Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quyền con người về môi trường và việc bảo đảm thực hiện ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ THANH HÀ

QUYỀN CON NGƢỜI VỀ MÔI TRƢỜNG
VÀ VIỆC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ QUANG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Thị Thanh Hà



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chƣơng 1: LÝ LUẬN QUYỀN CON NGƢỜI VỀ MÔI TRƢỜNG .......... 7
1.1.

Khái niệm quyền con ngƣời về môi trƣờng ..................................... 7

1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền con người ........................ 7
1.1.2. Mối quan hệ và khái niệm quyền con người về môi trường ................ 9
1.1.3.

Cơ sở pháp lý xây dựng và thực thi quyền con người về môi trường ....... 13

1.2.

Một số nhận thức của quyền con ngƣời về môi trƣờng ................ 16

1.2.1. Huy động và sử dụng các quyền đang tồn tại .................................... 17
1.2.2. Giải thích lại các quyền hiện có ......................................................... 17
1.2.3. Xây dựng các quyền mới về môi trường ............................................ 18
1.3.

Các nguyên tắc đảm bảo thực hiện quyền con người về

môi trường ....................................................................................... 20

1.4.

Nội dung của quyền con ngƣời về môi trƣờng .............................. 21

1.4.1. Quyền được sống trong môi trường an toàn, trong lành .................... 22
1.4.2. Quyền con người về môi trường nước ............................................... 23
1.4.3. Quyền con người về môi trường đất .................................................. 25
1.4.4.

Quyền con người trong tiếp cận thông tin, quyền tham gia vào các
quyết định, hoạt động bảo vệ môi trường, quyền tiếp cận tư pháp về
môi trường ........................................................................................... 29

1.5.

Cơ chế bảo đảm thực thi quyền con ngƣời về môi trƣờng ........... 32


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
CON NGƢỜI VỀ MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM........................ 34
2.1.

Thực trạng môi trƣờng Việt Nam................................................... 34

2.1.1. Môi trường nước ................................................................................ 36
2.1.2. Môi trường đất.................................................................................... 42
2.1.3. Môi trường không khí ........................................................................ 45
2.2.


Thực trạng pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền
con ngƣời về môi trƣờng.................................................................. 48

2.2.1. Pháp luật bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường
an toàn, trong lành .............................................................................. 48
2.2.2. Pháp luật bảo đảm quyền con người về môi trường nước ................. 53
2.2.3. Pháp luật bảo đảm quyền con người về môi trường đất .................... 55
2.2.4. Pháp luật bảo đảm quyền con người về môi trường không khí ......... 59
2.2.5.

Pháp luật bảo đảm quyền con người khi tiếp cận thông tin về môi trường ... 66

2.2.6. Pháp luật bảo đảm quyền con người khi tham gia vào các quyết
định, hoạt động bảo vệ môi trường .................................................... 70
2.2.7. Pháp luật bảo đảm quyền con người khi tiếp cận tư pháp về
môi trường ......................................................................................... 72
2.3.

Thực trạng tổ chức bộ máy bảo đảm quyền con ngƣời về môi
trƣờng ở Việt Nam ........................................................................... 74

2.3.1. Hệ thống các cơ quan lập pháp, tư pháp ............................................ 75
2.3.2. Hệ thống cơ quan hành pháp .............................................................. 78
2.3.3. Đánh giá chung................................................................................... 89
2.4.

Nguyên nhân của thực trạng pháp luật và tổ chức bộ máy
bảo đảm quyền con ngƣời về môi trƣờng ...................................... 91


Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI VỀ MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM........................ 97


3.1.

Thúc đẩy quyền con ngƣời đƣợc sống trong môi trƣờng an
toàn, trong lành ................................................................................ 97

3.2.

Thúc đẩy quyền con ngƣời về môi trƣờng nƣớc ......................... 101

3.3.

Thúc đẩy quyền con ngƣời về môi trƣờng đất ............................ 104

3.4.

Thúc đẩy quyền con ngƣời về môi trƣờng không khí ................. 107

3.5.

Thúc đẩy quyền con người khi tiếp cận thông tin về môi trường... 109

3.6.

Thúc đẩy quyền con ngƣời khi tham gia vào các quyết định,
hoạt động bảo vệ môi trƣờng ........................................................ 111


3.7.

Thúc đẩy quyền con người khi tiếp cận tư pháp về môi trường ........ 112

KẾT LUẬN .................................................................................................. 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 117


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

TAI

Liên minh về Tiếp cận môi trường

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
“Con người là trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển lâu
dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích và lành mạnh,
hài hòa với thiên nhiên” [20, tr.12].
Môi trường với những vấn đề như sự nóng lên của trái đất, băng tan,
hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường tuy là những vấn đề mang tầm vĩ mô
nhưng lại có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự sống của con người.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI cộng đồng thế giới đã
có nhiều nỗ lực nhằm gắn kết nội dung quyền con người với mục tiêu phát
triển, hay nói cách khác, các giới chức lãnh đạo đã thực sự quan ngại và dành
những quan tâm đặc biệt đến các quyền phát triển của con người, trong đó có
quyền sức khỏe tốt cả về thể lực và tinh thần, quyền được sống trong môi
trường trong lành…
Đối với Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thu hút đầu tư một mặt tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người lao động, tuy nhiên
kéo theo đó là sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Môi trường sống
bị xâm hại là biểu hiện trực tiếp của việc quyền con người về môi trường
đãng bị vi phạm.
Mặc dù quyền con người về môi trường là vấn đề cấp thiết nhưng vẫn
chưa thực sự có được cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.
Hầu như các cá nhân tổ chức đều chưa nhận thức được các quyền của mình đối
với môi trường, quyền được sống trong môi trường trong lành, các quyền thiết
yếu và quyền thủ tục về môi trường. Các quy định của pháp luật bảo vệ môi
trường còn chưa hoàn thiện. Trên phương diện khoa học, nội dung quyền con
người về môi trường cũng chưa nhận được sự quan tâm nghiên cứu nhất định.

1



Xuất phát từ tình hình thực tế đó, người viết đã lựa chọn hướng luận văn
đến quyền con người về môi trường với đề tài “Quyền con người về môi
trường và việc bảo đảm thực hiện ở Việt Nam” nhằm đưa ra những thông tin cơ
bản về quyền con người đối với môi trường làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc hơn cũng như phục vụ công tác
xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
nước về việc bảo đảm quyền con người đối với môi trường trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Môi trường là vấn đề không mới và đã được rất nhiều nhà khoa học với
nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên hầu hết
các nghiên cứu, luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp, các bài viết chủ yếu
tập trung nghiên cứu môi trường trong mối quan hệ với pháp luật và kinh tế.
Có thể thấy rằng, đánh giá môi trường trong mối liên hệ với quyền con người
vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ ở Việt Nam, chỉ có một số bài viết, tham luận,
nghiên cứu khoa học, tài liệu tập huấn tại một số hội thảo khoa học, tài liệu
chung về vấn đề này, trong đó những công trình tiêu biểu có thể kể như sau:
- Mấy góp ý về quyền được sống trong môi trường trong lành trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 6/2013, tr.12-18.
- Về quyền được sống trong môi trường trong lành ở Việt Nam hiện
nay, Th.S Bùi Đức Hiển, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số
11/2011, tr.22-28.
- Một số vấn đề cơ bản về quyền con người với môi trường và điều kiện
đảm bảo thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 vì mục tiêu phát triển con
người, Đào Thị Minh Hương, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Nghiên cứu con
người, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội - 2012.
- Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ góc độ quan hệ

2



giữa phát triển kinh tế và môi trường, Trần Quang Tuynh, Tạp chí Triết học,
Viện triết học, số 9 (256)/2012, tr.45-50.
- Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường, TS. Nguyễn Đức Thùy chủ
biên, Tài liệu tập huấn của IUCN Việt Nam, Hà Nội-2012.
- Môi trường với quyền con người và quyền con người trong bảo vệ
môi trường ở Việt Nam, Ths. Phạm Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số
172, tr.18-25.
- Một số vấn đề bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực môi trường hiện
nay ở Việt Nam, Ths. Phạm Thị Tính, Tạp chí nghiên cứu con người số 6 (45),
2009, tr.18-25.
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin
về quyền con người trong mối liên hệ với môi trường, tuy nhiên, chưa có
công trình nào phân tích một cách toàn diện liên quan đến quyền con người
về môi trường theo pháp luật và thực trạng việc bảo đảm thực hiện nội
dung các quyền đó ở Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu về quyền con
người về môi trường và việc bảo đảm thực hiện ở Việt Nam cũng là một đề
tài mang tính mới về nội dung, cách tiếp cận vấn đề và có ý nghĩa nhất định
cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Mục đích của luận văn này là phân tích những nội dung thực tiễn quyền
con người về môi trường được quy định trong các điều ước quốc tế, là những
quyền con người về môi trường đang được khoa học pháp lý quốc tế công
nhận; phân tích thực trạng môi trường sống tập trung vào đánh giá tình hình
môi trường không khí, nước và đất ở Việt Nam, phân tích và đánh giá các quy
định của pháp luật ghi nhận quyền con người về môi trường cũng như việc
bảo đảm thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những kiến


3


nghị đề xuất trong việc ban hành chính sách, văn bản pháp luật ở nước ta
trong thời gian tới và các biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc
bảo đảm thực hiện quyền con người về môi trường ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu cụ thể nêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các
mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của quyền con người đặc biệt là
quyền con người đối với môi trường. Phân tích làm rõ các nội dung về quyền
con người đối với môi trường được quy định như thế nào trong các văn kiện,
điều ước quốc tế và một số ghi nhận về quyền con người đối với môi trường
tiêu biểu của một số nước trên thế giới.
- Luận văn tập trung phân tích thực trạng môi trường qua các số liệu
nhằm đánh giá tình hình, mức độ ô nhiễm môi trường hiện nay. Các số liệu
tập trung chủ yếu vào môi trường không khí, đất, nước gắn trực tiếp với sức
khỏe và đời sống con người. Thông qua những đánh giá tác động, mức độ ô
nhiễm môi trường cho thấy mức độ bị ảnh hưởng quyền của con người đối
với quyền được sống trong môi trường lành mạnh ở Việt Nam hiện nay.
- Người viết cũng đi sâu tìm hiểu các nội dung của Hiến pháp, Luật
Bảo vệ môi trường, Luật đất đai, Luật tài nguyên nước, các văn bản pháp
luật có liên quan và phân tích các nội dung có quy định liên quan đến
quyền con người đối với môi trường và các cơ chế để bảo đảm quyền đó
trong thực tiễn thi hành.
- Từ việc tìm hiểu và phân tích lý luận và thực tiễn về quyền con người
đối với môi trường và tình hình bảo đảm thực hiện quyền ở Việt Nam, người
viết cũng mạnh dạn đưa ra các đánh giá tổng quan và đề xuất các kiến nghị
nhằm nâng cao hơn nữa việc bảo đảm quyền và thực thi quyền con người về
môi trường trong pháp luật và thực tiễn ở nước ta hiện nay.


4


4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp đối
chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp chứng minh...
5. Điểm mới của luận văn
- Thứ nhất, các quyền cụ thể của con người vẫn đang là những lĩnh vực
khá mới mẻ. Trong luận văn này, vấn đề quyền con người về môi trường sẽ
được tìm hiểu, nghiên cứu theo hướng toàn diện cả về lý luận và đánh giá dựa
trên các số liệu thực tiễn.
- Thứ hai, cung cấp một cách chân thực và đánh giá khách quan đối với
tình hình môi trường sống ở Việt Nam hiện nay. Những số liệu về tình hình
môi trường không khí, nước, đất đai đều là những số liệu mang tính cập nhật,
chính xác và khoa học.
- Thứ ba, đánh giá toàn diện pháp luật Việt Nam về vấn đề quyền con
người đối về môi trường hiện hành, những tồn tại bất cập trong quá trình thực
thi bảo đảm quyền để thấy được sự cần thiết phải nâng cao việc bảo đảm thực
hiện quyền này đối với nhà nước, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Về lý luận:
+ Những thống kê phân tích của đề tài về nội dung quyền con người về
môi trường là nền tảng cơ bản, cung cấp thông tin cho đối tượng quan tâm và
tiếp tục nghiên cứu vấn đề này trong thời gian tới.
+ Luận văn cũng cung cấp các số liệu thu thập được từ các cơ quan làm
việc trong lĩnh vực môi trường chuyên ngành, đó là sự bổ sung thêm các

thông tin chính thống về tình hình môi trường ở Việt Nam hiện nay.

5


- Về thực tiễn:
+ Từ những nghiên cứu đánh giá về lý luận và thực tiễn, người viết đưa
ra các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm thực hiện quyền. Những đề
xuất của đề tài có thể được xem xét để áp dụng, thông tin mà đề tài cung cấp
cũng sẽ là cơ sở khoa học để các nhà lập pháp có hướng quan tâm, xem xét,
nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện
hành nhằm mục đích tiến tới hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về
đảm bảo quyền con người đối với môi trường, dần tiến tới đạt chuẩn mực
chung của thế giới.
+ Nội dung của đề tài cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình thực hiện các khóa luận, các bài tham luận, nghiên cứu khoa
học mang tính chuyên sâu hơn về một nội dung quyền con người về môi
trường. Đề tài cũng có thể được sử dụng tham khảo trong quá trình học và
giảng dạy đối với các vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận quyền con người về môi trường
Chương 2: Thực trạng việc bảo đảm thực hiện quyền con người về môi
trường ở Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị nâng cao việc bảo đảm quyền con người về môi
trường ở Việt Nam

6



Chương 1
LÝ LUẬN QUYỀN CON NGƢỜI VỀ MÔI TRƢỜNG
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời về môi trƣờng
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền con người
Từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng, các nhà chính trị đã đề cập rất nhiều
đến việc bảo vệ các giá trị, nhân phẩm của con người. Chúng ta có thể dễ
dàng tìm thấy tư tưởng này trong các văn bản pháp luật thời cổ đại thông qua
các quy định nhằm bảo vệ các quyền của thần dân, chống lại và trừng phạt
những hành vi xâm phạm đến quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền sở hữu
của con người. Ví dụ, trong Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780 TCN),
một trong những bộ luật cổ nhất và tiêu biểu nhất thời kỳ cổ đại quy định
những hình phạt vô cùng nghiêm khắc đối với tội vu khống người khác và các
tội xâm phạm quyền sở hữu. Tương tự, trong các tác phẩm của các tôn giáo
lớn trên thế giới như: Luận ngữ (đạo Nho), Kinh vệ đà của đạo Hin - đu, Kinh
phật, Kinh thánh, Kinh Ko-ran... đều thể hiện tấm lòng từ bi, yêu thương con
người, hướng con người tới lẽ phải, lòng vị tha, yêu thương đồng loại.
Tư tưởng về quyền con người đã được hình thành từ rất sớm trong lịch
sử nhân loại. Tuy nhiên, quyền con người là “quyền tự nhiên” hay “quyền
pháp lý” vẫn đang là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau.
Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên cho rằng con người là
một thực thể tự nhiên, là một loài động vật. Và theo lẽ tự nhiên, con người có
quyền bảo vệ bản thân và tài sản của mình. Các quyền này là những gì bẩm
sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng. Do vậy, các quyền này
tồn tại không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý
chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp hay nhà nước nào. Không một chủ
thể nào, kể cả nhà nước có thể ban phát hay tước bỏ các quyền tự nhiên này.

7



Tiêu biểu cho trường phái quan điểm này là các nhà triết học Thomas Hobbes
(1588 - 1679), John Locke (1632 - 1704), Thomas Paine (1731 - 1809)...
Ngược lại với thuyết tự nhiên, những người theo học thuyết quyền pháp
lý cho rằng quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có mà
phải được nhà nước thừa nhận và quy định trong các quy phạm pháp luật
(thành văn hoặc bất thành văn) hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Điều
này có nghĩa là quyền con người có thể bị giới hạn bởi ý chí của tầng lớp
thống trị và các yếu tố văn hóa, xã hội nhất định của mỗi quốc gia.
Như vậy, trái với quyền tự nhiên gắn với bản thân con người từ khi sinh
ra hoặc thậm chí khi còn là một bào thai trong bụng mẹ, quyền pháp lý do
pháp luật tạo ra. Một quyền hợp pháp có thể được tòa án bắt buộc phải thi
hành nếu bị vi phạm. Tiêu biểu cho những người ủng hộ quan điểm về quy tắc
pháp lý này là Edmund Burke (1729 - 1797), Jeremy Bentbam (1748-1832).
Tư tưởng về quyền con người thực sự trở thành vấn đề mang tính chất
toàn cầu và dần được thể chế hóa toàn diện, có tính hệ thống vào pháp luật và
đời sống chính trị quốc tế bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi các
tổ chức quốc tế lớn ra đời như: Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
(năm 1863), Hội Quốc Liên (1919), Tổ chức lao động Quốc tế (1919). Đặc
biệt, sau khi Liên Hợp Quốc ra đời năm 1945 và ban hành Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người năm 1948 thì vấn đề quyền con người đã trở thành
mục tiêu chung của cả nhân loại, là động lực đấu tranh của tất cả nhân dân
trên thế giới.
Trong Lời nói đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm
1948 có nhấn mạnh: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng
và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở
cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới” [14].
Thông qua Lời nói đầu của Tuyên ngôn, quyền con người được mặc

8



nhiên hiểu đó là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể chuyển nhượng
được của các cá nhân. Tuyên ngôn không đưa ra định nghĩa về quyền con
người mà đi thẳng vào nội hàm của quyền con người trong đó nêu ra những
quyền chính trên cơ sở sự đồng thuận của đông đảo các quốc gia thành viên
Liên Hợp Quốc.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ
quan nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không
hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người được hiểu là “những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [13, tr.38].
Luận văn cũng đồng tình với định nghĩa trên, theo đó có thể tiếp cận
quyền con người dưới góc độ là những quyền tự nhiên nhưng phải được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền con người được coi là những chuẩn mực được
cộng đồng quốc tế thừa nhận, tuân thủ và được áp dụng cho tất cả mọi người
trên thế giới.
1.1.2. Mối quan hệ và khái niệm quyền con người về môi trường
Con người và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ, có sự tác động qua
lại lẫn nhau, với những nội dung như sau:
Môi trường là nguồn cung cấp các thành tố cơ bản cho hoạt động sống
của con người như: dưỡng khí, nước, protein và khoáng chất, đồng thời là nơi
tiếp nhận các sản phẩm từ quá trình trao đổi chất trực tiếp của con người. Môi
trường tự nhiên quy định cách thức tồn tại và phát triển của con người.
Môi trường cũng cung cấp các nguồn lực kinh tế như đất, tài nguyên,
nước, năng lượng... để con người thực hiện các hoạt động sản xuất phục vụ
cuộc sống, đồng thời là nơi tiếp nhận các phế thải kinh tế.
Môi trường là nguồn thông tin và nguồn cảm hứng vô tận cho hoạt
động nhận thức và sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cũng là đối tượng của hoạt


9


động nghiên cứu và thẩm mỹ của con người. Đúng như Ủy ban Kinh tế và Xã
hội của Liên Hợp Quốc đã nhận xét: “môi trường sinh lý cung cấp hàng hóa,
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và các dịch vụ hệ sinh thái - tiếp nhận các
chất thải từ các hoạt động kinh tế và sinh hoạt của con người, và đem lại sự
sáng tạo cái đẹp cho loài người” [21, tr.13].
Con người đóng vai trò là chủ thể chính của môi trường sống, tồn tại
trong môi trường, sử dụng, khai thác và sử dụng các công cụ kỹ thuật, khoa
học công nghệ tác động đến môi trường. Con người lựa chọn, tạo dựng môi
trường sống cho mình từ môi trường tự nhiên. Con người tác động vào môi
trường tự nhiên theo cả hướng tích cực và tiêu cực.
Sự tác động tích cực của con người vào môi trường tự nhiên được thể
hiện qua việc tận dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên, môi trường nhằm
phục vụ cuộc sống của mình. Con người sử dụng môi trường để tạo ra lương
thực thực phẩm và sử dụng các yếu tố khác để đảm bảo sự sống. Đồng thời,
con người biết lựa chọn cho mình không gian sống thích hợp nhất, từ chỗ lệ
thuộc bị động đến cải tạo chinh phục tự nhiên. Con người cũng thực hiện các
biện pháp để duy trì sự ổn định của môi trường, bảo vệ và tái tạo môi
trường… Tuy nhiên, việc sử dụng, khai thác của con người vào môi trường
tự nhiên gây ra những tác động tiêu cực khiến cho môi trường bị tàn phá, lúc
đó con người sẽ luôn phải sống trong nguy cơ thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm,
biến đổi khí hậu…
Nhận thức cộng đồng thế giới về các mối liên kết giữa quyền con người
và môi trường đã mở rộng đáng kể từ khi bảo vệ môi trường trở thành một
vấn đề quan tâm của các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Khoảng hai thập kỷ
sau khi quyền con người xuất hiện trên chương trình nghị sự quốc tế, cộng
đồng quốc tế đã thông qua đáng kể các công cụ pháp lý, thành lập các cơ quan
chuyên ngành toàn cầu và cấp khu vực để xây dựng công cụ, kiểm soát và

thúc đẩy việc thực hiện quyền con người với môi trường.

10


Trong việc đánh giá mối quan hệ giữa bảo vệ môi trường và đảm bảo
quyền con người tồn tại ba cách hiểu:
- Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người có cùng giá trị xã hội với đảm bảo quyền con người;
- Bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người dựa trên giá trị xã
hội khác nhau;
- Đảm bảo quyền con người và bảo vệ môi trường là đại diện cho hai
hướng khác nhau nhưng chồng lấn các giá trị xã hội. Một mặt, các giá trị xã
hội của bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền con người có thể hỗ trợ lẫn
nhau, nơi các giá trị môi trường cũng là giá trị hướng tới bảo vệ nhu cầu con
người. Mặt khác, mặc dù quyền con người và bảo vệ môi trường tìm cách đạt
được chất lượng bền vững cao nhất cho đời sống của con người, mục tiêu của
chúng có thể khác nhau.
Các mối quan tâm của pháp luật quyền con người bảo vệ cá nhân và
các cộng đồng hiện tại, trong khi một trong các mục tiêu pháp luật môi trường
là để duy trì cuộc sống trên toàn cầu bằng cách cân bằng nhu cầu và năng lực
của hiện tại và tương lai. Đối với quyền con người, vấn đề khẩn cấp của sự
sống quan trọng hơn an ninh sinh thái lâu dài. Nói cách khác, hầu hết mọi
người sẽ dành ưu tiên ngay lập tức cho nhu cầu cơ bản của con người, như
thực phẩm, nước uống... hơn mối quan tâm trong dài hạn về môi trường. Tuy
nhiên để bảo đảm được các điều kiện đó lâu dài thì môi trường sống cũng
phải được bảo vệ ở mức cao nhất. Đây cũng là mục tiêu mà bảo vệ môi
trường hướng tới. Từ đây dẫn tới quan điểm rằng quyền con người và bảo vệ
môi trường phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung và không chia cắt.
Quan điểm mới này cho thấy mối quan hệ của quyền con người và bảo

vệ môi trường là quan hệ hai chiều: suy thoái môi trường thường dẫn đến vi
phạm quyền con người, nghèo đói và thất bại trong việc thực hiện quyền của

11


con người làm môi trường trở nên căng thẳng một cách báo động. Trong
nhiều trường hợp các quyết định pháp luật công nhận việc vi phạm quyền con
người cơ bản như nguyên nhân, hoặc kết quả của suy thoái môi trường. Quá
trình phát triển không bền vững của môi trường đang dần được chứng minh
như là một nguyên nhân của việc vi phạm quyền con người, do đó, các nhà
nước cần phải phấn đấu để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa việc thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người với bảo vệ, phục hồi và phát triển môi trường
để phát triển con người trở nên bền vững.
Có thể khái quát các chuyển biến về nhận thức cộng đồng quốc tế về
mối liên kết giữa quyền con người và môi trường như sau:
- Bảo vệ môi trường như là một điều kiện tiên quyết để được hưởng các
quyền con người đặc biệt là quyền được sống và quyền có sức khỏe (ngụ ý
rằng các nghĩa vụ quyền con người của quốc gia phải bao gồm các nhiệm vụ
đảm bảo mức độ bảo vệ môi trường cần thiết để cho phép thực hiện đầy đủ các
quyền con người. Những người gây ô nhiễm hoặc phá hủy môi trường tự nhiên
không chỉ phạm tội ác chống lại thiên nhiên, mà là vi phạm quyền con người).
- Thực hiện quyền con người là yếu tố cần thiết để đạt được bảo vệ môi
trường, thông qua đó đạt được mục đích chính là bảo vệ sức khỏe con người
và bình đẳng trong tiếp cận môi trường như nguồn lực phát triển. Tôn trọng
và bảo đảm một số quyền con người, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin,
tham gia quyết định, và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề môi trường, là điều
cần thiết để bảo vệ môi trường.
- Quyền được hưởng một môi trường an toàn, lành mạnh và cân bằng
sinh thái là một quyền độc lập trong quyền con người. Hiện nay, các ví dụ về

điều này được tìm thấy chủ yếu trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật môi
trường ở cấp độ quốc gia; Công ước khu vực; trong Tuyên bố của Liên Hợp
Quốc về quyền của người bản địa. Nội dung của các quyền con người với môi

12


trường tập trung làm rõ sự liên kết giữa bảo vệ môi trường và mục tiêu kinh tế
và sức khỏe con người.
- Ở mức độ cao hơn, các nhà khoa học, các nhà hoạch định và thực thi
chính sách đã nhận thức rằng đảm bảo quyền con người với môi trường là
mục tiêu phát triển bền vững.
Từ những phân tích về mối quan hệ giữa môi trường và quyền con
người, người viết đưa ra một cách hiểu khái niệm quyền con người về môi
trường như sau: quyền con người về môi trường là tổng thể các nhu cầu, lợi
ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người đối với các yếu tố vật chất
cấu tạo thành môi trường, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia
và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
1.1.3. Cơ sở pháp lý xây dựng và thực thi quyền con người về môi trường
Tuyên ngôn quyền con người thế giới 1948 không đề cập đến quyền
con người với môi trường. Tuy vậy, mối quan hệ giữa môi trường và quyền
con người có thể nhận thấy trong quyền sống và quyền được hưởng một mức
sống với đầy đủ sức khỏe và hạnh phúc. Dưới góc độ môi trường, quyền sống
có thể bao gồm nghĩa vụ của nhà nước trong việc tích cực thực hiện các bước
để ngăn việc giảm tuổi thọ, kéo dài cuộc sống khỏe mạnh. Ví dụ, bằng cách
cung cấp nước uống tốt hơn hoặc giảm độ ô nhiễm của không khí.
Quyền con người và môi trường từ góc độ quyền có điều kiện sống,
điều kiện làm việc thích hợp có thể thấy trong Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa được tuyên bố năm 1966. Công ước bao gồm nhiều
quyền khác nhau, trong đó có quyền có đất đai để sản xuất, quyền có một môi

trường làm việc phù hợp, quyền có điều kiện sống tử tế, và quyền được khỏe
mạnh. Các quyền này được bao phủ bởi các điều ước khác nhau trong đó thiết
lập mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội, môi trường và đảm
bảo quyền con người. Điều này sẽ bao gồm yêu cầu Nhà nước có biện pháp

13


để giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện tất cả các khía cạnh của vệ sinh môi trường
và công nghiệp để tạo nên môi trường sống trong lành đảm bảo sức khỏe và
sự sống của con người.
Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển 1972 (Tuyên
bố Stockholm) được xác định là cột mốc đầu tiên cho sự gắn kết hai vấn đề
tưởng chừng là hai lĩnh vực riêng biệt trong hoạch định chính sách công,
nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau là quyền con người và môi
trường. Trong Tuyên bố Stockholm, Nguyên tắc 1 thiết lập nền tảng mối quan
hệ giữa quyền con người với môi trường: “con người có các quyền cơ bản về
tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối thiểu trong môi trường trong lành, cho
phép con người có cuộc sống có nhân phẩm và hạnh phúc” [20, tr.5]. Tuyên
bố Stockholm không thực sự công bố một quyền môi trường với đầy đủ cấu
thành, nhưng ngụ ý rằng việc thực hiện các quyền khác của con người tất yếu
đòi hỏi môi trường sức khỏe cơ bản; xem xét bảo vệ môi trường như là một
điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền cơ bản của con người.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường và phát triển bền vững
năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brasil đã tuyên bố rằng con người "có quyền được
sống một cuộc sống hữu ích và lành mạnh hài hòa với thiên nhiên" [20, tr.12] và
quy định rằng các quốc gia nên hợp tác một cách có hiệu quả để ngăn cản
hoặc ngăn chặn việc di dời và chuyển giao cho các quốc gia khác bất cứ một
hoạt động nào và một chất nào gây sự thoái hóa môi trường nghiêm trọng
hoặc xét thấy có hại cho sức khỏe con người. Đặc biệt, Hội nghị đã xây dựng

nên các liên kết giữa quyền con người và bảo vệ môi trường chủ yếu về mặt
thủ tục. Nguyên tắc 10 tuyên bố: “Vấn đề môi trường phải được giải quyết
một cách tốt nhất với sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ
thích hợp…” [20, tr.13]. Nguyên tắc này có ý nhấn mạnh đến việc tôn trọng
và đảm bảo thực thi quyền con người như một trong những điều kiện cần thiết

14


để bảo vệ môi trường. Quyền đối với sự tham gia, thông tin và biện pháp khắc
phục đối với các điều kiện môi trường được hình thành như trọng tâm của
Tuyên bố Rio.
Tham gia cộng đồng như một trong những điều kiện tiên quyết cơ bản
để đạt được sự phát triển bền vững cũng được nhấn mạnh trong Chương trình
nghị sự 21 đã được thông qua tại Hội nghị. Đặc biệt, nhấn mạnh đến sự tham
gia của các đối tượng khác nhau vào quy trình đánh giá tác động môi trường
và vào việc ra các quyết định liên quan đến môi trường. Chương trình nghị sự
21 cũng khẳng định về việc cá nhân, nhóm và tổ chức phải có quyền truy cập
vào thông tin liên quan đến môi trường, thông tin về cơ chế vận hành hoạt
động của chính quyền địa phương và Trung ương, bao gồm cả thông tin về
sản phẩm và các hoạt động mà có hoặc có thể có một tác động đáng kể đối
với môi trường, và thông tin về các biện pháp bảo vệ môi trường. Chương
trình nghị sự 21 cũng kêu gọi Chính phủ và các nhà lập pháp xây dựng thủ tục
hành chính để khắc phục những quy định pháp lý chưa chặt chẽ đối với các
hành động gây thiệt hại đến môi trường mà có thể là trái pháp luật hoặc xâm
phạm các quyền theo pháp luật, và để khắc phục, đền bù thiệt hại môi trường
do các hành động vi phạm đó gây ra. Nó cũng khuyến khích Chính phủ xây
dựng các cơ chế trao đổi trực tiếp thông tin giữa Chính phủ và công chúng về
các vấn đề môi trường và cho thấy quá trình đánh giá tác động môi trường là
một cơ chế tiềm năng để người dân tham gia. Có thể nói Chương trình nghị sự

21 tạo ra một khuôn khổ mới của luật môi trường quốc tế, bao gồm các
nguyên tắc và các khái niệm mới, yêu cầu các quốc gia sử dụng các phương
pháp khác nhau trong quy định bảo vệ môi trường để đạt được các mục tiêu
phát triển bền vững. Hệ thống quy định quốc gia về bảo vệ môi trường cần
phải kết hợp nguyên tắc phòng ngừa, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền
với các công cụ bảo vệ môi trường mới như đánh giá tác động môi trường,
công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
15


1.2. Một số nhận thức của quyền con ngƣời về môi trƣờng
Trước và sau khi có Dự thảo Tuyên ngôn quyền con người về môi
trường 1994, nhiều nước trên thế giới đã tiếp cận quyền trong bảo vệ môi
trường thông qua việc ban hành các quy định, điều luật công nhận quyền con
người đối với môi trường; xây dựng cơ chế thực thi quyền. Bảo vệ môi trường
theo tiếp cận quyền cho phép nâng cao chất lượng sống của con người và tạo
cơ hội bình đẳng cho mọi người trong tiếp cận môi trường như nguồn lực phát
triển và môi trường sống. Cách tiếp cận quyền dần trở thành cơ sở quan trọng
trong việc ban hành các chính sách, pháp luật nói chung và chính sách pháp
luật môi trường nói riêng.
Việc xây dựng cơ sở pháp lý và thực thi quyền con người với môi
trường về cơ bản dựa trên ba bước tiếp cận:
- Thứ nhất, huy động và sử dụng các quyền đang tồn tại đã đạt được
mục đích bảo vệ môi trường.
- Thứ hai, giải thích lại các quyền hiện có, tính đến cả các mối quan
tâm về môi trường.
- Thứ ba là tạo ra các quyền mới bao hàm đủ các đặc tính của môi trường.
Ngoài ra còn có thể kết hợp các cách tiếp cận khác nhau, trong đó bảo
vệ môi trường có thể đạt được không chỉ bằng cách thông qua khẳng định các
quyền con người hiện tại, mà qua sự phát triển của quyền con người mới liên

quan đến môi trường, hoặc một quyền chung đối với môi trường. Điều này
đặt ra yêu cầu nâng tầm quyền con người với môi trường từ một tập hợp con
của các quyền con người dưới các góc độ khác nhau, chẳng hạn như quyền sở
hữu đất đai (trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội),
quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia đối với các vấn đề về môi trường
(trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị) thành nhóm quyền
riêng và giúp cho nó có vị trí bình đẳng với các quyền khác của con người.

16


1.2.1. Huy động và sử dụng các quyền đang tồn tại
Huy động và sử dụng một phần các quyền dân sự, chính trị; quyền kinh
tế xã hội và văn hóa; quyền tự quyết như quyền con người với môi trường.
Các quyền này đã được quy định trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 (ICESCR).
Quyền tham gia chính trị, tham gia hiệp hội, quyền tự do ngôn luận, tự
do cá nhân... sẽ cho phép các nhóm người đối mặt với nguy cơ suy thoái môi
trường nói lên vấn đề của họ. Công ước ICESCR cung cấp khuôn khổ pháp lý
và đạo đức bảo vệ môi trường thông qua việc quy định các quyền về sức khỏe,
quyền của tất cả mọi người được quản lý và hưởng lợi từ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên; quyền có điều kiện sống tối thiểu của cá nhân và gia đình, quyền
về thực phẩm, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục... Tất cả những quyền
này liên quan rất nhiều đến điều kiện môi trường. Quyền tập thể, như quyền tự
quyết được quy định tại Điều 1 của hai công ước ICCPR và ICESCR, cũng
đóng góp vào việc Bảo vệ môi trường. Điều 1 của hai Công ước quy định:
Vì lợi ích của mình, các dân tộc có quyền tự do định đoạt
nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm
phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế, quốc tế,

mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của
luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được
phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc [15, 16].
Nó như một bản báo cáo nghiêm trọng về sự không phù hợp với luật
môi trường quốc tế tại thời điểm năm 1966 khi ô nhiễm và suy thoái môi
trường vi phạm những quyền này của nhiều cộng đồng trên toàn thế giới.
1.2.2. Giải thích lại các quyền hiện có
Trên thực tế, môi trường vẫn đang hàng ngày chịu sự tác động và bị

17


biến đổi bởi nhiều nguyên nhân. Do đó việc huy động và sử dụng các quyền
hiện có sẽ phát sinh các hạn chế nhất định: phát sinh thêm các vấn đề mới,
pháp luật cũ chưa dự liệu đúng và có cơ chế phù hợp với các trường hợp mới
phát sinh… Nhiều nhà hoạt động môi trường và quyền con người hiện nay
cho rằng, huy động và sử dụng các quyền hiện có là chưa đủ để bảo vệ môi
trường, vì vậy cần phải đặt các quyền hiện có trong bối cảnh vận động phát
triển với sự hình dung về vấn đề môi trường mà không phổ biến hoặc chưa
từng xuất hiện vào thời quyền con người lần đầu tiên được xây dựng, từ đó có
sự nhìn nhận lại và ghi nhận thêm các quyền con người về môi trường.
Trên thế giới, nhiều nước đã giải thích lại các quyền hiện có. Ví dụ như
Tòa án ở Ấn Độ đã có một tiến bộ đáng kể trong việc giải thích lại các quyền
hiện có trong Hiến pháp, mở rộng nội hàm khái niệm quyền sống, bao hàm cả
các quy tắc liên quan đến bảo vệ môi trường. Tòa án đã giải thích rằng, quyền
sống của con người không chỉ là sự tồn tại, mà bao hàm cả quyền được sống
trong môi trường sức khỏe không bị ô nhiễm, một môi trường có sự cân bằng
về hệ sinh thái và được Nhà nước bảo vệ.
1.2.3. Xây dựng các quyền mới về môi trường
Bước tiếp cận này liên quan tới việc công nhận và thực hiện quyền môi

trường trong bối cảnh phát triển bền vững. Trong quá trình nhận thức, giải
thích quyền đã chỉ ra mối quan hệ rõ ràng giữa bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người với việc bảo tồn và khôi phục môi trường và việc cần thiết có quyền
mới, đó là quyền con người được sống trong môi trường an toàn, trong lành.
Các quyền về môi trường có thể được diễn giải theo nhiều cách hiểu
khác nhau. Nó có thể được hiểu nghiêng về quyền lợi từ môi trường, tức là
quyền sở hữu môi trường, thay vì quyền của con người có một môi trường
sống trong lành. Để thực hiện quyền môi trường theo cách hiểu này chỉ cần sử
dụng cơ sở pháp lý của quyền con người đang hiện hữu mà không cần đến

18


quyền mới. Một quan điểm khác coi quyền môi trường như là một bước cải
cách và sự cần thiết phải mở rộng các quyền con người trong bối cảnh bảo vệ
môi trường. Cách tiếp cận này thể hiện một giai đoạn chuyển tiếp giữa việc
chỉ áp dụng quyền hiện có để đạt được việc bảo vệ môi trường và đặt nền
móng cho sự ghi nhận một hướng quyền mới là quyền môi trường.
Luận văn đi theo hướng hiểu thứ hai, đó là mối quan hệ biện chứng
giữa quyền con người và môi trường, hình thành nên quyền mới được gọi
là quyền con người về môi trường với đầy đủ các yếu tố cấu thành. Quyền
con người về môi trường đã được thay đổi và mở rộng bao gồm nhóm
quyền nội dung (quyền sống trong môi trường an toàn, trong lành; quyền
tiếp cận nước sạch; quyền tiếp cận đất đai) và nhóm quyền thủ tục (quyền
tiếp cận thông tin môi trường; quyền tham gia vào các quyết định về môi
trường; quyền tiếp cận tư pháp).
Việc tạo ra các quyền mới đòi hỏi cộng đồng quốc tế cùng nhau hợp tác
và xây dựng các chuẩn mực quốc tế chung để ứng phó với thách thức ngày
càng gia tăng đối với môi trường và phát triển. Các quyền mới chứa đựng các
quy tắc và tiêu chuẩn chung về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững,

đồng thời ngày càng phải được bổ sung các nội dung mới, dựa trên sự phát
triển và tác động của môi trường.
Việc xây dựng các quyền mới có thể được tham khảo dựa trên các nội
dung đã được quy định trong Hiến pháp quốc gia. Bảo vệ bằng Hiến pháp đối
với các quyền môi trường là cơ hội để mọi người tham gia có ý kiến đối với
việc ban hành các quyết định có thể gây tác động xấu đến cuộc sống cộng
đồng dân cư và môi trường tự nhiên xung quanh. Hiện nay có khoảng 60
nước trên thế giới và tiểu bang Hoa Kỳ đã công nhận trong Hiến pháp về
quyền sống trong môi trường trong lành, quyền có sức khỏe.
Bên cạnh đó có thể dựa trên nội dung về các quyền cơ bản, các quyền
liên quan đến môi trường trong các Công ước về quyền con người khu vực.

19


×