Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.92 KB, 100 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây cao su là là cây công nghiệp dài ngày, có khả năng thích ứng rộng,
tính chống chịu với điều kiện bất lợi cao và mang giá trị kinh tế lớn do chất
lỏng chiết ra từ cây hay còn gọi là “mủ cao su” là nguyên liệu công nghiệp
chính sản xuất ra cao su tự nhiên. Việt Nam và các nước thuộc khu vực Đông
Nam Á có được lợi thế vô cùng lớn từ khí hậu thiên nhiên và đất đai thuận lợi
cho sự phát triển của cây cao su. Bởi vậy, cây cao su đã trở thành nguồn lợi
kinh tế lớn đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu.
Nhìn nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của cây cao su, Việt Nam đã chú
trọng trồng trọt, khai thác và chế biến cao su rộng rãi trên cả nước. Các sản
phẩm cao su tự nhiên không chỉ nhằm phục vụ nhu cầu trong nước mà đồng
thời đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước, có mặt
ở hầu hết tất cả các thị trường trên thế giới.
Tuy nhiên sản phẩm cao su xuất khẩu của Việt Nam còn gặp nhiều trở
ngại lớn và năng lực cạnh tranh còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh
trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonexia... Trong điều kiện hội nhập
và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất và chế biến
cao su của Việt Nam nếu không nhanh chóng có những giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh thì sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi của toàn thế giới.
Để giải quyết những vấn đề nan giải như hiện nay, đồng thời cung cấp, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp có thêm được nhiều thông tin, giải pháp xác thực, em
đã quyết định chọn đề tài
“ Nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu Việt
Nam”.
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
1
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở kết hợp giữa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh và phân


tích thực trạng về năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su xuất khẩu của Việt
Nam, đồng thời tìm ra những điểm mạnh điểm yếu của nhóm hàng này so với
các đối thủ cạnh tranh khác, đề tài sẽ đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu của
Việt Nam trên thị trường thế giới trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su xuất khẩu
của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su xuất khẩu của
Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2008
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế như chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê và phương pháp so sánh …nhằm phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được chia thành ba chương với nội dung bao quát như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của hàng hóa và sự
cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su tự nhiên
xuất khẩu của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su xuất
khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu của Việt
Nam.
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ

VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
MẶT HÀNG CAO SU TỰ NHIÊN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG
HOÁ
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hàng hoá
1.1.1.1.Khái niệm cạnh tranh
Từ lâu, vấn đề cạnh tranh kinh tế về mặt lý luận đã được các nhà kinh
tế học trước Các Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
cũng đã đề cập đến. Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền
với sự tác động của các qui luật thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung -
cầu hay nói cách khác cạnh tranh là một trong những qui luật cơ bản của nền
kinh tế thị trường.
Theo C.Mác: “ Phân công xã hội khiến cho những người sản xuất hàng
hoá độc lập trở thành đối lập với nhau, họ không thừa nhận bất kỳ quyền uy
nào khác mà chỉ thừa nhận quyền uy của cạnh tranh, chỉ thừa nhận sự cưỡng
chế của áp lực lợi ích giữa họ với nhau đè nặng lên chính mình”
Thực chất, cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ
thể tham gia thị trường. Đối với người mua, họ luôn muốn mua được hàng
hoá có chất lượng cao với mức giá thấp nhất có thể có để thoả mãn nhu cầu
của mình. Ngược lại, đối với người bán thì bao giờ cũng muốn đạt được lợi
nhuận tối đa bằng cách họ luôn tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất, nâng
cao chất lượng hàng hoá... để tìm cách giành giật khách hàng và mở rộng thị
trường của mình.
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế còn mang nặng tính chất xã
hội nên cạnh tranh để nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn là điều kiện tiên

quyết để giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện thoả đáng các chính sách xã
hội. Ở nước ta, trong quá trình đổi mới nền kinh tế đã có sự thay đổi rất lớn về
tư duy, quan niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh được xem là qui luật kinh tế
khách quan. Cạnh tranh đuợc xem là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức điều
hành. Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực phát triển cho nền kinh
tế thị trường. Trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng cũng đã ghi rõ: “Cơ chế
thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp
pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm
phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Trong mục
tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, Đảng ta khẳng định cần phải
nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tế do cách tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau,
nên có rất nhiều những quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Tuy nhiên, trong
đề tài nghiên cứu này khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận và đánh giá dưới
góc độ sau: Cạnh tranh là hành vi hoặc quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh
tế của kinh tế thị trường, cùng theo đuổi mục đích tối đa hoá lợi ích. Trong
cạnh tranh, các chủ thể ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt được mục
tiêu kinh tế của mình, thông thường các mục tiêu này là chiếm lĩnh thị trường,
giành giật khách hàng, cũng như các điều kiện sản xuất và khu vực thị trường
có lợi nhất.
1.1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Điểm lại lý thuyết cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong lịch sử có thể
thấy hai trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển (với các đại biểu tiêu biểu
như A.Smith, John Stuart Mill, Darwin và C.Mác), Trường phái hiện đại (với
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
4
Chuyên đề tốt nghiệp
3 quan điểm tiếp cận: Tiếp cận theo tổ chức ngành; Tiếp cận tâm lý; Tiếp cận
“cạnh tranh hoàn hảo). Hiện nay, còn nhiều quan điểm khác nhau về năng lực
cạnh tranh, và hiện chưa có một lý thuyết nào hoàn toàn có tính thuyết phục

về vấn đề này. Do đó không có lý thuyết “chuẩn” về năng lực cạnh tranh,
chúng ta chỉ có thể hiểu rằng: Trong quá trình cạnh tranh thì luôn có kẻ mạnh
người yếu, kẻ thắng người thua. Để thắng lợi trong cạnh tranh, nhân tố tiên
quyết chính là năng lực cạnh tranh của chủ thể cạnh tranh. Một cách đơn giản
về năng lực cạnh tranh là khả năng của các chủ thể để có thể giành được
những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất trên thị trường nhằm mang lại
lợi nhuận cao hơn. Theo cách khác, năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế
là thực lực và lợi thế mà nền kinh tế có thể huy động để duy trì và cải thiện vị
trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới nhằm thu
được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình.
Tuy nhiên hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá được
các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất là: Phương
pháp thứ nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản Báo cáo
cạnh tranh toàn cầu; Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát
triển (IMD) đề xuất trong cuốn Niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương
pháp trên đều do một số Giáo sư đại học Harvard như Michael Porter, Jeffrey
Shach và một số chuyên gia của WEF như Cornelius, Mache Levison tham
gia xây dựng.
1.1.2. Phân loại các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Ngày nay khi thị trường hàng hoá càng phát triển thì năng lực cạnh tranh
diễn ra càng gay gắt và phức tạp. Một chủ thể kinh tế khi tham gia vào thị
trường bao giờ cũng phải chịu sức ép cạnh tranh từ rất nhiều phía khác nhau
của nền kinh tế. Dựa vào những quan sát, các nhà kinh tế học đã phân chia
cấp độ của năng lực cạnh tranh một cách tương đối bao gồm: năng lực cạnh
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
5
Chuyên đề tốt nghiệp
tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm trong cùng 1 ngành.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia

Theo Asian Development Outlook 2003, Năng lực cạnh tranh quốc gia
được định nghĩa như là “ khả năng cạnh tranh của một nước để sản xuất các
hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được thử thách của thị trường quốc tế. Đồng
thời, duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của công dân nước đó”. Mặt
khác, năng lực cạnh tranh quốc gia phản ánh khả năng của một nước để tạo ra
việc sản xuất sản phẩm, phân phối các sản phẩm và dịch vụ trong thuơng mại
quốc tế, trong khi kiếm được thu nhập tăng lên từ các nguồn lực của nó.
Krugman( năm 1996) cho rằng: các khái niệm này phù hợp với thuật ngữ “
năng lực cạnh tranh quốc tế”, nó tạo ra ý nghĩa rằng mỗi quốc gia được coi
như một tổ hợp lớn cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Theo diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 1997: “ Năng lực cạnh tranh
quốc gia là khả năng nền kinh tế quốc dân đạt được và duy trì mức tăng
trưởng cao về kinh tế, thu nhập và việc làm”. Năng lực cạnh tranh của quốc
gia được cấu thành từ 8 nhóm yếu tố chính (với 155 chỉ tiêu ) bao gồm: độ
mở của nền kinh tế, vai trò và hiệu lực của chính phủ, hệ thống tài chính tiền
tệ, trình độ phát triển công nghệ, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý của doanh
nghiệp, số lượng và chất lượng lao động và trình độ phát triển của thể chế.
Theo công bố mới đây trong báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006-
2007 của Diễn đàn kinh tế thế giới, thứ hạng của Việt Nam xếp theo Chỉ số
năng lực cạnh tranh tổng hợp là 77 trên 125 quốc gia, Chỉ số năng lực cạnh
tranh tăng trưởng là 86. Trong khi đó thứ hạng tương ứng theo các chỉ số trên
của Việt Nam tại báo cáo năm 2005-2006 là 74 và 81. Như vậy, thứ hạng của
Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp và tăng trưởng năm
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
6
Chuyên đề tốt nghiệp
2006 đều sụt giảm so với năm 2005.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp
Trong những năm vừa qua các doanh nghiệp của Việt Nam đang dần dần
lớn mạnh và đang trên đà phát triển. Song chúng ta vẫn nhận thấy còn rất

nhiều vấn đề đáng lo lắng và một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất hiện
nay là về việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên
trường quốc tế. Để giải quyết được vấn đề về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong thời kì hội nhập, chúng ta cần phải nắm thật rõ khái niệm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách đơn giản nhất có thể
hiểu là “ khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận
được “. Vì vậy khi thị phần tăng lên, cho thấy năng lực cạnh tranh cũng đựơc
nâng cao. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn là khả năng hãng đã bán
được hàng nhanh và nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường
cụ thể về một loại hàng hoá cụ thể.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của OECD định nghĩa năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: “ khả năng của doanh nghiệp, các ngành,
tạo ra thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong
khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc tế ”.
Theo Hamed và Prahalad (1994), một doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh nếu nó có thể sản xuất các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao và chi
phí thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Năng lực
cạnh tranh đồng nghĩa với kết quả lợi nhuận dài hạn và khả năng của nó để
bồi hoàn cho người lao động và tạo ra thu nhập cao cho các chủ sở hữu. Năng
lực cạnh tranh thể hiện ở việc làm tốt hơn các doanh nghiệp đối thủ về doanh
thu, thị phần, khả năng sinh lợi.... và đạt được thông qua các hành vi chiến
lược. Điều này, các công ty đạt được thông qua việc nâng cao chất lượng sản
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
7
Chuyên đề tốt nghiệp
phẩm và sự sáng tạo sản phẩm. Như vậy, ta có thể phân biệt năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn như sau: năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp trong ngắn hạn được biểu thị bởi mức giá cả, chất
lượng, chức năng của sản phẩm và thị phần, khả năng sinh lợi, lợi tức trên tài

sản và giá cổ phiếu, một số sáng tạo giới hạn nhằm cải thiện các sản phẩm
hiện hành. Trái lại, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong dài hạn thể
hiện việc một doanh nghiệp hoạt động tốt như thế nào so với công ty tương tự
khác trong việc phát triển công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và quá trình
mới và cuối cùng là thị trường hoàn toàn mới.
Trên thực tiễn ở Việt Nam, khi đánh giá về khả năng cạnh tranh tầm vi
mô, các so sánh quốc tế đều ghi nhận thành tựu trung bình của Việt Nam vào
tốp 3 trong ngũ phân vị (xếp thứ 38/80 nước), nhất là đánh giá tốt việc triển
khai mạnh các dự án FDI kèm theo chuyển giao công nghệ và việc thi hành
Luật Doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực ngoài Nhà nước phát
triển bình đẳng vì sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
lĩnh vực chỉ tiêu hiệu quả của Việt Nam còn rất kém.
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào đó
trên thị trường trong nước và quốc tế là khả năng mà sản phẩm đó có thể duy
trì được vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm ở một doanh nghiệp thể hiện trên nhiều mặt như: sản
phẩm đó đuợc sản xuất với chi phí thấm hơn và từ đó giá thành và giá bán sản
phẩm thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại khác, hay sản phẩm này được
sản xuất trong điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ chế
biến hiện đại hơn để nâng cao chất lượng sản phẩm và đáp ứng tốt hơn những
tiêu chuẩn của thị trường, hay sản phẩm được tổ chức tiêu thụ với mạng lưới
bán hàng tốt, và sản phẩm được tung ra thị trường đúng thời điểm.... Như vậy,
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
8
Chuyên đề tốt nghiệp
năng lực cạnh tranh của từng mặt hàng và từng loại hình dịch vụ được cấu
thành bởi rất nhiều nhân tố.
Cuối cùng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm còn có thể hiểu là sự thể
vượt trội về chất lượng, giá cả và hình thức lưu chuyển của nó trên thị trường,

tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong việc tiếp cận và sử
dụng nó. Năng lực cạnh tranh có thể được hiểu là khả năng giành lợi thế,
chiếm ưu thế trong cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại
trên cùng đoạn thị trường tại cùng thời điểm. Có nghĩa là, những sản phẩm
mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có
khả năng cạnh tranh cao hơn.
Nhìn chung, để nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp/ ngành thì điều quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm
và lấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm làm nền tảng phát triển. Bởi lẽ, sản
phẩm đại diện cho doanh nghiệp trên thị trường, do vậy năng lực cạnh tranh
của sản phẩm chính là một phần tạo tiền đề hình thành nên năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của quốc gia và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành cũng gắn bó rất mật thiết và phụ
thuộc lẫn nhau. Một quốc gia có vị thế cạnh tranh tốt trên trường quốc tế sẽ
giúp các doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập vào các thị trường quốc tế hơn, từ
đó xây dựng được năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp/ngành được tốt hơn.
Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của quốc gia là một điều kiện đủ để năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành được nâng cao. Ngược lại, khi các
doanh nghiệp/ngành có một năng lực cạnh tranh tốt thì sẽ thu được nhiều lợi
nhuận, đem lại nguồn thu lớn cho kinh tế của quốc gia, tác động tích cực đến
nền kinh tế, từ đó cũng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia
dưới con mắt của bạn bè năm châu. Qua đó, chúng ta thấy được, mối quan hệ
hết sức mật thiết của 3 cấp độ cạnh tranh trên. Việc phân loại hoàn toàn mang
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
9
Chuyên đề tốt nghiệp
tính chất tương đối.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một mặt hàng, chúng ta có rất nhiều
tiêu chí xét ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên đặt trong phạm vi bài nghiên

cứu về các sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, thì để đánh giá tổng
quát về năng lực cạnh tranh của hàng hóa chúng ta cần so sánh các sản phẩm
đó với các đối thủ cạnh tranh dựa trên những tiêu chí cơ bản như: mức doanh
thu của mặt hàng xuất khẩu, thị phần của sản phẩm, chênh lệch giữa chi phí
sản xuất và giá cả của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mức độ vệ sinh và uy
tín của sản phẩm.
1.1.3.1. Mức doanh thu hàng hoá xuất khẩu
Doanh thu của một sản phẩm nào đó qua các năm là một chỉ tiêu trực
tiếp phản ánh năng lực cạnh tranh của 1 loại hàng hóa, bởi số lượng tiêu thụ
của hàng hóa thể hiện sức hấp dẫn của nó trong mắt người tiêu dùng. Qua đó
người ta có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của hàng hóa này so với
hàng hóa khác. Khi một hàng hóa được tiêu thụ với số lượng nhiều hơn so với
các hàng hóa cùng loại thì hàng hóa đó được coi là có năng lực cạnh tranh cao
trên thị trường đang xét.
Theo kinh tế học vi mô, doanh thu được xác định bởi công thức sau:
TR= P.Q
Trong đó
TR: Doanh thu
P : Giá của sản phẩm
Q : Lượng tiêu thụ sản phẩm.
1.1.3.2. Thị phần hàng dệt may xuất khẩu
Nếu một hàng hóa chiếm được một thị phần cao hơn so với các mặt hàng
thay thế cùng loại trên thị trường thì có thể tất yếu khẳng định năng lực cạnh
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tranh của hàng hóa đó là rất cao. Hiện nay thị phần có thể được hiểu là thị
phần trong nước và thị phần chiếm lĩnh trên thế giới. Bên cạnh đó, một hàng
hóa của một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh lớn khi nó có khả năng
thâm nhập và chiếm lĩnh được nhiều thị trường khác nhau một cách nhanh

hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác. Đặc biệt là phải liên tục giữ vững và
duy trì được thị phần của mình trong khoảng thời gian dài nhằm hướng đến sự
phát triển bền vững.
Để xác định qui mô thị trường thị phần, chúng ta có công thức tính thị
phần của hàng hóa xuất khẩu trên một thị trường như sau:
MS =
%100x
M
MA

Trong đó:
MS là thị phần của hàng hóa.
MA là số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường
M là tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường.
Việc xác định chỉ tiêu này sẽ phản ánh một cách đúng nhất thị phần của
một loại hàng hóa trên thị trường so với các loại hàng hóa cùng loại. Chỉ tiêu
đánh giá ở trên càng lớn tương ứng với việc thị phần của hàng hóa đó chiếm
lĩnh càng lớn thì năng lực cạnh tranh của hàng hóa càng lớn, và nguợc lại
hàng hóa sẽ có năng lực cạnh tranh yếu kém nếu thị phần của nó chỉ chiếm
một phần nhỏ không đáng kể trên thị trường.
1.1.3.3.Chi phí sản xuất và giá hàng dệt may xuất khẩu
Cạnh tranh bằng chi phí có thể được coi là một xuất phát điểm, một
nguyên nhân chính dẫn đến quá trình cạnh tranh trên thị trường. Chi phí được
tính ở hầu như tất cả các khâu từ sản xuất, phân phối,….Tuy nhiên chi phí chỉ
là điều kiện cần, điều kiện ban đầu để đem lại tiền đề vững chắc nhằm nâng
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
11
Chuyên đề tốt nghiệp
cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.
Trên thị trường hàng hóa, giá cả của hàng hóa có thể được sử dụng như

một chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Thực tế cho
thấy chiến lược giá cả đã đem đến thành công cho rất nhiều công ty như hãng
hàng không Southwest của Hoa Kỳ, công ty bách hóa tổng hợp lớn nhất thế
giới Wal- Mart thành công với chiến lược giá cả thấp... Các công ty có thể đặt
giá sản phẩm thấp hơn giá thị trường để chấp nhận mức lãi suất thấp nhưng
bù lại có được số lượng tiêu thụ sản phẩm lớn, và từ đó nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm với người tiêu dùng. Tuy nhiên những công ty đi đầu
về giá cả thấp cũng không thể bất cẩn vì rất có thể sẽ có một công ty khác với
giá cả thấp hơn sẽ bất thình lình xuất hiện trên thị trường, làm mức độ cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường càng trở nên gay gắt.Việc cân đối chênh
lệch giữa hai yếu tố này là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh
tranh của sản phẩm giữa các đối thủ khác nhau trên cùng một thị trường hoặc
ở các thị trường khác nhau.
Công thức tính DRC:
DRCj = (DCj)/IVAj


Trong đó:
- DCj là chi phí trong nước cho các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội để
sản xuất ra sản phẩm j
- IVAj là trị giá gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới.
Hệ số DRC càng cao có nghĩa là càng tốn nhiều các nhân tố sản xuất trong
nước để tạo ra 1 đồng trị giá gia tăng theo giá thế giới, nên không hiệu quả.
Bằng việc tính mức chênh lệch giữa giá bán và chi phí để từ đó có giải
pháp cân đối 2 yếu tố này một cách hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
12
Chuyên đề tốt nghiệp
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
1.1.3.4. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu

Chất lượng sản phẩm, hàng hóa không những là thước đo quan trọng
quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan
hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh trên thị trường.Chất lượng sản
phẩm, hàng hóa càng trở nên quan trọng hơn khi sản phẩm, hàng hóa đó
hướng nhiều đến xuất khẩu. Khi đó, sản phẩm đó không chỉ đại diện cho
doanh nghiệp sản xuất ra nó mà còn là uy tín, là danh dự quốc gia.
Tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa được qui định theo ISO9000. Nhằm
đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng, tránh tình trạng bị sử dụng những hàng
hóa kém chất lượng. Đây là hệ thống tiêu chuẩn quốc tế được coi là không bắt
buộc, tuy nhiên các sản phẩm khi được có bằng ISO 9000 sẽ nâng cao được
năng lực cạnh tranh hơn rất nhiều so với các sản phẩm khác. Bởi lẽ, điều đó
thể hiện sự ổn định về chất lượng của sản phẩm, sự minh bạch trong sản xuất
của doanh nghiệp và tạo được lòng tin với người tiêu dùng.
Bên cạnh hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, mỗi quốc gia đều có
những hệ thống đánh giá chất lượng sản phẩm riêng. Vì vậy, những sản phẩm
ngoài việc có bằng ISO 9000 còn có thể thực hiện việc công nhận các tiêu
chuẩn chất lượng của nước nhập khẩu để từ đó tạo được uy tín lớn hơn từ phía
thị trường nhập khẩu.
1.1.3.5. Mức độ vệ sinh công nghiệp, đảm bảo môi trường của hàng
xuất khẩu
Hiện nay nhà nước và các tổ chức quốc tế đã đưa ra các qui định nhằm
đánh giá và đảm bảo an toàn cho người sử dụng hàng hóa, bảo vệ môi trường
sinh thái và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Các qui định này thường được cụ thể hóa qua các tiêu chuẩn như sau:
Tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái: Được qui định trong tiêu
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
13
Chuyên đề tốt nghiệp
chuẩn ISO14000. Trong đó qui định đối với các cơ sở sản xuất ngoài việc
đảm bảo chất lượng sản phẩm còn phải có tránh nhiệm và các biện pháp giải

quyết đối với các chất phế thải gây ô nhiễm môi trường và việc khai thác
nguồn nguyên liệu tránh tình trạng mất cân bằng sinh thái.
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội: là hệ thống tiêu chuẩn SA8000. Trong
đó, qui định đối với các cơ sở sản xuất phải đảm bảo điều kiện làm việc đủ
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn, trách nhiệm bình thường cho người lao động, đảm
bảo quyền lợi và lợi ích theo các qui định của tổ chức lao động quốc tế và liên
hiệp quốc đã đưa ra. Đồng thời, cấm việc sử dụng lao động cưỡng bức, lao
động trẻ em và lao động quá tuổi để tham gia sản xuất sản phẩm.
1.1.3.6. Mức độ uy tín hàng xuất khẩu trên thị trường
Theo tâm lý người tiêu dùng, điều gì sẽ khiến họ thực sự tin tuởng vào
một sản phẩm và để họ đưa ra được quyết định mua sản phẩm đó? Ta thấy
rằng, bên cạnh những yếu tố như giá cả, mẫu mã, chất lượng,…. một yếu tố
cũng góp phần đáng kể vào quyết định của người tiêu dùng chính là uy tín
hay thương hiệu của sản phẩm trên thị trường.Tỉ lệ phần trăm số luợng khách
hàng mua sản phẩm có uy tín và thuơng hiệu sẽ cao hơn rất nhiều so với các
sản phẩm chưa có vị thế và thương hiệu trên thị trường. Tuy nhiên, uy tín của
sản phẩm trên thị trường không thể chỉ xây dựng trong một thời gian ngắn
hạn mà nó còn thể hiện cả một quá trình dài cố gắng xây dựng thương hiệu,
cố gắng hoàn thiện không ngừng sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng để
sản phẩm luôn tồn tại trong tâm trí người tiêu dùng.Chính vì những lẽ đó, so
sánh mức độ uy tín của sản phẩm trên thị trường cũng là một trong những tiêu
chí để đánh giáănng lực cạnh tranh của hàng hóa.
1.1.4. Các công cụ thường dùng để nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hoá xuất khẩu
Căn cứ vào những tiêu chí đánh giá về năng lực cạnh tranh của hàng hóa,
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
14
Chuyên đề tốt nghiệp
chúng ta dễ dàng gặp được những công cụ thường dùng tương ứng nhằm mục
đích nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa. Ví dụ như cạnh tranh về chất

lượng sản phẩm như thay đổi kiểu dáng, mẫu mã cho bắt mắt của người tiêu
dùng, điều chỉnh lại công thức chế biến …. Tuy nhiên, sẽ không quá ngạc
nhiên nếu một sản phẩm khác lại có khả năng cạnh tranh mạnh hơn hẳn và
đánh bật các đối thủ chỉ nhờ vào công cụ định giá sản phẩm thấp hơn giá thị
trường và bằng với giá kì vọng của khách hàng. Vậy đâu là công cụ sẽ đem lại
hiệu quả nhất? Thực chất, để nâng cao được năng lực cạnh tranh của hàng
hóa, chúng ta cần biết cách sử dụng linh hoạt đồng thời các công cụ khác
nhau. Sau đây là 3 công cụ chính:
1.1.4.1 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh
quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Trong điều kiện hiện nay,
mức sống của người dân ngày càng đựơc nâng cao, tức là nhu cầu có khả
năng thanh toán của người tiêu dùng tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã
và sẽ có xu hướng thay vị trí cho sự cạnh tranh bằng chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều
kiện nhất định về kinh tế kỹ thuật thể hiện ở nhiều mặt khác. Do vậy để nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải luôn luôn giữ vững
và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm như đáp ứng được đầy đủ tiêu
chuẩn về chất lượng của nhà nước, các tổ chức, các thị trường qui định.
Bên cạnh đó chất lượng sản phẩm còn phải đem lại lợi ích tiêu dùng tối
đa và đạt được kì vọng tối đa cho khách hàng. Khi đó người tiêu dùng sẽ tăng
khối lượng hàng hóa tiêu thụ, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp
muốn giành được thắng lợi trong cạnh tranh đi đầu về chất lượng. Khi chất
lượng không còn được đảm bảo, không thoả mãn nhu cầu khách hàng thì
ngay lập tức khách hàng sẽ rời bỏ doanh nghiệp và kết quả này sẽ thể hiện rõ
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
15
Chuyên đề tốt nghiệp
ràng nhất sự tụt giảm năng lực cạnh tranh của hàng hóa, và doanh nghiệp đó..

1.1.4.2. Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm
Giá bán sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người
bán hay doanh nghiệp bán dự định có thể nhận được từ người mua thông qua
việc trao đổi hàng hoá đó trên thị trường.Hiện nay, có rất nhiều cách để định
giá bán sản phẩm. Các cách thường sử dụng bao gồm:
Thứ nhất, chính sách định giá thấp là cách định giá bán thấp hơn mức
giá thị trường. Chính sách định giá thấp có thể hướng vào các mục tiêu
khác nhau, tuỳ theo tình hình sản xuất của thị trường và đựơc chia ra theo
các cách khác nhau như: (1) Định giá thấp hơn so với thị trường nhưng cao
hơn giá trị sản phẩm(2) Định giá bán thấp hơn giá thị trường và cũng thấp
hơn giá trị sản phẩm
Thứ hai là chính sách định giá cao tức là mức giá bán cao hơn mức giá
thống trị trên thị trường và cao hơn giá trị sản phẩm. Chính sách định giá cao
được áp dụng trong rất nhiều trường hợp (1) Khi sản phẩm mới tung ra thị
trường, người tiêu dùng chưa biết rõ chất lượng của nó, chưa có cơ hội để so
sánh về giá áp dụng giá bán cao sau đó giảm dần; (2) Khi doanh nghiệp hoạt
động trong thị trường độc quyền, áp dụng giá cao (giá độc quyền ) để thu lợi
nhuận độc quyền; (3) Áp dụng với các sản phẩm thuộc loại cao cấp, hoặc sản
phẩm có chất lượng đặc biệt tốt phù hợp với người tiêu dùng thuộc tầng lớp
thượng lưu; (4) Đối với các sản phẩm thuộc loại không khuyến khích người
tiêu dùng mua, áp dụng giá bán cao để thúc đẩy họ tìm sản phẩm thay thế.
Thứ ba là chính sách ổn định giá bán tức là giữ nguyên giá bán theo thời kỳ
và địa điểm. Chính sách này giúp doanh nghiệp thâm nhập, giữ vững và mở rộng
thị trường.
Thứ tư là chính sách định giá theo giá thị trường. Đây là cách định giá
phổ biến của các doanh nghiệp hiện nay tức là giá bán sản phẩm xoay quanh
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
16
Chuyên đề tốt nghiệp
mức giá thị trường của sản phẩm đó.

Thứ năm là chính sách giá phân biệt. Với cùng một loại sản phẩm nhưng
doanh nghiệp định ra nhiều mức giá khác nhau
Thứ sáu là chính sách bán phá giá. Đây là chính sách định mức giá bán
thấp hơn hẳn giá thị trường và thấp hơn cả giá thành sản xuất. Mục tiêu của
bán giá là tối thiểu hoá rủi ro hay thua lỗ hoặc để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội mức sống của
người dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh
quan trọng nhất của doanh nữa nhưng nếu doanh nghiệp biết kết hợp công cụ
giá với các công cụ khác thì kết quả thu được sẽ rất to lớn.
1.1.4.3. Cạnh tranh bằng các hoạt động hỗ trợ và tiêu thụ sản phẩm
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt
chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải
biết tổ chức mạng lưới bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng
hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Thông thường kênh tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp được chia thành: A là kênh trực tiếp ngắn, từ
doanh nghiệp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, B là kênh trực tiếp dài
( từ DN tới người bán lẻ, sau đó đến tay người tiêu dùng), C là kênh gián tiếp
ngắn ( từ DN tới các đại lý, tiếp đó phân tới các người bán lẻ và sau cùng đến
tay người tiêu dùng).
Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể tiến
hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán
hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế....
Cho đến nay, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đang dần trở thành một chính
sách tốt và chiếm ưu thế, thậm trí quyết định đến sự sống còn của doanh
nghiệp trên thị trường. Trước nhất là làm tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá
thông qua việc thu hút sự quan tâm của khách hàng tới sản phẩm của doanh
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
17
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp. Tiếp theo là cải thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường

( thương hiệu, chữ tín của doanh nghiệp). Cuối cùng là mở rộng quan hệ làm
ăn với các đối tác trên thị trường, phối hợp với các chủ thể trong việc chi phối
thị trường, chống hàng giả.
1.1.4.4 Cạnh tranh bằng kỹ thuật công nghệ sản xuất
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật công nghệ như
ngày nay, một chìa khoá thành công trên thị trường cạnh tranh khốc liệt chính
là kỹ thuật công nghệ sản xuất. Nếu doanh nghiệp nắm trong tay hệ thống kỹ
thuật công nghệ sản xuất cao thì hiệu quả sản xuất lớn gấp nhiều lần so với
các chi phí sản xuất ban đầu hay nói cách khác công cụ cạnh tranh này đuợc
áp dụng nhằm mục đích sử dụng tối đa hiệu quả của nó, tránh sự lãng phí.
Tuỳ theo khả năng tài chính cụ thể của doanh nghiệp và những mục tiêu chiến
lược khác nhau, việc đầu tư vào kỹ thụât công nghệ sản xuất của từng doanh
nghiệp là khác nhau. Thông thường, việc phân bổ đầu tư vào kỹ thuật công
nghệ sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố như sau:
- Trình độ công nghệ hiện đại của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể
mua các phát minh sáng chế và độc quyền nắm giữ chìa khoá của công nghệ
đó. Nhằm đem lại sự vựơt trội trong việc sản xuất sản phẩm so với các đối thủ
cạnh tranh. Tuy nhiên, việc đầu tư vào trình độ công nghệ cao là rất lớn và
không dễ dàng. Chỉ khi doanh nghiệp có tiềm lực tài chính đủ mạnh và nguồn
nhân lực chất lượng cao thì việc áp dụng phương pháp này mới đạt hiệu quả
tối đa như mong muốn
- Qui mô và năng lực sản xuất: đầu tư phát triển theo chiều rộng tức là về
qui mô sản xuất, nhằm sản xuất một khối lượng hàng hoá lớn từ đó dần dần
chiếm lĩnh độc quyền thị trường, điều tiết giá thành sản phẩm. Đồng thời
doanh nghiệp có nhiều cơ hội để tiếp xúc với khách hàng hơn, nên dễ nắm bắt
và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
18
Chuyên đề tốt nghiệp
- Nguồn cung cấp vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho yếu tố đầu vào.

Nếu doanh nghiệp đầu tư trọng điểm vào việc phát triển nguồn cung cấp các
yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất kinh doanh sẽ đem lại sự duy trì bền
vững trong sản xuất của doanh nghiệp, và giảm phần nào chi phí sản xuất đầu
vào trong quá trình sản xuất
1.1.5. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của hàng cao su tự nhiên xuất khẩu
Phụ lục: Khái quát chung về đặc điểm của cây công nghiệp cao su và
hoạt động khai thác mủ
* Về khí hậu và đất đai
Cao su là cây nhiệt đới điển hình nên nhiệt độ thích hợp trong khoảng 20
- 30oC, và nhiệt độ là 24 - 28oC. Nước ta là một nước có khí hậu nhiệt đới
gió mùa nên phần lớn diện tích canh tác có thể thỏa mãn điều kiện này. Nhiệt
độ thấp và cao đều ảnh hưởng không tốt cho sinh trưởng phát triển của cây và
sự chảy mủ trong khai thác. Vùng trồng cao su yêu cầu lượng mưa đạt 1800 -
2500mm/năm và ẩm độ từ 75% trở lên.Ngoài ra sự phân bố mưa, cường độ
mưa và tính chất cơn mưa cũng là những yêu cầu rất quan trọng. Vì thông
thường việc khai thác mủ thường tiến hành vào buổi sáng nên nếu số ngày
mưa vào buổi sáng nhiều thì số lần khai thác mủ giảm. Khi đó, năng suất mủ
sẽ bị hạn chế. Tùy thuộc cường độ cơn mưa, đồng thời căn cứ địa hình của
vùng mà chúng ta cần có biện pháp canh tác, trồng mới hợp lý. Một số biện
pháp như làm ruộng bậc thang, trồng cây theo đường đồng mức, trồng xen với
các cây cải tạo đất và chống xói mòn để hạn chế hiện tượng rửa trôi, xói mòn
ở những khu vực này.
Cây cao su có thể sống trên hầu hết các loại đất khác nhau ở vùng nhiệt
đới ẩm ướt, nhưng thành tích và hiệu quả kinh tế của cây là một vấn đề cần
chú ý trong khi nhân trồng trên quy mô lớn. Do vậy, việc chọn lựa các vùng
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
19
Chuyên đề tốt nghiệp
đất thích hợp cho cây cao su là một vấn đề cơ bản cần đặt ra. Cây cao su thích

hợp với các vùng đất có bình độ tương đối thấp dưới 200m. Càng lên cao
càng bất lợi do càng lên cao thì nhiệt độ càng thấp và gió càng mạnh.
Một kết quả nghiên cứu của Malaysia cho thấy, cứ lên cao thêm 200m thì thời
gian khai thác càng kéo dài 3 – 6 tháng. Trong khi đó, càng lên cao thì sản
lượng cây cao su càng cao, theo Djikman (1946) thì mức sản lượng ở 500m
tốt hơn ở 250m. Nhìn chung, biên độ ít ảnh hưởng đến sản lượng hơn sự tăng
trưởng. Bình độ lý tưởng được khuyến cao trồng cao su là:i) Vùng xích đạo,
trong đó có Việt Nam, có thể trồng đến 500 – 600m;ii) Vị trí có vĩ độ 5 – 60
có thể trồng lên 400m.
Đất càng dốc thì xói mòn càng mạnh, khiến các chất dinh dưỡng trong
đất nhất là trong lớp đất mặt mất đi nhanh chóng. Khi trồng cao su trên đất
dốc cần phải thiết lập các hệ thống bảo vệ đất, chống xói mòn rất tốn kém như
đê, mương, đường đồng mức. Hơn nữa các diện tích cao su trồng trên đất dốc
sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác trồng mới, chăm sóc, thu mủ và vận
chuyển mủ về nhà máy chế biến. Vì vậy, cao su thường được trồng trên nền
đất có độ dốc nhỏ hơn 8.
* Thời gian khai thác mủ cao su
Khi cây đạt độ tuổi 5-6 năm thì người ta bắt đầu thu hoạch nhựa mủ. Các
cây già hơn cho nhiều nhựa mủ hơn, nhưng chúng sẽ ngừng sản xuất nhựa mủ
khi đạt độ tuổi 26-30 năm. Thời gian thích hợp nhất cho việc cạo mủ từ 7 đến
8 giờ sáng. Cây cao su chỉ được thu hoạch 9 tháng, 3 tháng còn lại không
được thu hoạch vì đây là thời gian cây rụng lá, nếu thu hoạch vào mùa này,
cây sẽ chết
* Kỹ thụât khai thác mủ cao su
Cây cao su có thể cao tới trên 30m. Nhựa mủ màu trắng hay vàng có
trong các mạch nhựa mủ ở vỏ cây. Các mạch này tạo thành xoắn ốc theo thân
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
20
Chuyên đề tốt nghiệp
cây theo hướng tay phải, tạo thành một góc khoảng 30 độ với mặt phẳng. Khi

khai thác mủ cao su, tạo các vết rạch vuông góc với mạch nhựa mủ, với độ
sâu vừa phải sao cho có thể làm nhựa mủ chảy ra mà không gây tổn hại cho
sự phát triển của cây, và nhựa mủ được thu thập trong các thùng nhỏ. Quá
trình này gọi là cạo mủ cao su. Việc cạo mủ rất quan trọng và ảnh hưởng tới
thời gian và lượng mủ mà cây có thể cung cấp. Bình thường bắt đầu cạo mủ
khi chu vi thân cây khoảng 50 cm. Cạo mủ từ trái sang phải, ngược với mạch
mủ cao su. Độ dốc của vết cạo từ 20 đến 350, vết cạo không sâu quá 1,5 cm
và không được chạm vào tầng sinh gỗ làm vỏ cây không thể tái sinh. Khi cạo
lần sau phải bóc thật sạch mủ đã đông lại ở vết cạo trước
* Hoá chất và phân bón
Đạm là yếu tố dinh dưỡng rất quan trọng, đóng vai trò tạo năng suất và
chất lượng. Lân có vai trò quan trọng với cây cao su, tuy nhiên khả năng hút
lân ở giai đoạn cây non yếu, được cải thiện khi cây trưởng thành. Kali có vai
trò quan trọng tới sự sinh trưởng, phát triển và năng suất mủ của cao su.
Ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng, cây cao su hút nhiều chất trung lượng
như Canxi, magiê, lưu huỳnh và các chất vi lượng như Mangan, sắt, bo,
molypđen, kẽm, đồng.
1.1.5.1. Đặc điểm của mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu
Mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu
đầu vào khai thác từ thiên nhiên. Do cao su tự nhiên được sản xuất với thành
phần chính từ mủ cao su là chất lỏng chiết ra từ cây cao su thiên nhiên. Chính
bởi lẽ vậy, mặt hàng cao su tự nhiên mang những đặc trưng riêng của cây
công nghiệp cao su như là khí hậu đất đai, thời gian khai thác mủ, kỹ thuật
khai thác, hoá chất phân bón và diện tích trồng.
Hoạt động sản xuất cao su tự nhiên xuất khẩu cần lượng vốn đầu tư rất lớn
nhưng thời gian thu hồi vốn lại rất chậm. Vốn đầu tư không chỉ vào qui trình sản
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
21
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất chế biến mà ngay từ giai đoạn đầu tiên trồng trọt và khai thác mủ cao su

Ngành sản xuất cao su tự nhiên xuất khẩu thu hút một nguồn lực lao
động rất lớn, đóng góp vai trò to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm
cho xã hội. Theo thống kê năm 2008, ngành cao su xuất khẩu đã tạo ra
250.000 – 270.000 việc làm cho người lao động trên cả nước
Việc khai thác mủ cao su để sản xuất cao su tự nhiên có liên quan trực
tiếp tới môi trường sinh thái. Bởi lẽ cây cao su là một loại cây độc, chất mủ
của cây là một loại chất độc cho con người khai thác nó. Cây cao su còn độc
ngay cả trong việc trao đổi khí ngay cả ban ngày và ban đêm. Không bao giờ
xây dựng nhà để ở trong rừng cao su, khả năng hiếm khí. Do vậy hoạt động
khai thác luôn luôn được kiểm soát chặt chẽ.
1.1.5.2. Các nhân tố đặc trưng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu
Việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của hàng
xuất khẩu là rất cần thiết. Qua đó, chúng ta có thể đưa ra những giải pháp liên
quan đến từng nhân tố để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt
hàng cao su xuất khẩu. Với nội dung chủ yếu đã xác định nêu trên thì có rất
nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển thị trường xuất khẩu cao su của Việt
Nam. Các nhân tố ảnh hưởng bao gồm :
* Chất lượng của cao su xuất khẩu
Cho đến nay, không ai có thể phủ nhận được vai trò và vị trí quan trọng
của yếu tố chất lượng sản phẩm trong cạnh tranh. Bởi lẽ chất lượng là một
yếu tố cấu thành nên sản phẩm và tạo nên giá trị sử dụng cho sản phẩm đó.
Đây là một trong những tiêu chí ban đầu để người mua đưa ra quyết định tiêu
dùng của mình. Thuộc tính này không loại trừ bất kì một loại hàng hóa nào,
trong đó có cả hàng dệt may.
Một doanh nghiệp không thể phát triển bền vững nếu không quan tâm
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
22
Chuyên đề tốt nghiệp
đến vấn đề chất lượng của sản phẩm. Khi chất lượng của hàng hóa được nâng

cao và thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì sự tác động sẽ trở nên
rất mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường. Và đây
chính là sự lựa chọn phát triển theo chiều sâu của doanh nghiệp và là một lựa
chọn thông minh và đúng đắn. Đặc biệt khi đưa sản phẩm vượt biên giới đến
với tay của những người tiêu dùng của các nước khác như sản phẩm cao su tự
nhiên Việt Nam
* Số lượng sản phẩm
Số lượng sản phẩm sản xuất ra là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng
lực cạnh tranh. Khi số lượng sản phẩm cao su của Việt Nam trên tất cả các thị
trường trên thế giới lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh thì đồng nghĩa với
sự chiếm lĩnh thị trường của ta đang diễn ra mạnh mẽ và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm đang lớn dần. Doanh số sản xuất ra gắn liền với năng suất lao
động trong hai giai đoạn khai thác mủ cao su và chế biến cao su tự nhiên của
Việt Nam. Khi năng suất của hai khu vực này cao tương đối so với các đối thủ
cạnh tranh thì năng lực cạnh tranh của Việt Nam đang dần được khẳng định.
* Cơ cấu chủng loại sản phẩm
Từ nguồn nguyên liệu đầu vào, thông qua công nghiệp chế biến, sản
phẩm cao su tự nhiên xuất khẩu trên thị trường có nhiều chủng loại khác
nhau. Chiến lược xác định cơ cấu chủng loại sản phẩm sản xuất ra xuất khẩu
ra thị trường thế giới góp phần tác động lớn đến năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Khi ta đáp ứng được cơ cấu chủng loại mà thế giới cần thì các sản
phẩm ta sản xuất ra đều được tiêu thụ đúng mục tiêu. Ngược lại, khi đưa ra
chiến lược sản xuất không phù hợp thì chủng loại sản phẩm ta sản xuất nhiều
lại không đạt được sức muc như mong muốn. Do vậy, năng lực cạnh tranh đã
trở nên yếu kém. Một cách đơn giản, ta cần phải tìm hiểu kỹ xu hướng tiêu
dùng để cung cấp và đáp ứng đúng hướng. Theo tìm hiểu, cơ cấu chủng loại
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
23
Chuyên đề tốt nghiệp
cao su tự nhiên của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới chưa hợp lý và

có nhiều chênh lệch, dẫn đến tiềm năng của ngành cao su lớn nhưng chưa
được phát huy tối đa.
* Trình độ lao động khai thác và canh tác
Việc khai thác mủ cao su và chế biến cao su tự nhiên đều không hề đơn
giản, đòi hỏi một kỹ thuật tay nghề cao. Khi trình độ lao động kỹ thuật đạt
chất lượng cao thì đem lại rất nhiều hiệu quả trực tiếp và kéo theo chất lượng
sản phẩm cao, năng suất lao động cao. Rõ ràng cho thấy, năng lực cạnh tranh
của sản phẩm cũng được nâng cao.
* Thương hiệu của sản phẩm
Ngay nay, quá trình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Do vậy hàng
hóa không chỉ cần có một chất lượng tốt, một giá thành hợp lý, cùng các yếu
tố khác đã nêu ở trên là đủ mà còn cần phải có một uy tín và thương hiệu trên
thị trường. Một hàng hóa càng có uy tín cao nhãn hiệu càng nổi tiếng thì
khách hàng càng ưa chuộng và đặt lòng tin hoàn toàn vào sản phẩm họ chọn
mua. Điều này hoàn toàn đúng ở các thị trường lớn như các nước phát triển.
Các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn chưa có hoặc có rất ít thương hiệu quốc
tế nổi tiếng. Đó là nguyên nhân của việc năng lực cạnh tranh của cao su tự
nhiên xuất khẩu Việt Nam chỉ được đánh giá rất thấp và gặp nhiều trở ngại
1.1.6. Kinh nghiệm của một số nước về giải pháp nâng cao sức cạnh
tranh hàng cao su tự nhiên xuất khẩu và bài học kinh nghiệm rút ra đối
với Việt Nam
Với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển
mặt hàng cao su tự nhiên xuất khẩu của Việt Nam, dưới đây bài nghiên cứu
xin được đề cập đến một số kinh nghiệm của các nước xuất khẩu hàng cao su
tự nhiên đã đạt được thành công trong thời gian qua như Thái Lan, Inđônêsia,
Malaysia và để từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
24
Chuyên đề tốt nghiệp
đường phát triển.

1.1.6.1 Hiệp định hợp tác giữa Thái Lan, Inđonexia, Malayxia ( Hội
đồng cao su IRTC )
Ba nước Thái Lan, indonexia, Malaysia là những nước sản xuất và xuất
khẩu cao su thiên nhiên hàng đầu thế giới, đã có những thỏa thuận hợp tác và
kiên kết chặt chẽ về quản lý sản xuất, phát triển thị trường và xuất khẩu cao
su thiên nhiên. Giải pháp liên kết, hợp tác quản lý sản xuất và xuất khẩu cao
su thiên nhiên giữa 3 nước đã có tác dụng điều tiết được thị trường xuất khẩu
cao su thế giới, hạn chế được sự suy giảm giá cao su, tăng cường vị thế của họ
trong việc cung ứng cao su thiên nhiên trên thế giới.
Hiệp định hợp tác giữa Thái Lan, Indonexia, Malayxia có hiệu lực từ
năm 2002 đã thể hiện cụ thể sự hợp tác quốc tế giữa 3 nước trong việc phát
triển thị trường xuất khẩu cao su thiên nhiên. Một trong những kế hoạch hành
động quan trọng là 3 nước thực hiện giảm 4% sản lượng và 10% xuất khẩu
cao su thiên nhiên bắt đầu tư năm 2002. Để thực thi kế hoạch hành động theo
thỏa thuận của Hiệp Định hợp tác, ba nước đã thành lập hội đồng cao su được
gọi là ITRC gồm đại diện của chính phủ và doanh nghiệp thuộc ngành cao su
của ba nước nhằm kiểm soát việc dự trữ và quyết định thời gian, mức xuất
khẩu cao su nhằm đảm bảo quyền lợi chung.
Việc ký kết hiệp định hợp tác quốc tế, đề ra chương trình hành động cụ
thể giữa 3 nước hàng đầu thế giới về quản lý sản xuất, phát triển thị trường
xuất khẩu cao su thiên nhiên là một giải pháp hữu hiệu trong việc điều tiết thị
trường và bình ổn giá cả xuất khẩu cao su trên thế giới, nhất là tình hình giá
cao su suy giảm thấp như hiện nay.
1.1.6.2 Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan hiện là nước sản xuất và xuất khẩu cao su thiên nhiên lớn nhất
thế giới. Từ năm 2002 – 2008 sản lượng xuất khẩu cao su thiên nhiên của
Nguyễn Bích Ngọc Lớp: KTQT 47
25

×