Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thực trạng tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án & 1 số giải pháp kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.3 KB, 48 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Dới quan điểm của các nhà kinh tế học, nền kinh tế thị trờng đã tạo điều kiện
cho việc thu hút các ngành đầu t trong và ngoài nớc để thúc đẩy nền sản xuất hàng
hoá nớc ta phát triển. Song dới quan điểm của các nhà luật học thì chính nền sản
xuất hàng hoá phát triển cao đã làm phát sinh nhiều mối quan hệ kinh tế phức tạp
giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh với nhau. Trong những biểu hiện của nó là các
tranh chấp kinh tế khi mà hai bên không thể thoả thuận đợc. Trong trờng hợp đó,
việc giải quyết tranh chấp này ở đâu? và đợc thực hiện bởi cơ quan nào? để cho các
đơn vị sản xuất, kinh doanh đó yên tâm, tin tởng vào đờng lối phát triển kinh tế
trong thời kỳ đổi mới mà Đảng, Nhà nớc ta đã đặt ra là vấn đề hết sức cần thiết và
cấp bách trong giai đoạn hiện nay ở nớc ta.
Đáp ứng yêu cầu đó, Nhà nớc ta đã thực hiện cuộc cải cách sâu sắc trong việc
tổ chức các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế. Trong đó có việc thành lập Toà
án kinh tế - một Toà chuyên trách trong Hệ thống Toà án nhân dân có chức năng
giải quyết các tranh chấp kinh tế và giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân đ-
ợc Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có hiệu lực ngày 01/07/1994. Từ đó đến
nay, phơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế phổ biến nhất, quan trọng nhất là Toà
án.
Sau 7 năm thành lập và hoạt động, các Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân đã
đạt đợc những kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
Toà án đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật
về nội dung và pháp luật về tố tụng cũng nh về tổ chức các Toà kinh tế thuộc Toà án
nhân dân.
1
Xuất phát từ yêu cầu khách quan đổi mới phơng thức giải quyết tranh chấp
kinh tế ở Toà án nhân dân, tôi lựa chọn nghiên cứu vấn đề Thực trạng tình hình
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án và một số giải pháp, kiến nghị"
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Phạm vi nghiên cứu


Đây là vấn đề có nội dung mới có thể thuộc nội dung nghiên cứu của nhiều
chuyên ngành khoa học khác nhau. Đề tài giới hạn nghiên cứu dới góc độ pháp luật
về thực trạng và giải pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam trên cơ sở pháp
luật và thực hiện pháp luật từ tháng 07/1994 đến năm 2000.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này đợc viết nhằm mục đích:
+ Làm sáng tỏ thực trạng pháp luật cũng nh việc áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án.
+ Việc nghiên cứu phải trên cơ sở số liệu của hệ thống Toà án nhân dân các
cấp trong việc giải quyết các vụ án kinh tế.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu vấn đề này, cơ sở phơng pháp luận của chúng tôi là dựa vào
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và chính sách đổi mới của
Đảng.
Chúng tôi đã sử dụng phơng pháp thống kê so sánh, phân tích t liệu, hồ sơ, số
liệu thu thập đợc liên quan đến pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh tế bằng Toà án ở Việt Nam.
5. Kết cấu của khoá luận
Trong phạm vi, giới hạn của khoá luận tốt nghiệp chúng tôi đề cập và giải
quyết một số nội dung cơ bản của đề tài nh sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng của khoá luận này gồm có ba chơng:
Chơng I: Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án ở Việt
Nam
2
Chơng II: Thực trạng, tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án
nhân dân từ tháng 07/1994 đến năm 2000
Chơng III: Một số giải pháp, kiến nghị về giải quyết tranh chấp kinh tế
bằng Toà án nhân dân.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này em đã nhận đợc sự giúp đỡ

tận tình thiết thực của thầy giáo Thạc sĩ Trần Đình Khánh và một số cán bộ công tác
tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm
ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên
tập cũng nh trong trình bày. Rất mong sự góp ý và phê bình của những ai quan tâm
đến đề tài này.
Ngời thực hiện
Hoàng Thị Lan Anh
3
Chơng I
Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng
Toà án ở Việt Nam
1. Tranh chấp kinh tế
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trờng, với sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, các quan hệ
kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Mục đích tìm kiếm lợi nhuận chẳng
những là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình mở rộng các giao lu kinh tế mà còn là
lý do tồn tại của các chủ thể kinh tế.
Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế và dới sự tác động của quy
luật cạnh tranh, tranh chấp kinh tế cũng trở nên phong phú hơn về loại hình, phức
tạp hơn về tính chất và quy mô. Chính vì vậy, việc áp dụng hình thức và phơng thức
giải quyết tranh chấp kinh tế phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo
vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo đảm nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó góp phần tạo môi trờng pháp lý lành
mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của đất nớc.
Tranh chấp kinh tế là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về
quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu t, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện
dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lời. Nh vậy, tranh chấp kinh tế có thể
phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, dù tồn tại dới
hình thức nào và có thể bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan và chủ quan khác

nhau, nhng đặc trng chung của tranh chấp kinh tế là luôn gắn với hoạt động kinh
doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân doanh nghiệp. Về bản chất, mỗi
tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các
bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nớc ta trớc đây, các tranh chấp kinh tế
chủ yếu tồn tại dới dạng tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Ngợc lại, trong điều kiện
kinh tế thị trờng, sự đa dạng về đối tợng, chủ thể và phơng thức kinh doanh cũng
nh sự xuất hiện các loại thị trờng đã làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp kinh tế
4
mới. Chẳng hạn, khi các công ty ra đời thì đồng thời cũng xuất hiện các khả năng
phát sinh tranh chấp giữa các công ty với thành viên, giữa các thành viên với nhau
trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể; cùng với quá trình cổ phần hoá, sự
xuất hiện của thị trờng tài chính mà đặc trng nhất là thị trờng chứng khoán dẫn đến
các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Tơng tự nh vậy, chỉ
trong điều kiện có cạnh tranh thì những loại tranh chấp kinh tế về quảng cáo, phá
sản... mới chính thức đợc đề cập đến. Tranh chấp kinh tế là điều khó tránh khỏi.
Thực tiễn những năm đầu của việc chuyển đổi nền kinh tế ở nớc ta cho thấy, số lợng
tranh chấp gia tăng và ngày càng phức tạp hơn các tranh chấp kinh tế trong thời kỳ
quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Khi có các tranh chấp kinh tế
xảy ra thì điều đó có nghĩa là lợi ích kinh tế của một bên nào đó bị vi phạm. Sự mâu
thuẫn về lợi ích này sẽ ảnh hởng ít nhiều về tiến trình sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Do vậy, khi các tranh chấp kinh tế đợc giải quyết nhanh chóng thì
không những quyền, lợi ích các bên bị vi phạm đợc bảo vệ, đợc phục hồi mà còn tạo
điều kiện cho bên bị vi phạm tiếp tục duy trì ổn định, phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh. Giải quyết tốt các tranh chấp kinh tế còn là động lực để thúc đẩy kinh
tế của đất nớc phát triển. Tranh chấp trong kinh doanh thờng có giá trị lớn, hiệu quả
của nó ảnh hởng mạnh mẽ tới quá trình kinh doanh của các nhà doanh nghiệp nói
riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trên thực tế, nhiều tranh chấp có giá trị
lớn không đợc giải quyết kịp thời đã kéo theo những hậu quả xấu nh đình đốn sản
xuất, thậm chí doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản làm mất sự cân bằng và

ổn định của nền kinh tế. Do đó, việc đổi mới cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế
cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan hệ kinh tế
thị trờng vừa là một yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với nội dung khái niệm tranh chấp kinh tế nh trên, có thể nhận thấy các tranh
chấp kinh tế hiện nay là rất đa dạng và phức tạp, các chủ thể của nền kinh tế đợc mở
rộng hơn trớc và phạm vi hoạt động cũng đa dạng hơn trớc. Vì vậy, pháp luật áp
dụng cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế phải linh hoạt và mềm dẻo hơn, các
cơ quan tài phán vừa phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình, vừa phải thay đổi
phơng thức giải quyết tranh chấp kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế mở nh hiện
nay của nớc ta.
5
2. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án trong
nền kinh tế thị trờng
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định: Cơ chế vận
hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là cơ
chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các
công cụ khác.
Chính sách đổi mới kinh tế của Đảng đã đợc khẳng định và thể chế hoá trong
các văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nớc ta. Cơ chế kinh tế thị trờng đã đợc
Hiến pháp 1992 của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận thành một
nguyên tắc Hiến định: Nhà nớc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ
nghĩa(Điều 15) và Nhà nớc thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp
luật (Điều 26).
Trên cơ sở các định hớng và nguyên tắc cơ bản đó, công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nớc ta đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng trong
đời sống kinh tế xã hội. Đất nớc đang bớc dần ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế- xã hội và đạt đợc những thành tựu quan trọng tạo tiền đề tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Về căn bản, nền kinh tế nớc ta đợc chuyển từ nền kinh tế sản xuất mang tính

chất xã hội trực tiếp với hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể sang
nền sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần sở hữu, quan hệ thị trờng là cơ sở vận
động của nền kinh tế mới. Tính chất của nền sản xuất mới tất yếu dẫn đến sự phát
sinh các quan hệ của nền kinh tế thị trờng, mà từng phạm trù của nền kinh tế này
gắn liền với những quan hệ pháp lý, định chế pháp lý khác nhau (ví dụ nh hợp đồng,
tiền lơng, tín dụng...). Các quan hệ kinh tế sẽ đa dạng, sự mâu thuẫn về lợi ích liên
quan đến nhiều chủ thể và sự liên đới về các trái vụ phát sinh trong các hoạt động
kinh doanh càng phức tạp. Về mặt không gian, các quan hệ đó vợt ra ngoài ranh
giới quốc gia. Do đó, phải hội nhập với các định chế quốc tế trong lĩnh vực kinh
doanh thơng mại.
Cùng với sự phát triển kinh tế thì các thành phần kinh tế, các quan hệ kinh tế
cũng ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp hơn. Nhiều loại hình doanh nghiệp:
6
Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, các cá nhân tham gia vào các quan
hệ kinh tế tạo nên một đời sống kinh tế hết sức khẩn trơng và sôi động. Sự đa dạng
của các chủ thể kinh tế và các quan hệ kinh tế mới đã làm cho các tranh chấp kinh
tế trở nên phức tạp, quyết liệt hơn cả về nội dung và tính chất. Nếu nh các tranh
chấp kinh tế trớc đây chỉ đơn thuần là tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa xí nghiệp
quốc doanh, các đơn vị kinh tế của Nhà nớc nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh, kế
hoạch của Nhà nớc giao. Thì nay các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trờng
phát triển ngày một đa dạng hơn đã làm phát sinh nhiều tranh chấp kinh tế mới giữa
các chủ thể kinh doanh với nhau nh giữa các loại hình doanh nghiệp: Công ty, Hợp
tác xã, Doanh nghiệp t nhân và các cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nội dung của
tranh chấp kinh tế không chỉ giới hạn ở hợp đồng kinh tế mà liên quan đến tranh
chấp giữa Công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau,
tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu, quảng cáo...Vì vậy, các chủ
thể kinh doanh đòi hỏi Nhà nớc phải thông qua hệ thống pháp luật bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp khi họ kinh doanh đúng pháp luật. Do tính chất phức tạp của các
tranh chấp trong giai đoạn hiện nay thì việc phải có một cơ quan mang tính chất
quyền lực Nhà nớc để giải quyết các tranh chấp kinh tế là một yêu cầu bức thiết của

đời sống kinh tế-xã hội nớc ta.
Thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, các tranh chấp kinh tế phát sinh đều đợc
giải quyết thông qua trọng tài kinh tế Nhà nớc - cơ quan trực thuộc Chính phủ.
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng xuất hiện hàng loạt tranh chấp kinh tế mới: tranh
chấp giữa Công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên trong công ty,
tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu... Nhng những tranh chấp kinh tế này lại
vợt quá khả năng, thẩm quyền giải quyết của trọng tài kinh tế Nhà nớc. Vì vậy, Toà
án kinh tế ra đời thay cho trọng tài kinh tế là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách
quan của đất nớc.
Nhằm hội nhập vào đời sống kinh tế của các nớc trong khu vực cũng nh trên
thế giới, Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng xây dựng một nền kinh tế mở. Theo đó, các
quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng đợc và củng cố và mở rộng, đã thu hút đợc số l-
ợng lớn về vốn, công nghệ... của các nhà đầu t nớc ngoài. Đồng thời thông qua đó,
7
chúng ta nắm bắt đợc các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm
quản lý, kinh doanh của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển.
Vấn đề đặt ra ở đây là khi mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta phải
xem xét và chấp nhận những tập quán thơng mại Quốc tế và các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế về các lĩnh vực kinh doanh và thơng mại.
Các mối quan hệ kinh tế quốc tế đợc mở rộng đã tác động tích cực vào nền
kinh tế nớc ta làm cho các hoạt động kinh doanh trở nên sôi động và đa dạng hơn.
Đơng nhiên không thể tránh khỏi các tranh chấp kinh tế phát sinh trong lĩnh vực
này. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế trong kinh doanh có nhân tố nớc ngoài là
một việc khó và phức tạp. Các chủ đầu t nớc ngoài vào Việt Nam cũng nh các nhà
kinh doanh và đầu t trong nớc đều quan tâm đến sự bảo đảm về mặt pháp lý đối với
hoạt động kinh doanh của mình và pháp luật phải bảo vệ đợc quyền và lợi ích chính
đáng cho họ khi xảy ra tranh chấp kinh tế. Chính vì vậy, khi tiến hành đầu t vào
Việt Nam, ngoài các yếu tố đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động và hiệu quả kinh
doanh thì các chủ đầu t cũng đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, giải quyết tranh chấp phải nhanh chóng, thuận lợi

và hiệu quả mới bảo vệ đợc quyền lợi chính đáng của họ. Chính vì các yêu cầu nêu
trên, việc thiết lập một hình thức tài phán mới, độc lập với các cơ quan Nhà nớc
khác có khả năng giải quyết nhanh chóng các tranh chấp kinh tế, cũng nh các phán
quyết của hình thức tài phán này có tính quyền uy và khả năng thực thi cao, thì
không thể có một cơ quan nào khác ngoài Toà án. Vì vậy, ngày 29/12/1993 Quốc
hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá 9 kỳ họp thứ 4) đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân. Luật này đợc
Chủ tịch nớc công bố ngày 10/01/1994 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/1994.
Trong đó có các điều liên quan đến việc thành lập Toà Kinh tế - Toà chuyên trách
thuộc hệ thống Toà án nhân dân, quy định thẩm quyền của Toà Kinh tế trong việc
giải quyết các vụ án kinh tế và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Tham khảo
kinh nghiệm của một số nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển nh Pháp, Đức...đều
có hình thức tài phán kinh tế bằng Toà án và qua sự tồn tại, hoạt động của hình thức
tài phán này cho thấy tính tích cực cũng nh tính hiệu quả của nó trên thực tiễn.
3. Chức năng và nhiệm vụ của Toà án kinh tế
8
3.1. Chức năng của Toà án kinh tế
Chức năng của Toà án kinh tế là một mặt hoạt động chủ yếu của Toà án kinh
tế đợc pháp luật ghi nhận, nó xác định bản chất của Toà án kinh tế là một trong
những cơ quan xét xử của Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Toà án kinh tế có những chức năng cơ bản sau:
Một là: Chức năng xét xử các vụ án kinh tế
Là một bộ phận của Toà án nhân dân, Toà án kinh tế có chức năng xét xử -
một chức năng cơ bản của Toà án nhân dân nói chung. Điều 127 Hiến pháp năm
1992 quy định: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phơng, các Toà
án quân sự và các Toà án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nớc cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng quy định này, Hiến pháp năm 1992 khẳng định
rằng ở nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam việc thực hiện chức năng xét xử do
Toà án nhân dân đảm nhiệm. Ngoài Toà án nhân dân ra không một cơ quan quyền
lực nào có thể thực hiện chức năng xét xử. Toà án thực hiện chức năng xét xử nhân

danh nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định tại Điều 127 Hiến pháp
năm 1992 về chức năng của Toà án đã đợc cụ thể hoá bằng luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 1992 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân
dân, đợc Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993. Toà án kinh tế thực hiện chức năng
xét xử các vụ án kinh tế. Khi thực hiện chức năng này, Toà án kinh tế phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng.
Toà án kinh tế thực hiện chức năng xét xử các vụ án kinh tế của mình bằng việc ra
Bản án, quyết định. Các bản án, quyết định của Toà án kinh tế đã có hiệu lực pháp
luật phải đợc các cơ quan nhà nớc, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi công dân
tôn trọng.
Hai là: Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Toà kinh tế ngoài chức năng xét xử nh các toà khác trong Toà án nhân dân,
Toà kinh tế còn có chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo Luật phá sản doanh nghiệp đợc Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993,
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng, Toà án tối cao còn có chức
năng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
9
Tuyên bố phá sản doanh nghiệp là một hoạt động thuần tuý t pháp, là một thủ
tục đòi nợ đặc biệt. Thực hiện chức năng này Tòa án kinh tế bảo vệ lợi ích của cả
chủ nợ lẫn lợi ích của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản và lợi ích của
xã hội.
3.2. Nhiệm vụ của Toà án kinh tế
Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo
vệ tài sản của Nhà nớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân (Điều 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân).
Nh vậy có thể nói rằng, pháp luật đã quy định một cách cụ thể và rõ ràng
nhiệm vụ chính của Toà án nhân dân nói chung và Toà kinh tế nói riêng trong khi
thực hiện chức năng của mình.
Là một trong những cơ quan tố tụng, Toà án phải đảm bảo cho mọi hoạt động

tố tụng của mình đợc tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Các
cá nhân, tổ chức theo quy định của thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có quyền
khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu toà án kinh tế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Và trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, Toà án phải tiến hành
các biện pháp để các đơng sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhằm
thoả mãn đợc lợi ích của các bên có tranh chấp. Mặt khác, bằng hoạt động của
mình, Toà án góp phần giáo dục các doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống các vi
phạm pháp luật.
4. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế
tại Toà án nhân dân
Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật và yêu cầu lợi ích kinh tế
của chính các nhà doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp kinh tế trong điều
kiện nền kinh tế chuyển đổi hiện nay đòi hỏi phải đáp ứng đợc các yêu cầu sau:
- Nhanh chóng và đúng đắn, hạn chế đến mức tối đa sự gián đoạn của quá
trình sản xuất, kinh doanh
10
- Đảm bảo dân chủ, công khai, quyền tự định đoạt của các bên trong quá
trình giải quyết tranh chấp.
- Đảm bảo yếu tố bí mật trong kinh doanh.
- Đảm bảo uy tín cho các bên trong thơng trờng.
- Đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia tranh chấp.
Để tạo điều kiện cho Toà án kinh tế tiến hành tố tụng một cách nhanh chóng
đồng thời đảm bảo cho các đơng sự có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ, trên cơ sở đó ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, những biểu hiện
tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án thì hoạt động của Toà án kinh tế phải dựa
trên các nguyên tắc của tố tụng kinh tế.
Lý luận Mác - Lê nin về Nhà nớc và pháp luật đã chỉ ra rằng nguyên tắc của
pháp luật xã hội chủ nghĩa là những t tởng chỉ đạo bao trùm lên toàn bộ các quy

phạm pháp luật, các chế định pháp luật và hệ thống các ngành luật cụ thể. Theo đó
nguyên tắc của thủ tục tố tụng kinh tế là những t tởng pháp lý chỉ đạo chi phối toàn
bộ hệ thống chế định pháp luật trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế,
làm kim chỉ nam định hớng xuyên suốt cho toàn bộ quá trình hoạt động giải quyết
tranh chấp của Toà án kinh tế.
Tất cả các hành vi đợc tiến hành trong quá trình tố tụng nh khởi kiện, ra
quyết định, bản án... đều phải thực hiện trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc đã đề
ra. Bất cứ một hành vi nào vi phạm các nguyên tắc của thủ tục tố tụng kinh tế đều đ-
ợc coi là bất hợp pháp và phải bị loại bỏ.
Khi đi vào nghiên cứu các nguyên tắc có thể thấy rõ hoạt động của tố tụng
kinh tế cũng nh các hoạt động tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh tế Toà kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc chung về tố tụng đợc quy định
trong Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân nh: nguyên tắc khi xét xử Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Toà án xét xử công
khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Toà án đảm bảo cho đơng sự đợc dùng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trớc toà... Đây là các nguyên tắc chung về tố
tụng nhng trong tố tụng kinh tế cũng có các nguyên tắc đặc thù riêng. Vì vậy giới
11
hạn trong nội dung của phần này chúng tôi chỉ trình bày một số nguyên tắc cơ bản
của tố tụng kinh tế.
4.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đơng sự
Đây là nguyên tắc cơ bản của tố tụng kinh tế. Nguyên tắc này phát sinh từ
nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh, Nhà nớc không can thiệp vào các hoạt
động kinh doanh đúng pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp, Toà án chỉ tham gia giải
quyết nếu đơng sự có đơn yêu cầu. Việc yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp là
quyền của các chủ thể kinh doanh. Các cơ quan Nhà nớc, tổ chức xã hội không có
quyền khởi kiện, khởi tố các tranh chấp kinh tế.
Quyền tự định đoạt của đơng sự đợc thể hiện ở những nội dung sau:
- Quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện
- Quyền xác định phạm vi yêu cầu

- Quyền đợc thay đổi, bổ sung nội dung yêu cầu
- Quyền đề xuất bổ sung chứng cứ
- Quyền rút đơn kiện trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Trong toàn bộ các quyền kể trên thì quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện là
quan trọng nhất. Bởi vì kinh doanh là một công việc có tính chất riêng t, các tranh
chấp phát sinh trong kinh doanh phải do chính các nhà doanh nghiệp tự quyết định.
Trong nền kinh tế thị trờng các bên tham gia vào quan hệ kinh tế với mục đích làm
sao kiếm đợc lợi nhuận cao nhất trên cơ sở phát huy mối quan hệ kinh doanh tốt đối
với các bạn hàng, mở rộng thị trờng và tạo uy tín lớn... Do đó, khi tranh chấp kinh
doanh xảy ra việc đa ra Toà án giải quyết phải đợc các bên cân nhắc kỹ lỡng, đây là
biện pháp cuối cùng khi các bên tranh chấp không tìm đợc cách giải quyết nào tốt
hơn.
4.2. Nguyên tắc các đơng sự bình đẳng trớc pháp luật
Quyền bình đẳng trớc pháp luật là quyền cơ bản của công dân, của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và đợc ghi nhận trong Hiến pháp 1992 (Điều
22, Điều 52).
Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh
doanh mà cả khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng. Toà án sẽ tiếp tục tiến hành xét
12
xử các tranh chấp kinh tế không phân biệt các loại hình doanh nghiệp: Doanh
nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp t nhân, công ty, hợp tác xã hay ngời kinh doanh...
Mặt khác, khi tham gia vào qua hệ tố tụng các đơng sự đều đợc hởng các quyền
cũng nh phải thực hiện nghĩa vụ nh nhau theo quy định của pháp luật.
Theo nguyên tắc này không một cá nhân, một cơ sở sản xuất kinh doanh nào
có đặc quyền đặc lợi trớc Toà án. Họ đều ở vị trí bình đẳng về tố tụng và đều phải
tuân theo pháp luật. Nếu có hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng kinh tế đảm bảo cho việc xét xử đợc
công bằng, đúng pháp luật. Nguyên tắc này khuyến khích các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh nói riêng và mọi thành phần kinh tế nói chung mạnh dạn đầu t
vào hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế nó có ý nghĩa quan trọng trong việc phát

triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trờng ở nớc ta.
4.3. Nguyên tắc Toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ
Đây là nguyên tắc mang tính đặc thù của tố tụng kinh tế, theo nguyên tắc này
các đơng sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của
mình. Toà án không tự điều tra, thu thập chứng cứ nh trong việc giải quyết các vụ
án dân sự.
Trong tố tụng dân sự, nhiều trờng hợp đơng sự là ngời cha thành niên, ngời
có nhợc điểm về thể chất hoặc tâm thần... tức là những ngời này bị hạn chế hoặc
không có năng lực hành vi. Nếu có phát sinh tranh chấp và đợc giải quyết bởi Toà
án thì trong nhiều trờng hợp các đơng sự này không thể tự chứng minh cho các yêu
cầu của mình nên Toà án phải tiến hành điều tra, thu thập thêm chứng cứ.
Còn trong kinh doanh, các nhà kinh doanh phải có đủ một số điều kiện mà
pháp luật quy định cho họ nh: phải từ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi đầy đủ, có
trình độ chuyên môn phù hợp với ngành nghề kinh doanh... Vì thế khi xảy ra tranh
chấp các nhà kinh doanh đều có đủ khả năng để tự thu thập tài liệu chứng cứ chứng
minh nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, trong vụ án kinh tế yêu cầu Toà
án giải quyết là hoàn toàn do đơng sự tự định đoạt một cách chủ động, không có tr-
ờng hợp nào Viện kiểm sát hoặc tổ chức xã hội can thiệp vào việc đa ra yêu cầu
đồng thời làm thay đổi việc cung cấp chứng cứ chứng minh.
13
Việc nâng cao trách nhiệm tự chứng minh của các đơng sự là đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ án kinh tế đợc nhanh chóng, chính xác và khách quan. Toà án
chỉ giải quyết trên cơ sở chứng cứ mà đơng sự cung cấp. Toà án không tiến hành xét
hỏi mà nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ. Các bên có quyền và nghĩa vụ
trình bày những gì mà họ cho là cần thiết để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong trờng hợp đơng sự cung cấp chứng cứ cha đầy đủ hoặc chứng cứ đó cha
chính xác thì Toà án sẽ yêu cầu đơng sự cung cấp thêm chứng cứ hoặc xác minh sự
chính xác của chứng cứ.
4.4. Nguyên tắc Toà án chỉ thụ lý đơn kiện khi các bên đã tiến hành th-

ơng lợng hoà giải
Nguyên tắc hoà giải phải gắn liền với nguyên tắc tự định đoạt của đơng sự.
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào các quan hệ kinh tế là dựa trên cơ sở bình
đẳng, tự nguyện. Do đó khi phát sinh tranh chấp các bên phải chủ động tiến hành
thơng lợng, hoà giải với nhau để cùng một biện pháp giải quyết. Chỉ khi nào có văn
bản chứng tỏ việc thơng lợng, hoà giải không thành hoặc không thể tiến hành vì sự
thiếu thiện chí của một bên lúc đó Toà án mới thụ lý hồ sơ và giải quyết.
Hoà giải là việc các bên tự thơng lợng giải quyết tranh chấp với nhau mà
không cần có phán quyết của Toà án. nguyên tắc này xuyên suốt quá trình giải
quyết vụ án kinh tế. Khi các đơng sự đã yêu cầu Toà án can thiệp hoặc trong quá
trình xét xử Toà án cũng luôn tìm các biện pháp để các bên có thể hoà giải với nhau
nhằm giải quyết nhanh chóng, dứt điểm vụ án, làm giảm đi những mâu thuẫn căng
thẳng, giảm phí tổn, thời gian trong quá trình tranh tụng, tiết kiệm tiền của cho các
bên tranh chấp.
4.5. Nguyên tắc Toà án giải quyết vụ án kinh tế nhanh chóng, kịp thời
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng rất năng động, linh hoạt
thời gian đối với các nhà kinh doanh có ý nghĩa sống còn. Do đó, khi có tranh chấp
phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các nhà kinh doanh cần ở các cơ quan giải quyết
tranh chấp không những giải quyết đúng pháp luật, thấu tình đạt lý mà còn phải
nhanh chóng kịp thời và dứt điểm tránh dây da kéo dài gây lãng phí thời gian và tiền
của. Bởi vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đợc quy định đơn giản
hơn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũng chính là nhằm mục đích giải
14
quyết nhanh chóng các vụ án kinh tế. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án
không cần qua giai đoạn điều tra thu thập, xác minh chứng cứ, hạn chế thấp nhất
việc quay vòng vụ án để xét xử nhiều lần. Nh vậy, với những quy định nh trên thì
nguyên tắc Toà án xét xử nhanh chóng, dứt điểm các vụ án kinh tế là một nguyên
tắc tiến bộ. Nếu đợc Toà án quán triệt sâu sắc trong hoạt động xét xử thì nó sẽ góp
phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền lợi của các nhà kinh doanh, hạn chế những
hậu quả không đáng có xảy ra cho họ.

4.6. Nguyên tắc Toà án xét xử công khai
Nguyên tắc Toà án tiến hành xét xử công khai là một nguyên tắc Hiến định
của Toà án. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân giám sát đợc công việc xét xử
của Toà án, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử đồng
thời đề cao trách nhiệm của ngời làm công tác xét xử. Qua việc xét xử công khai
này, Toà án có thể tuyên truyền giải thích pháp luật.
Tại phiên Toà các chứng cứ, tài liệu, mọi vật chứng của vụ án đều phải đợc
đọc, xem xét công khai. Nếu ngời tham gia tố tụng vắng mặt phiên Toà vẫn đợc tiến
hành thì phải đọc lời khai của họ trong hồ sơ vụ án...
Tuy nhiên khi xét xử các vụ án kinh tế, pháp luật cho phép Toà án đợc quyền
xét xử kín trong trờng hợp cần giữ bí mật Nhà nớc, hoặc giữ bí mật của đơng sự
theo yêu cầu chính đáng của họ. Đây là một nguyên tắc thể hiện tính mềm dẻo, linh
động của tố tụng kinh tế phù hợp với nhu cầu, tâm lý của các bên đơng sự. Bởi trong
nền kinh tế thị trờng mục đích hàng đầu của các nhà kinh doanh là lợi nhuận thì bí
mật trong kinh doanh ( bí mật nghề nghiệp, phát minh, sáng chế, giải pháp kỹ
thuật...) là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong chiến lợc phát triển và cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nhiều khi giá trị tranh chấp trong kinh doanh không thể so
sánh đợc với giá trị của bí mật kinh doanh và hệ quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp
không thể bảo vệ đợc quyền lợi của mình thông qua Toà án và họ sẽ tìm đến phơng
thức giải quyết tranh chấp kinh tế khác. Nh vậy sẽ làm ảnh hởng đến chính sách
quản lý kinh tế của Nhà nớc bằng pháp luật.
ở đây Toà án là ngời có thẩm quyền trong việc quyết định đa vụ án ra xét xử
công khai hay xét xử kín.
15
5. Thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp
kinh tế
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân đ-
ợc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 28/12/1993, Toà kinh tế là một
Toà chuyên trách nằm trong hệ thống Toà án nhân dân đợc tổ chức ở cấp Toà án
nhân dân tỉnh và Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

kinh tế và bắt đầu hoạt động từ ngày 01/07/1994
Nếu căn cứ theo vụ việc thì theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/03/1994 thì Toà kinh tế có thẩm quyền xét xử
các vụ án kinh tế sau đây:
Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Các tranh chấp giữa Công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động và giải thể công ty.
Các tranh chấp liên qua đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Nếu căn cứ theo cấp xét xử (Thẩm quyền theo cấp) thì theo quy định của
Luật sửa đổi, bổ sung của Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh giải quyết các
vụ án kinh tế, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của các Toà án đợc quy
định nh sau:
- Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh.Toà án cấp
huyện nơi không có Toà kinh tế với tính cách là một Toà chuyên trách có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp về hợp đồng
kinh tế mà giá trị tranh chấp dới 50 triệu đồng và không có nhân tố nớc
ngoài.
- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng xét xử theo thủ tục
sơ thẩm các tranh chấp kinh tế nói tại Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế và theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp
16
tháng 12/1993. Trong trờng hợp cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án cấp huyện.
Cũng theo sự phân cấp, Toà án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh tế mà
bản án, quyết định sơ thẩm cha có hiệu lực của Toà án cấp huyện bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.

Đối với những bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện bị
kháng nghị thì Uỷ ban thẩm phán của Toà án cấp tỉnh xem xét và giải quyết theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
- Thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao
+ Toà phúc thẩm tiến hành phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ
thẩm của Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và
giải quyết các khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh liên quan
đến việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật trên cơ sở thẩm quyền theo cấp và theo vụ việc đã đợc quy định.
+ Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những
vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng. Điều đáng phân biệt là Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao không
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm nh Toà dân sự và Toà hình sự
thuộc Toà án nhân dân tối cao.
+ Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét
theo trình tự giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dới.
Ngoài ra phạm vi thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp
kinh tế còn có thể dựa trên sự lựa chọn của nguyên đơn. Cụ thể nguyên đơn có
quyền lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án trong các trờng hợp sau:
17
Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi c trú của bị đơn thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi c trú cuối cùng của bị
đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi
nhánh đó giải quyết vụ án.
Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế thì nguyên đơn có thể
yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án.
Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi c khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu

cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi c trú của một trong các bị
đơn giải quyết vụ án.
Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Toà án ở một trong các nơi đó giải quyết vụ án.
6. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án nhân dân
Đây là các giai đoạn trong hoạt động tố tụng của Toà án để giải quyết các vụ
án kinh tế. Giới hạn trong phần viết này, chúng tôi chỉ nêu những nội dung đợc coi
là cơ bản dựa trên cơ sở Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đợc Uỷ ban
thờng vụ Quốc hội thông qua ngày 16/03/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/07/1994.
6.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh tế
Quyền khởi kiện vụ án kinh tế
Theo quy định của Điều 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế:
Các cá nhân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ
án kinh tế để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời kinh doanh bị tranh chấp hoặc bị xâm phạm, ng-
ời kinh doanh (cá nhân, pháp nhân) có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp đó theo một thủ tục do pháp luật quy định. Quyền đó đợc gọi là quyền
khởi kiện vụ án kinh tế.
18
Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là quyền tố tụng đầu tiên của cá nhân hoặc
pháp nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế.
Các cơ quan Nhà nớc (nh Viện kiểm sát) không có quyền này. Có thể nói chủ
thể thực hiện quyền khởi kiện trong tố tụng kinh tế hẹp hơn chủ thể thực hiện quyền
này trong tố tụng dân sự.
Thời hạn khởi kiện vụ án kinh tế là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp
trừ những trờng hợp pháp luật có quy định khác.
Theo quy định tại Điều 31 - khoản 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế thì nội dung của đơn kiện gồm:
- Ngày, tháng, năm viết đơn
- Toà án đợc yêu cầu giải quyết vụ án

- Tên nguyên đơn, bị đơn
- Tóm tắt nội dung tranh chấp, trị giá tranh chấp
- Quá trình thơng lợng của các bên
- Yêu cầu đề nghị Toà án xem xét giải quyết.
Đơn kiện phải có chữ ký của nguyên đơn hoặc ngời đại diện của nguyên đơn.
Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu của nguyên
đơn.
Thụ lý vụ án kinh tế
Thụ lý vụ án kinh tế là việc Toà kinh tế Toà án nhân dân chấp nhận đơn của
ngời khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của Toà án. Thụ lý vụ án có ý nghĩa pháp lý
quan trọng vì nó đặt ra cho Toà án trách nhiệm giải quyết vụ án.
Điều 33-Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định:
Nếu Toà án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì thông báo ngay
cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận đợc thông báo nguyên
đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Toà án vào sổ thụ
lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí.
Toà án sẽ thụ lý vụ án với điều kiện nh sau:
19
- Ngời khởi kiện có quyền khởi kiện
- Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
- Đơn kiện đợc gửi đúng thời hiệu khởi kiện
- Nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí
- Sự việc cha đợc giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp
luật của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.
- Sự việc không đợc các bên thoả thuận trớc là phải giải quyết theo thủ tục
trọng tài.
6.2. Chuẩn bị xét xử
Sau khi thụ lý vụ án, Toà kinh tế phải tiến hành chuẩn bị xét xử. Chuẩn bị xét
xử là một bớc quan trọng trong quá trình tố tụng vì nó quyết định đến chất lợng xét
xử tại phiên toà sau này.

Thời hạn chuẩn bị xét xử là 40 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các vụ
án phức tạp, thời hạn có thể kéo dài nhng không quá 60 ngày (Điều 34 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế).
Trong công tác chuẩn bị xét xử, Toà kinh tế phải tiến hành các công việc sau:
Thứ nhất: Toà án phải thông báo cho bị đơn và những ngời có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý
vụ án. Những ngời đợc thông báo có nghĩa vụ phải gửi cho Toà án ý kiến của mình
bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án
cho Toà án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đợc thông báo.
Thứ hai: Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Trong tố tụng kinh
tế mặc dù nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đơng sự, toà án không có nghĩa vụ
điều tra. Nhng để việc giải quyết vụ án đợc nhanh chóng khách quan, đúng pháp
luật thì Toà án có thể thực hiện quyền xác minh và thu thập chứng cứ.
Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/03/1994 quy
định: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xét thấy cần thiết Toà án có thể tiến
20
hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm
sáng tỏ các tình tiết của vụ án.
Thứ ba: Toà án tiến hành hoà giải để các đơng sự có thể thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Việc hoà giải vụ án tranh chấp kinh tế có thể tiến hành ở
bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế. Hoà giải là một thủ
tục bắt buộc đối với Toà án. Toà án tiến hành hoà giải đối với tất cả các vụ án kinh
tế.
Để tiến hành hoà giải, Toà án triệu tập tất cả nguyên đơn, bị đơn, ngời có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến Toà án, những ngời này phải có mặt khi hoà
giải.
Nếu các đơng sự thoả thuận đợc với nhau về việc giải quyết vụ án, thì Toà án
lập biên bản hoà giải thành và trên cơ sở đó ra quyết định công nhận sự thoả thuận
của đơng sự. Quyết định này có hiệu lực ngay sau khi tuyên và việc giải quyết vụ án
kinh tế đợc kết thúc tại đây.

Trong trờng hợp các bên không thể thoả thuận đợc với nhau thì Toà án lập
biên bản hoà giải không thành và quyết định đa vụ án ra xét xử.
6.3. Phiên toà sơ thẩm
Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định
đa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trờng hợp có lý do chính đáng
thì thời hạn đó không quá 20 ngày.
Phiên toà sơ thẩm đợc tiến hành dới sự điều khiển của một Hội đồng xét xử
gồm hai thẩm phán và một hội thẩm. Nh vậy, trong Hội đồng xét xử sở thẩm các vụ
án kinh tế, số lợng thành viên là thẩm phán chiếm đa số. Điều này hoàn toàn khác
với Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự (Hội đồng xét xử vụ án dân sự có một
thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân) - Khoản 2, Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế, khoản 1 Điều 16 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự.
21
Phiên toà đợc tiến hành dới sự có mặt của các đơng sự, ngời làm chứng, ngời
phiên dịch, ngời giám định và kiểm sát viên (nếu Viện kiểm sát có yêu cầu tham gia
phiên toà).
Phiên toà bị hoãn nếu:
- Đơng sự vắng mặt mà cần đợc lấy lời khai hoặc xác minh lại lời khai tại
phiên toà.
- Thành viên Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, th ký phiên toà, ngời giám
định, ngời phiên dịch bị thay đổi mà không có ngời thay thế.
Trong trờng hợp đơng sự yêu cầu xét xử vắng mặt họ hoặc đơng sự không
phải là nguyên đơn đã đợc triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc xét
xử vẫn đợc tiến hành.
Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm đợc pháp luật quy định cụ thể nh sau:
+ Thủ tục bắt đầu phiên toà
+ Thẩm vấn tại phiên toà
+ Tranh luận tại phiên toà
+ Thủ tục nghị án

+ Thủ tục tuyên án
+ Hoàn chỉnh biên bản phiên toà
+ Cấp trích lục bản sao bản án hoặc quyết định của Toà án.
6.4. Thủ tục phúc thẩm
Thủ tục phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án,
quyết định của Toà án cấp dới cha có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của pháp luật.
Việc tiến hành phúc thẩm các Bản án, quyết định cha có hiệu lực của Toà án
cấp dới nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm của Toà án trong các bản án, quyết
định đó. Thủ tục phúc thẩm đảm bảo về mặt tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đơng sự.
22
Thủ tục phúc thẩm còn tạo khả năng thuận lợi cho Toà án cấp trên kiểm tra
chất lợng xét xử của Toà án cấp dới cho phù hợp với pháp luật về thực tiễn khách
quan.
Chủ thể và khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị
- Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị là đơng sự hoặc ngời đại
diện của đơng sự có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Toà án, còn Viện tr-
ởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên có quyền kháng nghị bản án,
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.
Ngời kháng cáo phải làm đơn kháng cáo và gửi cho Toà án trong thời hạn
kháng cáo. Viện kiểm sát kháng nghị bằng một quyết định. Đơn kháng cáo và nội
dung kháng nghị phải nêu rõ lý do kháng cáo, kháng nghị; phần quyết định của Bản
án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu của ngời
kháng cáo, kháng nghị.
- Khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị là bản án và quyết định cha
có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên không phải tất cả các quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm đều là khách thể của kháng cáo, kháng nghị mà có
những quyết định không thể bị kháng cáo, kháng nghị (chẳng hạn quyết định đình
chỉ vụ án vì lý do ngời khởi kiện rút đơn).

Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị
- Thời hạn thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại Điều 61 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế:
+ Thời hạn kháng cáo là 10 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết
định.
Trờng hợp đơng sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bản sao bản án,
quyết định đợc giao cho họ hoặc đợc niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phờng,
thị trấn nơi họ có trụ sở hoặc c trú.
+ Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, của Viện
kiểm sát cấp trên là 20 ngày kể từ ngày Toà tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu Kiểm
23
sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm
sát cùng cấp nhận đợc bản sao bản án, quyết định.
Thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định nh vậy là đủ để đảm bảo thực hiện
quyền kháng cáo, kháng nghị. Quá thời hạn quy định mà không có kháng cáo,
kháng nghị thì mặc nhiên bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và phải đa ra thi
hành.
- Hậu quả pháp lý của kháng cáo, kháng nghị
Phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì cha có hiệu lực pháp
luật, phần bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp
luật (Điều 64 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế).
- Thủ tục kháng cáo, kháng nghị
Đơn kháng cáo, bản kháng nghị đợc gửi đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải
quyết vụ án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ngời kháng cáo xuất trình chứng từ về
việc nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, hoặc kể từ ngày nhận đợc kháng nghị Toà án
cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà
án phúc thẩm.
Phiên toà phúc thẩm
Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi

đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà xét xử. Thời hạn này có thể gia hạn
thêm nếu vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán.
Trớc khi mở phiên toà, Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo yêu cầu của đơng sự hoặc chủ động ra quyết định khẩn cấp tạm thời nếu
xét thấy cần thiết. Toà án cũng có thể tiến hành các biện pháp để xác minh, thu thập
chứng cứ... bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan.
Phiên toà phúc thẩm đợc tiến hành với sự có mặt của các thành phần sau:
- Đơng sự kháng cáo, ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị.
24
- Kiểm sát viên trong trờng hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc Viện kiểm
sát xét thấy cần thiết tham gia phiên toà phúc thẩm hoặc khi có yêu cầu
của Toà án.
Nếu đơng sự, ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị, Kiểm sát viên vắng mặt không có lý do chính đáng thì phiên toà phúc thẩm
vẫn tiến hành.
Về mặt thủ tục phiên toà phúc thẩm đợc tiến hành giống nh phiên toà sơ
thẩm. Chỉ khác là khi xem xét kháng cáo, kháng nghị một thành viên của Hội đồng
xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng
cáo, kháng nghị.
Kết thúc phiên toà, Toà án có thể ra một trong các quyết định sau:
- Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm.
- Sửa đổi một phần hay toàn bộ quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm.
- Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử
lại.
- Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án có căn cứ tạm đình chỉ,
đình chỉ theo quy định của pháp luật.
Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau
khi tuyên bố. Bản sao bản án, quyết định phúc thẩm phải đợc gửi cho đơng sự, ngời

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 5 ngày
kể từ ngày ra bản án, quyết định.
6.5. Thủ tục xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định hai hình thức xét lại
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ
tục tái thẩm. Tuy cùng xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên
cơ sở có kháng nghị của ngời có thẩm quyền nhng giám đốc thẩm và tái thẩm là hai
giai đoạn độc lập của tố tụng kinh tế.
6.5.1. Thủ tục giám đốc thẩm
25

×