Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.56 KB, 2 trang )
IV. THIÊN HẠ CHẲNG TƯ, ẤY CỦA CHUNG
Một điểm son trong cuộc đời của Trạng Trình, là nghĩ tới tiền đồ đất nước khi đào tại 1 thế hệ tương lai. Học trò của ông
là những văn thần võ tướng nổi tiếng thời bấy giờ: Trạng nguyên Giáp Hải, trạng Bùng Phùng khắc Khoan, danh tướng
Nguyễn Quyện, rồi Lương hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Đinh thì Trung.
Và ở đây, khi đào tạo nhân tài cho đất nước, chúng ta thấy "cái hay" trong sự giáo dục của Nguyễn bỉnh Khiêm: Tuy ông
làm quan với nhà Mạc, nhưng Phùng khắc Khoan và Lương hữu Khánh thì vào Nam theo vua Lê, Nguyễn Dữ lại ở ẩn
như thầy và viết ra bộ "Truyền kỳ mạn lục" nổi tiếng. Đành rằng ông là người thầy luôn tôn trọng chí hướng của học trò,
nhưng ông còn có cái nhìn xa và rộng của 1 người yêu dân yêu nước, đôi khi vượt trên cả cái nhìn của Nho gia. Theo
Nguyễn bỉnh Khiêm, sự loạn lạc binh đao đã làm cho dân chúng khổ sở lầm than, nhà tan cửa nát. Những cảnh vợ xa
chồng, con mất cha, với "núi xương sông máu", chắc đã tạo nhiều ấn tượng và suy nghĩ nơi tâm hồn nhạy cảm của ông,
từ đó phát sinh một quan niệm quốc gia chân chính: đất nước không là của riêng ai, hay của một dòng họ nào, mà là của
toàn dân. Tại sao cứ phải hẹp hòi với những chữ "trung quân", "chính thống", để gây cảnh "binh đao đầy mắt khổ chưa
thôi" cho dân chúng. Đã đành rằng "Sự thế cuộc cờ đâu miễn được", nhưng rõ ràng như ông thấy" lòng người: sông biển
cạn mà sâu", chiến tranh trước tiên bắt ngờ uồn ở tự lòng người, những người muốn ngôi cao quyền trọng. Chính vì vậy,
ông đã để cho các học trò của mình tự do tìm chí hướng: phù trợ "nhà" nào cũng được, miễn là ích quốc lợi dân, dùng tài
kinh bang tế thế mà đem thái bình thịnh vượng cho trăm họ. Điều chính yếu là dân, như Mạnh Tử nói: "Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh" (6). Đó là đạo lý thánh hiền và cũng là nguyên tắc xử thế cho những người vì dân vì nước.
Ngay bản thân ông, tuy đã từng làm quan với nhà Mạc, nhưng Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn cũng cho người đến hỏi ý
kiến ông những chuyện quan trọng (xem phụ lục). Có thể ông là người tinh thông dịch số biết chút ít về hậu vận mai sau,
nhưng cũng có thể ông là người giỏi tiên đoán thời cuộc dựa vào những biến cố, và nhất là dựa vào tình yêu nước thương
nòi. Câu nói "Giữ chùa thờ Phật thì ăn xôi ăn oản" với Trịnh Kiểm, phải chăng phát xuất từ quan niệm hiếu trung của
Nho giáo, và muốn tránh cho nước nhà khỏi thêm nạn binh đao, vì giả như Trịnh Kiểm lật vua Lê để chiếm ngôi thì biết
đâu lại có "những Trịnh Kiểm" khác sẽ phò vua Lê mà chống lại, tạo thêm hỗn loạn cho nước, đau khổ cho dân ? Còn
câu khuyên nhủ Nguyễn Hoàng vào Nam dung thân, biết đâu
cũng phát sinh từ quan niệm vì dân vì nước: đất Thuận Hoá cùng phương Nam bao la nghìn dặm, sao không đưa dân vào
khai khẩn, tạo cuộc sống an lành, mở mang bờ cõi; lại cứ tranh giành miền đất Thanh Nghệ và Bắc hà với Vua Mạc, Vua
Lê ? Gây cảnh "nồi da xáo thịt" cho quê hương, trong nhà lại mang tiếng anh em bất nghĩa! "Một lời yên ba họ, sau trước
việc đều thông", lời ca ngợi của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (đời Vua Quang Trung ) cả trăm năm sau còn cho thấy
tấm lòng của 1 người muốn đất nước khỏi binh đao, dân được sống ấm no, thanh bình. Ông chẳng ngại dư luận người
đời, góp ý cho Mạc, Trịnh, Nguyễn, "nhà" nào cũng được, vì ông không nghĩ tới ngôi nhà của 1 dòng họ, mà là cả" ngôi
nhà" tổ quốc, trong đó dân tộc Việt nam được cư ngụ thanh bình