Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.03 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÀNG THỊ HOA

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÀNG THỊ HOA

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành:



Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số:

60380103

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Bùi Thị Huyền

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận, số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

Giàng Thị Hoa

TS. Bùi Thị Huyền



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến giảng viên,
TS. Bùi Thị Huyền, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn
thiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy, Cô đã giảng dạy Lớp
Cao học Tây Bắc đã truyền đạt kiến thức, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập,
nghiên cứu tại trường và trong suốt thời gian hoàn thành luận văn của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Giàng Thị Hoa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS năm 1995

Bộ luật dân sự năm 1995

BLDS năm 2005


Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS năm 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS năm 2004

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004

BLTTDS năm 2011

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa
đổi, bổ sung năm 2011

BLTTDS năm 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động năm 1996

PLTTGQCVADS


Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

Tòa án

Toà án nhân dân

Viện kiểm sát

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VVDS

Vụ việc dân sự



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...............................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự..........................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm ..................................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm .................................................................................................10
1.2. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự ............................................................................................................12
1.2.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước .......12
1.2.2. Việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của đương sự ảnh hưởng đến quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân.......................................................14
1.2.3. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án...................................................15
1.3. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ .................................................................15
1.3.1 Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân
dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959 .....................................15
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
giai đoạn từ 1960 đến 1988 ...............................................................................17
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
từ năm 1989 đến trước năm 2004 .....................................................................18
Kết luận Chương 1 ...................................................................................................22
Chương 2 NỘI DUNG CỦA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ ................................................................................................23
2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trước khi thụ lý và chuẩn
bị giải quyết vụ việc dân sự ..................................................................................23
2.1.1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án ......................................23

2.1.2. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự ........................................................25


2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát việc lập
hồ sơ vụ việc dân sự ..........................................................................................28
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi tham gia phiên tòa sơ
thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự ................................................................29
2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa sơ thẩm ..... 29
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên họp sơ thẩm .... 40
2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kháng nghị bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm .41
2.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kháng nghị
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật ..................................................41
2.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn chuẩn
bị tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm .....................................................43
2.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa,
phiên họp phúc thẩm .........................................................................................44
2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát nhân dân ...46
2.4.1. Nhiệm vụ, quyền hạn kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Viện kiểm sát nhân dân .......................................................................46
2.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện
kiểm sát nhân dân..............................................................................................48
2.5. Nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân ................................................................................................................49
2.5.1. Nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân
dân .....................................................................................................................49
2.5.2. Nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện quyền kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân ............................................................................................................50
Kết luận Chương 2 ...................................................................................................52

Chương 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI TỈNH
ĐIỆN BIÊN ..............................................................................................................53


3.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên ..........................................................................53
3.1.1. Những kết quả đạt được ..........................................................................53
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên .64
3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ...................................................64
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên ......................69
Kết luận Chương 3 ...................................................................................................71
KẾT LUẬN ..................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... .73


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân (Viện kiểm sát) có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng
trong tố tụng dân sự trên phương diện lý luận và thực tiễn. Pháp luật về Viện kiểm sát
trong tố tụng dân Việt Nam đã hình thành và phát triển hơn 60 năm kể từ khi thành
lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay. Bước sang thế kỳ thứ XXI, tiến trình
cải cách tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong lĩnh vực dân sự đã được tiến

hành ngày càng sâu rộng.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 trong đó xác định rõ: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện Công
tố”. Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng tiếp tục
khẳng định: “Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn
như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu
chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong
hoạt động điều tra”. Như vậy, những Nghị quyết nêu trên đã chỉ rõ đổi mới tổ chức
và hoạt động của Viện kiểm sát nói chung cũng như nâng cao vị trí, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nói riêng trong tố tụng dân sự là một trong những nhiệm vụ
quan trọng cần được thực hiện, đáp ứng đường lối, chiến lược cải cách tư pháp của
nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
kinh tế, lao động trước đây thì Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp
luật hầu hết các vụ việc dân sự nhưng tại Điều 21 BLTTDS năm 2004 hạn chế phạm
vi tham gia phiên toà của Viện kiểm sát đối với vụ án dân sự.
BLTTDS năm 2004 quy định Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đối với những vụ
án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, tham gia các phiên
họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án; các vụ việc dân sự mà
Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án dựa trên quan điểm tôn trọng


2

quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tố tụng dân sự. Thực tiễn thi hành
BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định của BLTTDS về sự tham gia của Viện kiểm sát

trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Sự hạn chế này là một rào cản
cho Viện kiểm sát thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của
Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trong khi đó, trình độ hiểu biết
pháp luật của người dân còn thấp, việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân trước Tòa án gặp nhiều khó khăn. Khi có tranh chấp, phần đông
người dân không có điều kiện để mời Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình. Bên cạnh đó, chất lượng và số lượng đội ngũ Luật sư hiện nay còn hạn chế, chưa
đáp ứng được nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý ngày càng cao của người dân khi được
yêu cầu. Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 (BLTTDS năm 2011)
đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự tạo
điều kiện để Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy
nhiên, BLTTDS năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực
kể từ ngày 01/7/2016 thì nhiệm vụ quyền hạn của Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự
lại có sự thay đổi cho phù hợp Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Điện Biên là một tỉnh vùng núi, biên giới phía Tây Bắc của Tổ Quốc, gần 82%
dân số toàn tỉnh là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng cao, vùng sâu, biên giới; trình
độ dân trí và điều kiện kinh tế kém phát triển hơn rất nhiều so với các vùng đồng bằng
và thành phố lớn. Với đặc thù kinh tế, xã hội, văn hóa, địa lý tự nhiên như vậy, khi
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm muốn yêu cầu tòa án bảo vệ thì người dân ở
Điện Biên thường gặp nhiều khó khăn hơn. nên khi cần. Do đó, vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng
thực sự quan trọng trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của đương sự
khi tham gia giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chế định Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật nói
chung và theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nói riêng cần được nghiên cứu
hoàn thiện hơn nữa về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của VKSND trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên”
cho luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.



3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ tầm quan trọng của Viện kiểm sát trong thực tiễn giải quyết các vụ
việc dân sự, đã có nhiều công trình khoa học được công bố liên quan đến vị trí, vai trò
của Viện kiểm sát trong tố tung dân sự như: Các đề tài luận văn thạc sỹ, tiến sỹ, các
bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút
kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án... Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài nêu trên, có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp như: “Đổi
mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp năm
2008; “Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự”, đề
tài khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ ”Quá
trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách
tư pháp ở Việt Nam”của tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học
“Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn
thạc sĩ luật học ”Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành”, ”Nhận thức đúng thẩm quyền và trách
nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Khuất
Văn Nga đăng trên tạp chí Kiểm sát số 09 năm 2004;...
- Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm như:
“Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng VKSNDTC tại Hội nghị
sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự về thực hiện các quy định về quyền và
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số

18, tháng 9/2006; “Những kiến nghị từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004”, Tạp chí Kiểm sát số 18 tháng 9/2006;
“Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát số 13
tháng 3/2006; “Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; “Báo cáo tổng kết 5 năm


4

thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu
lực pháp luật đến ngày 31/5/2005” của VKSNDTC…
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên, tác giả có thể kế thừa
những quan điểm, lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát mà những tác
giả khác đã đề cập để phát triển và hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết
đã nêu chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự dưới góc độ của Luật nhà nước. Hoặc có công trình, bài viết
tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề mà tác giả luận văn lựa chọn nghiên cứu nhưng do
thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không còn tính thời sự về giá trị khoa học do chưa
cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay. Đặc biệt
là chưa có công trình nghiên cứu nào về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự qua thực tiễn thực hiện ở tỉnh Điện Biên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn về
tổ chức, hoạt động và vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự; đánh giá tính có
căn cứ và khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng. Đồng thời
luận văn đưa ra một số kiến nghị và đề xuất những giải pháp cơ bản để tiếp tục hoàn
thiện và phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên.

3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
- Làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên, từ đó
xác định những hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên trong thời gian tới; bảo đảm cho
việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật; bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân.


5

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật về
vị trí, vai trò chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự tại tỉnh Điện Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự; việc tổ chức thực hiện các quy định về vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên
quan đến các vấn đề nêu trên.
Do luận văn được thực hiện tại thời điểm BLTTDS năm 2011 vẫn đang có hiệu
lực pháp luật, BLTTDS năm 2015 đã được ban hành nhưng chưa có hiệu lực pháp
luật nên luận văn sẽ phân tích đánh giá các quy định của BLTTDS năm 2011, có so
sánh với BLTTDS năm 2015 và phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát Việt Nam trong tố tụng dân sự của ngành Kiểm sát tỉnh

Điện Biên (theo số liệu từ năm 2010 đến nay). Trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn, tác giả chỉ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc
kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án1.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật;
đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức hoạt động
của Viện kiểm sát trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ- TƯ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và
những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa
học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp
luật, chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý
luận và thực tiễn.

1

Ở Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, tố tụng
dân sự, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Quan điểm khác cho
rằng, tố tụng dân sự chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.


6

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, tổ chức,
hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay ở Việt Nam.

- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát tại địa bàn tỉnh Điện Biên
- Đề xuất những phương hướng cơ bản về đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn quá trình tiếp tục đổi mới
vị trí, vai trò và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự.
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại
tỉnh Điện Biện nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án
khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà
khoa học, những người làm công tác thực tiễn tại tỉnh Điện Biên; đồng thời có thể
được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 2. Nội dung quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Chương 3. Thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật, tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự tại tỉnh Điện Biên.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm
Hiến pháp năm 2013 và BLTTDS năm 2011 (từ 01/01/2016 là BLTTDS năm
2015) đã khẳng định, Viện kiểm sát là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Các hoạt động tố tụng dân sự của những người
tiến hành tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng kiểm
sát của Viện kiểm sát. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là giám
sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành
và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ, việc dân sự của
chủ thể tiến hành tố tụng và đây là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, một
trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân. Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham
gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện
theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý
do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan,
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Chức năng này của Viện
kiểm sát nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý được quy định trong
BLTTDS năm 2011, Nhà nước trao cho Viện kiểm sát những nhiệm vụ, quyền hạn
nhất định.
Trong khoa học pháp lý “thẩm quyền”, “nhiệm vụ” và “nghĩa vụ” là các khái
niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết
định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định 2. Khái
2


Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách Khoa- NXB tư pháp, Hà Nội (trang 459)


8

niệm “thẩm quyền” bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết
định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước. Quyền hành động là quyền được
làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công
việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). “Nghĩa vụ” là
việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không
thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Thuật ngữ “nhiệm vụ” được hiểu là
“công việc phải làm, gách vác”3 hay “công việc phải làm vì một mục đích và trong
một thời gian nhất định”4. Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là công
việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ
thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được
pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy
định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ
quan Viện kiểm sát là những hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát trong một thời gian
nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện
nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do
Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, BLTTDS và các văn bản pháp luật khác mà Viện kiểm sát phải thực hiện
bằng những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh chóng,
khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời;
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và đúng
pháp luật;
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời.
Như vậy, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là những công việc
cụ thể do pháp luật quy định của Viện kiểm sát trong các giai đoạn khác nhau của
quá trình tố tụng các vụ việc dân sự nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự.

3
4

Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh năm 2010.
Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng – Hà Nội, Đà Nẵng năm 2006.


9

Còn về khái niệm “quyền hạn” được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho
phép5. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được
xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và
trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật 6. Quyền
hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý,
quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước hoặc của người
có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền
quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức.
Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải
quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền
của chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận hoặc
do pháp luật quy định.
Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ
chặt chẽ. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng
mà BLTTDS quy định vì không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ thì

tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không chính xác. Nhiệm vụ
của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự được xác định bắt buộc trong những trường
hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS năm 2011 (Điều 21 BLTTDS năm 2015).
Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện với
một chủ thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất. Pháp luật
quy định nhiệm vụ của Viện kiểm sát phải thực hiện những công việc gì, đồng
nghĩa là pháp luật trao cho Viện kiểm sát những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ
đó. Hiện tại, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nói chung được quy định
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố
tụng dân sự qua các thời kỳ.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là quyền quyết
định thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự.

5

Nguyễn Như Ý và đ.t.g (1999), Đại từ điển Tiếng Việt (1999), NXb Văn hóa- thông tin- Trung tâm ngôn ngữ
và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục đào tạo (tr 1384)
6
Từ điển Luật học (2006), NXB Từ điển Bách khoa- Nxb tư pháp, Hà Nội (trang 651).


10

1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát do pháp luật quy định. Nếu
Viện kiểm sát không thực hiện hoặc thực hiện những hoạt động nằm ngoài quy định
của pháp luật thì sẽ phải chịu những chế tài nhất định. Đây chính là nội dung trong
nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ

quan nhà nước, của tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của
công dân, trong đó có Viện kiểm sát các cấp. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động
của Viện kiểm sát phải được luật điều chỉnh chặt chẽ, cụ thể và các quy định của pháp
luật phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Sự tuân thủ của Viện
kiểm sát là sự tuân thủ thường xuyên, nhất quán. Trong trường hợp có sự vi phạm
pháp luật, Viện kiểm sát có trách nhiệm phải áp dụng biện pháp để khắc phục vi
phạm đó.
Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ việc dân sự khách quan, công bằng, đúng
pháp luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát, Viện trưởng Viện
kiểm sát và các Kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề
có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Theo Hiến pháp và những
quy định pháp luật hiện hành, Viện kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình,
Viện kiểm sát thực hiện quyền lực Nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các hoạt
động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn như
sau: kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết
vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có liên quan
đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn
bản trên của Tòa án có đúng quy định của BLTTDS hay không.
Thứ hai, những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là những
bảo đảm để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
hình thức và pháp luật nội dung của các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Mục đích của hoạt động kiểm sát này của Viện kiểm sát góp phần bảo đảm
tính đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. Là cơ quan tiến hành tố


11


tụng, song khác với Tòa án - chủ thể bắt buộc phải có trong mọi phiên tòa giải quyết
vụ, việc dân sự. Về mặt pháp lý, Viện kiểm sát chỉ tham gia một số hoạt động kiểm
sát như kiểm sát việc thụ lý, kiểm sát bản án ...và tham gia phiên tòa trong một số
trường hợp nhất định.
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án dân sự, kiểm sát viên đại
diện cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát mà pháp
luật tố tụng dân sự quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án,
người tham gia tố tụng, đặc biệt là trong trường hợp kiểm sát viên tham gia phiên tòa,
phiên họp dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự trong từng thời kỳ có những quy định khác
nhau về nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa, phiên họp giải
quyết vụ việc dân sự. So với Điều 21 BLTTDS 2011, Điều 21 BLTTDS 2004 và Điều
21 BLTTDS 2015 có sự mở rộng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên.
BLTTDS 2004 và BLTTDS 2015 đều quy định, kiểm sát viên không chỉ có nhiệm vụ,
quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng
và tham gia tố tụng mà có quyền phát biểu ý kiến về nội dung giải quyết vụ án của
Tòa án7. Hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát vừa thể hiện sự giám sát, vừa thể hiện
sự hỗ trợ cùng Tòa án giải quyết vụ việc dân sự.
BLTTDS qua các thời kỳ và các văn bản quy phạm pháp luật đã khẳng định rõ
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát. Theo đó, Viện kiểm sát
vẫn là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát là
người tiến hành tố tụng. Được coi là cơ quan tiến hành tố tụng, song các quyền và
nghĩa vụ của Viện kiểm sát chủ yếu để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính
hợp pháp và có căn cứ trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát được thực hiện thông qua hoạt
động của kiểm sát viên và Viện trưởng Viện kiểm sát. Đứng đầu Viện kiểm sát là
Viện trưởng Viện kiểm sát. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, pháp luật
tố tụng quy định Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ
chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động

tố tụng dân sự; quyết định phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp
7

Xem Điều 234 BLTTDS năm 2004, Điều 262 BLTTDS năm 2015.


12

giải quyết việc dân sự; kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của
pháp luât; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định8. Kiểm sát viên là một trong
những người tiến hành tố tụng tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình
giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát
viên khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật, có nhiệm vụ,
quyền hạn như: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những
người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên
dịch...; kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án;…9
1.2. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
cần dựa vào những yếu tố như: Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát; tính chất của vụ, việc
dân sự; việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước
Trên thế giới, ở các nước khác nhau, theo hệ thống pháp luật khác nhau thì vị
trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước cũng khác nhau. Trong mô hình
của các nước theo hệ thống luật Anh- Mỹ (hệ thống common law), hệ thống cơ quan

công tố được tổ chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia vào các lĩnh vực hình sự 10. Các
công tố viên có thể được tuyển chọn theo từng vụ việc cụ thể. Mặc dù hiện nay tình
hình đã có nhiều thay đổi nhưng ở các nước này vẫn tồn tại một quan niệm: “Càng ít
có sự can thiệp của Nhà nước, càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng
vận hành có hiệu quả”. Theo pháp luật của những nước này (ví dụ: Đan Mạch, Thụy
Điển...) thì Viện công tố không có vai trò gì trong vụ án dân sự. Trong quá trình tố
tụng, các công tố viên không tham gia trong quá trình lập hồ sơ, xét xử, không có
quyền kháng nghị11...
8

Khoản 1 Điều 44 BLTTDS năm 2011.
Xem Điều 45 BLTTDS năm 2011.
10
Trang 11, Hội thảo pháp luật tố tụng dân sự, Nhà pháp luật Việt Pháp, năm 2000
11
Trang 35- Kỷ yếu Dự án về pháp luật tố tụng dân sự- Dự án VIE/95/017- Tăng cường năng lực xét xử tại
Việt Nam
9


13

Đối với các nước theo hệ thống luật lục địa (civil law) như Pháp, Việt Nam...
thì Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan công tố có vị trí, vai trò lớn trong lĩnh
vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thẩm quyền kháng nghị trong các thủ tục tố
tụng. Xuất phát từ vai trò được trao, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (hay Viện
kiểm sát) cũng lớn hơn. Tại Pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện công tố có hai
vai trò chính: thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương sự; thực hiện quyền yêu
cầu áp dụng pháp luật, với tư cách như một cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, Viện
công tố còn có một hình thức can thiệp thứ ba với vai trò là người đại diện cho các cơ

quan Nhà nước12.
Tại Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, Viện kiểm sát cũng có những vai trò
khác nhau. Trước năm 2004, vai trò của Viện kiểm sát trong lĩnh vực dân sự được mở
rộng. Theo đó, Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng giúp quá trình
kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự được sâu rộng. Đến năm 2004, vai trò tham gia
tố tụng của Viện kiểm sát bị hạn chế, đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của
Viện kiểm sát nhân dân. Trước yêu cầu của thực tiễn, từ các tranh chấp dân sự ngày
càng gia tăng và phức tạp trong khi việc xét xử của Tòa án còn nhiều sai sót cần có cơ
chế giám sát, kiểm tra, từ khi BLTTDS năm 2011 có hiệu lực từ 01/01/2012 đến nay,
vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự ở nước ta lại có những thay đổi theo
hướng tăng cường. Từ đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát cũng được bổ
sung nhất định theo hướng Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm trong một số
trường hợp theo quy định của pháp luật, đối với các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc
dân sự, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện kiểm sát
phải tham gia như một yêu cầu bắt buộc.
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của Viện kiểm sát hay Viện Công tố trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Ở Việt Nam, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tổ chức bộ máy nhà nước ở các giai
đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, khi xây dựng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự cần căn cứ vào chức năng của Viện kiểm sát
trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

12

Trang 149- 150, Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, TS Khuất
Văn Nga, Nhà xuất bản tư pháp năm 2008.


14


1.2.2. Việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của đương sự ảnh hưởng đến quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các
đương sự. Mục đích trực tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi ích tư của các
đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự là trao
quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng
chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ
không thay mặt cho đương sự quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố
tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện. Việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự. Mọi
cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải quyết tranh chấp dân sự
miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những biện pháp giải quyết tranh
chấp thay thế như hòa giải, thương lượng, trọng tài đều được khuyến khích. Trong
trường hợp không thỏa mãn với những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Trong suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc phiên
tòa, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút bớt hay bãi bỏ yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính chất tranh tụng tại phiên tòa, việc thực hiện nguyên tắc
này cũng có những ngoại lệ nhất định, đó là trường hợp đương sự không thể tự ý thay
đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà
vượt quá giới hạn đã khởi kiện ban đầu. Vì thế vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự có sự khác biệt với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị
cáo trong pháp luật tố tụng hình sự khi giải quyết quan hệ giữa một bên là Nhà nước,
đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội
Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội dung, hình
thức và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện

quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các quy định pháp luật hoặc không
tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm


15

có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó,
khi xây dựng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự như quyền khởi tố, kháng nghị, kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt
của đương sự.
1.2.3. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án
Số lượng các vụ việc dân sự mà ngành Tòa án thụ lý giải quyết ngày càng tăng
(Chẳng hạn, trong 3 năm 2011- 2013, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý tăng từ
88.758 vụ việc lên 111.873 vụ việc13). Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn
còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân sự: Tòa án cấp phúc thẩm sửa 2.164 vụ
án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới; hủy 1.424 vụ án do cấp sơ thẩm
sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án,
quyết định của Tòa án cấp dưới14) . Số liệu này là chưa tính đến khả năng còn có
những bản án, quyết định của Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Xuất
phát từ tình hình thực tiễn, cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát việc ra bản án, quyết
định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong khi đó hoạt động giám sát từ phía các
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người
dân chưa cao (đặc biệt là một bộ phận người dân như người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất, tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự
tham gia vào quá trình tố tụng dân sự của Viện kiểm sát vẫn cần thiết trong giai
đoạn hiện nay. Hơn nữa, về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là
thuộc về các đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ
dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ
quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Do

đó, để đảm bảo tính khách quan, đại diện Viện kiểm sát cần tham gia phiên tòa để
kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Tòa án.
1.3. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ
1.3.1 Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát
nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngay từ sau cách mạng tháng Tám thành công, để xây dựng và củng cố chính
quyền cách mạng non trẻ, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quy
13

Theo Báo cáo số 14/BC-TA ngày 30/8/2011 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa
án tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII
14
Theo Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội
khóa XIII


16

định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật Nhà nước ta trong
giai đoạn này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của công tố viên trong tố
tụng dân sự như sau: Trong cuộc cải cách tư pháp ở nước ta lần đầu: Sắc lệnh số 13
ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa và các ngạch thẩm phán theo quy định thẩm phán
được chia thành hai ngạch: sơ cấp và nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch đệ nhị
cấp được chia thành hai loại: thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Công tố viện
lúc đó được ra đời ở Tòa thượng thẩm và chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp,
đứng đầu Công tố viện là Chưởng lý. Cơ quan công tố không được thành lập ở tòa đệ
nhị mà chỉ có cán bộ làm công tác biện lý. Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội
đã hợp thành một bộ phận độc lập và chịu sự lãnh đạo của Chưởng lý. Khi tham gia
phiên tòa, “Biện lý ngồi ghế Công tố viên”. Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 còn

quy định: “Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ là nhân viên
của Công tố viện do Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định”. Theo quy định của Sắc
lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì Công tố viện tham gia tố tụng dân sự với tư cách là
người thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh) và khởi tố vụ án dân sự (đứng là
Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Như vậy, Công tố viện bước đầu được hình thành và
nằm trong hệ thống của cơ quan Tòa án với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật và thực hành quyền công tố Nhà nước.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai được tiến hành từ đầu năm 1950;
trong giai đoạn này, Công tố viện được đặt dưới sự điều khiển của Ủy ban kháng
chiến hành chính, Công tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp. Phạm vi
hoạt động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện được mở rộng sang các vụ việc
dân sự.
Từ năm 1958 là công cuộc cải cách tư pháp lần thứ ba được diễn ra. Đây là
giai đoạn giao thời, quyết định cho việc chuyển Công tố viện thành Viện kiểm sát
nhân dân, một hình thức hoàn thiện hơn, đáp ứng như cầu mới của Cách mạng trong
những năm tiếp theo. Trong tố tụng dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP ngày
5/6/1958 của Bộ tư pháp về việc đơn giản một số thủ tục ở phiên tòa quy định rõ hơn
về quyền khởi tố và tham gia tố tụng của Công tố viện có hướng dẫn như sau: “… về
việc dân sự, Công tố viện có nhiệm vụ khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ
án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích Nhà nước của nhân dân. Còn đối với
những vụ án dân sự thường thì Công tố viện không cần phải tham dự phiên tòa”.


17

Như vậy, trong giai đoạn này, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã
được quy định tương đối đầy đủ, khẳng định được vị trí và vai trò của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự; là cơ sở cho sự kế thừa và phát triển cho việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam sau này.
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân

sự giai đoạn từ 1960 đến 1988
Sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức được chuyển thành
Viện kiểm sát, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến
địa phương và không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa
phương. Ngoài chức năng công tố, Viện kiểm sát còn được giao chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ thống các Tòa án.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể
tại các Điều 17, 18 và 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 1960. Theo quy định tại các
điều trên thì VKSNDTC và các Viện kiểm sát địa phương có quyền:
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan
đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân;
- Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án cùng cấp và
cấp dưới một cấp;
- Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của Tòa án.
Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị và Viện kiểm sát địa phương
thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp mình
hoặc cấp dưới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để kháng nghị.
Ngày 13/7/1981, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Điều 3 và Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 quy định cụ thể
các hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án như tham gia tố tụng tại phiên tòa;
kháng nghị các bản án quyết định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp khởi tố những vụ án dân
sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính
đáng của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản pháp luật nào



×