cần thiết bảo đảm việc xét xử công minh,
không thiên vị, hạn chế những phán quyết tuỳ tiện, bất công, trái pháp luật.
16
Nó không chỉ thể hiện tính dân chủ trong hoạt động xét xử mà còn bảo đảm
cho nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của Tòa
án, buộc cơ quan và người tiến hành tố tụng nâng cao tính văn hoá, tinh thần
trách nhiệm và ý thức pháp luật trong từng hành vi tố tụng của mình. Rõ ràng
là khi nhân dân biết bàn, đánh giá và kiểm tra hành vi tố tụng của mình thì tất
cả những ai tiến hành tố tụng đều phải xem lại mình, làm việc với tinh thần
trách nhiệm cao và không thể không tôn trọng pháp luật. Ngược lại, việc khép
kín, xu hướng bí mật hoá hoạt động tố tụng sẽ là mảnh đất cho sự dung túng,
lạm quyền, thói thờ ơ vô trách nhiệm hoặc bất chấp pháp luật.
Thông qua các hoạt động chứng minh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
biết rõ các tình tiết, sự kiện của vụ tranh chấp, hiểu rõ các yêu cầu của đương
sự, có được các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để xác định chân lý khách
quan của vụ kiện. Trên cơ sở đó, Toà án giải quyết các yêu cầu của đương sự,
xác lập lại cho đúng các quan hệ pháp luật mà các bên tham gia, từ đó xác
định đúng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Thông
qua chứng minh Tòa án có đường lối xét xử chính xác và thực hiện tốt vai trò
là “người trọng tài” trong vụ án, là người điều chỉnh cán cân công lý trên tinh
thần bảo vệ người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, bảo đảm sự
công bằng trong xã hội.
Hoạt động chứng minh còn bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng
quyền bình đẳng, tức là tạo ra khả năng để các chủ thể nói chung và các
đương sự nói riêng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án,
vì bản chất của chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh là quá
trình tranh tụng của các chủ thể tố tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật
nội dung mà từ đó phát sinh tranh chấp, xác định đúng các quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên trong quan hệ đó. Quá trình này chỉ đạt được mục đích khi các
chủ thể tham gia chứng minh bình đẳng với nhau trước Toà án.
17
Chứng minh trong giải quyết tranh chấp kinh doanh là một bảo đảm
cơ bản cho một nền công lý trong sạch, trung thực và công bằng. Nó không
chỉ bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về mặt pháp lý cho mọi cá nhân, tổ chức
mà còn tạo điều kiện cho việc đạt được sự bình đẳng, công bằng về thực tế
của các các nhân, tổ chức đó, bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời để
hạn chế tối đa thiệt hại lợi ích của các chủ thể kinh doanh, góp phần bảo đảm
sự an toàn cho các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh, thương mại.
1.2 Các nội dung cấu thành của quá trình chứng minh
1.2.1 Nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Tranh chấp kinh doanh được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
pháp luật dân sự. Như vậy, sự vi phạm nghĩa vụ của một bên là nguyên nhân
dẫn đến tranh chấp giữa các bên.
Từ khẳng định trên, ta có thể thấy rằng mọi tranh chấp kinh doanh,
thương mại đều bắt nguồn từ việc các bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khác với tố
tụng hình sự, lỗi trong thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là
lỗi suy đoán. Toà án không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm. Bên
có quyền lợi bị vi phạm cũng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi
phạm mà chỉ cần chứng minh hành vi vi phạm của bên vi phạm. Để được
miễn trách nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh mình không có lỗi trong việc
vi phạm. Nếu bên vi phạm không chứng minh được mình không có lỗi thì bị
suy đoán là có lỗi và phải bồi thường các thiệt hại do hành vi vi phạm của
mình gây ra.
Chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện của tranh chấp kinh doanh là
vấn đề rất cần thiết. Trong việc giải quyết bất kỳ vụ án kinh doanh, thương
18
mại nào cũng đều phải tiến hành các hoạt động chứng minh. Chứng minh
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh được tiến hành chủ yếu bằng
việc chỉ ra các căn cứ pháp lý, xuất trình các chứng cứ, nghiên cứu và đánh
giá chúng. Từ đó đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể, bảo đảm việc giải quyết vụ án được chính xác. Nói
cách khác cần phải xác định được ai là chủ thể chứng minh trong các vụ án
kinh doanh, thương mại.
Trên thực tế, do xuất phát từ yêu cầu của các đương sự nên có sự tham
gia tố tụng của các chủ thể khác và do hoạt động tố tụng của đương sự là
trung tâm của tố tụng nên chủ thể chứng minh thường được hiểu là các đương
sự. Đương sự trong các vụ án kinh doanh, thương mại là các cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Nhưng chứng minh
không chỉ giới hạn ở việc xác định chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu hay
phản yêu cầu của đương sự mà còn phải làm rõ được tất cả các vấn đề liên
quan đến vụ tranh chấp mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết. Khi đưa ra yêu
cầu, đương sự phải chỉ ra những căn cứ pháp lý của các yêu cầu. Khi quyết
định giải quyết vụ án kinh doanh của mình, Toà án cũng phải chỉ rõ quyết
định được dựa trên những căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý nào. Vì thế, nếu
xem xét ở góc độ cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ của mỗi chủ thể tố
tụng trong phạm vi nhất định thì các chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ chứng
minh. Chẳng hạn, các đương sự phải chỉ ra quyền, lợi ích của họ phát sinh,
tồn tại trên cơ sở những tình tiết, sự kiện pháp lý nào; người làm chứng phải
chỉ ra thông tin họ cung cấp có nguồn gốc từ đâu…Vì vậy, nếu xem xét một
cách đầy đủ, biện chứng các hoạt động tố tụng của các chủ thể trong việc thực
hiện mục đích, nhiệm vụ chung của tố tụng thì chủ thể chứng minh trong
tranh chấp kinh doanh không chỉ là đương sự.
19
Các chủ thể chứng minh đều có quyền, nghĩa vụ chứng minh. Tuy
vậy, mỗi chủ thể tham gia tố tụng dân sự đều xuất phát từ những mục đích,
nhiệm vụ khác nhau nên quyền, nghĩa vụ chứng minh thể hiện ở những mức
độ khác nhau. Do đó, để bảo đảm hoạt động chứng minh trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh tiến hành có hiệu quả thì vấn đề đặt ra là phải xác định
được nghĩa vụ chứng minh của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và Toà án trong việc làm rõ các tình tiết của vụ án.
Trong vụ tranh chấp kinh doanh, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc
về đương sự. Mỗi một bên đương sự khi tham gia tố tụng đều cần phải chứng
minh tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại mà
trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác. Trong
mối tương quan giữa các đương sự thì nguyên đơn phải chứng minh trước vì
chính nguyên đơn là người chủ động làm phát sinh vụ kiện nên phải chứng
minh được cơ sở đúng đắn của hành động khởi kiện của mình:
Nguyên đơn phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để chứng
minh trên cơ sở nào quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
được xác lập. Bị đơn không có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ,
trừ khi, để bảo vệ mình, bị đơn muốn cung cấp thêm các sự việc
hoặc tình tiết mới so với những sự việc, tình tiết đã được nguyên
đơn nêu ra. [18, tr.177]
Pháp luật quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh vì họ là người
trong cuộc nên thường biết rõ về vụ việc, có điều kiện cung cấp các tin tức về
vụ việc và nguồn gốc của nó, từ đó Toà án có thể xác định được những tình
tiết, sự kiện của vụ án. Mặt khác, đương sự có quyền lợi ích liên quan đến vụ
án đưa ra yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự khác nên họ sẽ quan tâm và
tìm mọi biện pháp để khẳng định yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của mình.
20
Chứng minh không những để làm rõ sự thật của vụ tranh chấp mà còn
là biện pháp tốt nhất để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Toà án. Tuy vậy, hiệu quả chứng minh lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Để bảo đảm cho đương sự thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước Toà án, các đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh như nhau.
Bên này được đưa ra chứng cứ, lý lẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì bên kia cũng phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Ai cũng có quyền cung cấp chứng cứ và Tòa án có trách
nhiệm tiếp nhận và đưa vào hồ sơ vụ án. Sự thiếu bình đẳng về nghĩa vụ
chứng minh của đương sự có thể dẫn đến hậu quả chỉ có một bên đưa ra được
chứng cứ, lý lẽ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Toà
án có thể nhận thức sai sự việc từ đó giải quyết không đúng với bản chất của
nó. Trên thực tế, các đương sự trong tranh chấp kinh doanh, thương mại thực
hiện khá tốt nghĩa vụ chứng mình. Ngay khi vụ án được Tòa án thụ lý, các
đương sự đã nắm bắt ngay mình phải xuất trình những tài liệu, chứng cứ gì để
chứng minh cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình.
Khi tham gia tố tụng, các đương sự phải tích cực thực hiện nghĩa vụ
chứng minh của mình mà không được ỷ lại cho chủ thể khác thực hiện. Nếu
đương sự không tích cực thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình mà ỷ lại
cho chủ thể khác thực hiện thay thì có thể dẫn đến tình trạng có tình tiết của
vụ án không được làm sáng tỏ vì những người thực hiện thay có thể không
biết hết được sự việc và sẽ đem đến hậu quả bất lợi cho đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố
tụng với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (thường là
các luật sư). Chứng minh là hoạt động khoa học mang tính pháp lý. Hiệu quả
của hoạt động chứng minh không chỉ phụ thuộc vào các chứng cứ, tình tiết, sự
kiện mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết luật pháp và tư duy lập luận của
21