Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.61 KB, 38 trang )

Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước đã
chuyển nền kinh tế nước ta từ tập trung, ưu tiên phát triển tư liệu sản xuất (công nghiệp
nặng) sang thực hiện đồng thời cả ba chương trình kinh tế: Lương thực; xuất khẩu; hàng
tiêu dùng (Công nghiệp nhẹ) và thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế. Vì vậy mà
ngành dệt may đã có điều kiện phát triển nhanh chóng. Đến nay ngành công nghiệp này
là một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn của nước ta. Kết quả xuất
khẩu của ngành dệt may có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trước sự biến động của thị trường hàng dệt may thế giới đã và đang đe doạ trực
tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Đặc biệt là hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU vì theo như hiệp định ATC (Hiệp
định dệt may) thì kể từ ngày 1/5/2005 các nước thành viên EU không còn được áp đặt
hạn ngạch với hàng dệt may nhập khẩu vào EU là thành viên của WTO nữa. Điều này
đã đặt dệt may nước ta vào một tình thế rất khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường EU.
Nó đòi hỏi nếu chúng ta muốn tiếp tục xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này thì chúng
ta phải đưa ra được những biện pháp thích hợp để thúc đẩy xuất khẩu.
Với mong muốn góp phần vào việc giải quyết những khó khăn của hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU trong thời gian tới. Trên cơ sở được sự hướng dẫn
của thầy Đỗ Đức Bình và nghiên cứu những tài liệu liên quan, em xin chọn đề tài “Thúc
đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU” làm đề án môn học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: xuất khẩu mặt hàng dệt may Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu về mặt không gian là thị trường EU, về
mặt thời gian từ năm 2000 đến nay và kiến nghị cho các năm tiếp theo.
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, tính toán, tham khảo tài liệu,
sách, báo, tạp chí…
Amphay Sayasack CQ494541
1


Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
4. Kết cấu đề án
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề án được chia
làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào EU của Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU.
Amphay Sayasack CQ494541
2
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
1.1 Cơ sở lý luận thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may
1.1.1 Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may
Để làm định hướng và đường chỉ dẫn vào nghiên cứu những vấn đề tiếp theo của
cơ sở lý luận thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may cũng như các vấn đề khác có liên quan
đến thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may thì một vấn đề quan trọng được đặt ra đó là trước
tiên chúng ta phải hiểu được thúc đẩy xuất khẩu dệt may là gì? Câu trả lời cho câu hỏi
này là tuỳ vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới và của khoa học công
nghệ, cũng như các giai đoạn khác nhau của sản phẩm được xuất khẩu mà việc thúc đẩy
xuất khẩu được sử dụng bằng các cách khác nhau. Nó không có một phương thức, hay
một biện pháp cố định nào được sử dụng liên tục để thúc đẩy xuất khẩu cho một sản
phẩm. Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may nó cũng không nằm ngoài qui luật chung đó.
Vì vậy mà với mỗi thời kỳ nó được sử dụng bằng những phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên có thể khái quát lại như sau:
Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may là một phương thức thúc đẩy tiêu thụ hàng dệt
may mà trong đó nó bao gồm tất cả các biện pháp, chính sách, cách thức… của Nhà
nước và các doanh nghiệp dệt may nhằm tạo ra các cơ hội và khả năng để tăng giá trị
cũng như sản lượng của hàng dệt may được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Như vậy, qua việc khái quát về thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may như trên cho thấy

thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may có những nội dung chủ yếu sau:
Thúc đẩy xuất khẩu là một cách thức để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Đây là một
vấn đề quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào nói chung. Và với bất
kỳ doanh nghiệp dệt may nào nói riêng. Như vậy, chúng ta cũng có thể hiểu rằng thúc
đẩy xuất khẩu là một hoạt động tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm.
Các biện pháp chính sách, cách thức . . . Nó có thể là những biện pháp cho thời kỳ
sản phẩm mới thâm nhập thị trường hoặc những biện pháp cho một sản phẩm đã được
cải tiến, hay là cho một sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường đó và đang tìm cách
cạnh tranh để giành giật thị phần.
Amphay Sayasack CQ494541
3
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
Kết quả của những biện pháp những chính sách đó là các cơ hội, các cơ hội có thể
được mang đến dưới nhiều dạng khác nhau. Cuối cùng là thực hiện được mục tiêu bán
nhiều hàng dệt may hơn ra thị trường nước ngoài. Chủ thể của thúc đẩy xuất khẩu là các
doanh nghiệp dệt may và Nhà nước, tức là vừa có cả chủ thể đại diện ở tầm vi mô và
chủ thể đại diện ở tầm vĩ mô, vừa có cả chủ thể tác động trực tiếp và chủ thể tác động
gián tiếp đến đối tượng được thúc đẩy xuất khẩu. Mà cụ thể ở đây là hàng dệt may.
1.1.2 Tính tất yếu của việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may
Mặc dù ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ tương đối phù hợp với tình
trạng cơ sở hạ tầng và khả năng tài chính ở nước ta, lại có được những thuận lợi cho sự
chuyển hướng trọng tâm phát triển nền kinh tế quốc dân của Đảng và Nhà nước. Cho
nên đã có được một số thành tựu nhất định trong thời kỳ đổi mới. Nhưng cũng do nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan khác nữa làm cho sản phẩm dệt may của nước ta chưa có
chỗ đứng thực sự trên thị trường. Mặt khác dệt may vẫn được coi là ngành công nghiệp
xuất khẩu mũi nhọn trong những năm tới của nước ta. Vì vậy mà việc thúc đẩy xuất
khẩu hàng dệt may của nước ta trong thời gian tới là tất yếu.
Việc mở rộng cửa thị trường cho hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào, nó
được sử dụng như là công cụ để các nước và khu vực buộc chúng ta phải mở rộng cửa
thị trường cho những hàng hoá khác của họ thâm nhập vào. Do đó mà để tránh việc phải

mở cửa thị trường trong nước quá lớn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của những ngành
kinh tế khác mà chúng ta muốn bảo hộ. Việc khai thác, tận dụng tối đa các kết quả đã có
được từ những hiệp định, thoả thuận song phương và đa phương là hết sức cần thiết.
Như vậy chúng ta có thể thấy thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của nước ta là tất yếu.
Không chỉ có nước ta coi ngành công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp xuất
khẩu chủ lực, mà còn có hàng loạt các nước đang phát triển khác nữa cũng coi ngành
dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực. Vì vậy mà họ cũng tập trung đầu tư và khuyến
khích phát triển ngành dệ may giống như những hoạt động đầu tư và khuyến khích của
nước ta. Thậm chí họ còn có những bước chuẩn bị sớm hơn và kỹ càng hơn chúng ta.
Do đó việc xuất khẩu hàng dệt may sẽ phải cạnh tranh gay gắt. Điều đó đòi hỏi chúng ta
phải có những hành động thúc đẩy xuất khẩu cho hàng dệt may Việt Nam.
Cùng với những bất lợi riêng có của hàng dệt may Việt nam là hàng dệt may của
nước ta chưa vào WTO thì hàng dệt may còn chịu chung một bất lợi giống như bất lợi
Amphay Sayasack CQ494541
4
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
của hàng dệt may của các nước trên thế giới đó là việc phải đối mặt với một hàng rào
bảo hộ ngày càng biến tướng tinh vi và hiện đại. Nhất là đối với hàng rào của thị trường
các nước phát triển. Điều đó dẫn đến hàng của dệt may nước ta sẽ không thể xuất khẩu
được nếu như không vượt qua được các rào cản. Chính vì vậy cần phải có biện pháp
thúc đẩy xuất khẩu nếu không muốn hàng dệt may Việt Nam "đứng ngoài" trước các thị
trường lớn và tiền năng.
Và cuối cùng, một lý do nữa cần được đề cập tới đó là việc tồn tại mâu thuẫn giữa
những điều kiện thuận lợi chó ngành dệt may phát triển lớn mạnh với những yếu tố khó
khăn về thị trường xuất khẩu (Cụ thể chúng sẽ được phân tích ở phần sau). Đã cho thấy,
để ngành dệt may Việt Nam có thể phát triển được tương xứng với những điều kiện
thuận lợi mà nó có, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực được trang bị mà không bị
rơi vào tình trạng đình trệ và suy thoái do sự mất cân đối giữa sự tăng lên của sản lượng
với hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục phát huy những thành tựu mà nó đã đạt được,
xứng đáng là ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam trên con đường Công nghiệp hoá

- hiện đại hoá đất nước, góp phần vào hội nhập kinh tế của Việt nam với kinh tế khu vực
và kinh tế thế giới. Đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có những biện pháp thúc đẩy
xuất khẩu.
1.2 Thị trường EU đối với hàng dệt may Việt Nam
1.2.1 Những điều cần lưu ý đối với thị trường EU.
Khởi đầu từ việc thành lập cộng đồng than thép Châu âu ngày 18/04/1997 cho đến
nay thì con số các nước tham gia vào liên minh Châu âu đã lên đến 25 quốc gia. Nó hình
thành lên một EU lớn mạnh nhất trên thế giới cả về kinh tế thương mại lẫn sự rộng lớn
của thị trường.
Thị trường EU là thị trường dệt may lớn nhất thế giới. Nhu cầu về hàng dệt may
của người dân EU bình quân khoảng 17kg/1năm và ngày càng có xu hướng gia tăng
theo kiểu sử dụng hàng hoá thời trang, khoảng 18,8 tỷ USD/năm hàng dệt may của EU
được nhập khẩu từ các nước bên ngoài. Một điều thuận lợi đó là, ngược với xu thế ngày
càng tăng của nhu cầu, tốc độ phát triển ngành dệt may của các nước EU có xu hướng
giảm xuống cả về mặt số lượng (÷5,1%) và lao động (÷1,2%). Như vậy, có thể thấy thị
trường EU trong tương lai sẽ tạo ra cơ hội rất lớn cho xuất khẩu hàng dệt may của nước
ta.
Amphay Sayasack CQ494541
5
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
Trong thời gian qua, nhằm tăng cường khả năng và tạo ra các cơ hội cho xuất khẩu
hàng dệt may vào thị trường đầy tiềm năng này, Nhà nước ta đã nỗ lực rất lớn trong việc
đàm phán với EU. Kết quả là đến ngày 1-1-2005 hàng dệt may Việt nam xuất khẩu vào
thị trường EU cũng không còn bị áp đặt hạn ngạch nhập khẩu của EU nữa, một sự kiện
được cho là sẽ làm biến đổi lớn về kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên
cũng cần lưu ý là khi hạn ngạch dệt may không còn thì hàng dệt may Việt Nam cũng
không còn những ưu đãi khác nữa mà phải cạnh tranh công bằng đối với hàng nước
khác.
1.2.2 Vai trò của thị trường EU đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Mặc dù chỉ mới thiết lập quan hệ xuất nhập khẩu chính thức về hàng dệt may được

khoảng hơn 10 năm trở lại đây. EU là một thị trường quan trọng đối với hàng dệt may
của nước ta, đóng góp một phần khá lớn vào kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may.
Đặc biệt là trong những năm tới thì vai trò của thị trường này không giảm mà nó còn có
ảnh hưởng nhiều hơn vì việc kết nạp thêm 10 thành viên mới của EU lần này gồm có cả
các nước trước đây là nước xã hội chủ nghĩa. Mà như chúng ta đã biết các nước xã hội
chủ nghĩa là những nước có quan hệ truyền thống đối với Việt Nam, cho nên cho phép
Việt Nam tận dụng những mối quan hệ truyền thống đó để xuất khẩu hàng dệ may của
Việt Nam sang thị trường EU thuận lợi hơn. Như vậy, trong tương lai thị trường EU với
sự lớn mạnh cả về qui mô, xu hướng tiêu dùng và những mối quan hệ truyền thống được
hâm nóng sẽ là nơi có triển vọng lớn cho hàng dệt may Việt Nam gia tăng cả về số
lượng lẫn giá trị.
Thị trường EU là nơi tập hợp của các nước có nền kinh tế phát triển nhất trên thế
giới. Vì vậy mà hệ thống các công cụ chính sách phục vụ cho hoạt động thương mại
được xây một cách đầy đủ và hoàn thiện nhất. Với hàng loạt các công cụ như: thuế
chống bán phá giá, yêu cầu xuất xứ hàng hoá, yêu cầu thủ tục nhập khẩu . . . Do đó khi
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiến hành xuất khẩu vào thị trường này có cơ hội
tiếp xúc với một hệ thống công cụ tiêu biểu của các nước phát triển, thông qua những
lần xuất khẩu mà học tập, tích lũy kinh nghiệm, đồng thời tăng cường khả năng chuyên
nghiệp hoá trong hoạt động xuất khẩu.
Hệ thống các hàng rào thương mại của thị trường EU với hàng loạt các tiêu chuẩn
rất cao như ISO 9000, ISO 14000 và HACCP . . . cho nên để xuất khẩu hàng dệt may
Amphay Sayasack CQ494541
6
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
của Việt nam vào thị trường EU thì buộc các doanh nghiệp phảI xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn của mình theo các tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 và HACCP. Như vậy, những
điều kiện của thị trường EU đã gián tiếp làm cho sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt
Nam tiến đến các tiêu chuẩn thế giới và làm tăng khả năng cạnh tranh cho hàng dệt may
của Việt nam trên thương trường thế giới.
Thị trường EU là cái nôi của nền công nghiệp thế giới và là nơi tập trung của nhiều

nền văn hoá khác nhau. Cho nên chúng đã tạo ra cho EU một nền văn hoá riêng biệt,
một nên văn hóa công nghiệp. Nhưng không đơn điệu mà chúng lại có những sự sáng
tạo và đa dạng riêng có. Song không vì vậy mà một sản phẩm dệt may có thể thâm nhập
và đứng trên thị trường này một cách dễ dàng. Thậm chí còn là ngược lại, vì thị trường
này được coi là một thị trường khó tính nhất trên thế giới. Vì vậy khi hàng dệt may của
Việt Nam thâm nhập vào thị trường này thành công thì nó sẽ là bước đệm vững chắc
cho phép hàng dệt may của nước ta chinh phục các thị trường khác của thế giới, đồng
thời nó cũng là nơi khẳng định thương hiệu và vị trí của hàng dệt may Việt nam trong
hàng dệt may thế giới.
Cho dù xu hướng xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong một hai năm trở lại
đây có xu hướng giảm xuống và thị trường EU đang có những biến động lớn gây ảnh
hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Đặc biệt là phảI kể
đến sự kiện bắt đầu từ ngày 1/1/2005 theo thoả thuận của TC EU không còn được áp
dụng hạn ngạch đối với những hàng dệt may được nhập khẩu từ các nước là thành viên
của WTO. Nhưng theo như mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may, thị trường EU trong
những năm tới vẫn là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam.
Bảng 1.1 Xuất khẩu dệt may sang thị trường EU tới năm 2010.
Đơn vị tính: Triệu USD.
Amphay Sayasack CQ494541
7
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
Năm 2000 2005 2010
PAI PAII PAI PAII
Tổng giá trị xuất
khẩu
3289,2 5812 6190 10020 11165
Kim ngạch xuất
khẩu vào EU
614,7 1120 1150 1800 1950
Nguồn: Trích trang 235 cuốn "những giảI pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của

Việt Nam vào thị trường EU.
Như vậy qua bảng trên cho thấy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
vào EU trong giai đoạn tới chiếm từ 18 cho đến 21% tổng kim ngạch xuất khẩu của
hàng dệt may Việt Nam. Kết quả xuất khẩu của hàng dệt may vào thị trường EU nó
không những chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xuất khẩu của ngành dệt may và của
chíên lược tăng tốc ngành dệt may, mà nó còn ảnh hưởng đến những vấn đề khác nữa
trong nền kinh tế của nước ta như vấn đề công ăn việc làm, vấn đề thực hiện mục tiêu
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.3 Thuận lợi và khó khăn cho thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
1.3.1 Thuận lợi cho thúc đẩy xuất khẩu
Do đặc điểm của ngành công nghiệp dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ, yêu
cầu kỹ thuật không quá phức tạp như những ngành kinh tế khác và yêu cầu vốn đầu tư
không quá lớn, thời gian thu hồi vốn lại tương đối nhanh hơn những ngành công nghiệp
khác. Vì vậy mà nó đã có được một số lợi thế trong tình hình kinh tế hiện nay của đất
nước.
1.3.1.1 Lợi thế về yếu tố con người.
Trước tiên, chúng ta phải kể đến đó là nước ta có một cơ cấu dân số trẻ do đó mà
những người trong độ tuổi lao động rất cao, không những vậy hàng năm nó còn được bổ
sung thêm một lực lượng khá là hùng hậu. Điều đó đã làm cho nguồn cung lao động của
nước ta hết sức dồi dào.
Thứ hai, chất lượng lao động không ngừng được nâng lên cả về mặt kỹ thuật lẫn
trình độ văn hoá, cả thể chất lẫn tinh thần. Người lao động của nước ta được đánh giá là
cần cù chịu khó, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh và sáng tạo trong quá trình lao
động .
Amphay Sayasack CQ494541
8
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
Thứ ba, nhìn chung giá nhân công lao động trong ngành dệt may của nước ta rẻ
hơn một số nước khác trên thế giới và khu vực. Đây là một lợi thế rất lớn trong kho
ngành dệt may của nước ta. Có thể nói nó là nhân tố chính trong sự phát triển của ngành

dệt may trong thời gian qua.
Bảng 1.2 Tiền công lao động trong ngành dệt may của một số nước.
TT Tên nước Tiền công (USD/n) TT Tên nước Tiền công (USD/n)
1 Nhật 16,31 9 Malaixia 0,95
2 Pháp 12,63 10 Thái Lan 0,87
3 Mỹ 10,33 11 Philipine 0,67
4 Anh 10,16 12 ấn độ 0,54
5 Đài loan 5 13 Trung quốc 0,34
6 Hàn quốc 3,6 14 Inđônêxia 0,23
7 Hồng Kông 3,39 15 Việt Nam 0,18
8 Singapore 3,16
Nguồn: Cuốn chính sách công nghiệp và thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập trang 64 tập I.
Thứ tư, do đặc điểm của lịch sử và hoàn cảnh của đất nước mà Việt Nam có rất
nhiều việt kiều sinh sống ở khắp mọi nơi trên thế giới. Đây là nguồn lực quan trọng để
chúng ta có thể thu thập thêm thông tin về thị trường nước ngoài đồng thời cũng là lực
lượng mà có thể thực hiện phân phối hàng dệt may cho các doanh nghiệp khi thâm nhập
vào thị trường.
1.3.1.2 Lợi thế về điều kiện tự nhiên
Nước ta nằm trên bán đảo với bờ biển dài, phía bắc giáp Trung quốc, phía tây giáp
Lào và Campuchia, cho phép chúgn ta mở các tuyến đường bộ và đường biển để thuận
tiện cho việc giao lưu hàng hoá. Nước ta cũng là nước nằm ở trọgn tâm Đông Nam Á.
Cho nên là địa đỉêm giao nhận và chung chuyển hàng hoá thuận lợi. Đặc biệt là việc
xuất khẩu hàng dệt may.
Cũng nằm ở vị trí phía Đông nam Châu á mà nước ta hiện nay nằm trong con
đường chuyển giao công nghệ của ngành công nghiệp dệt may (chuyển dịch theo hướng
Đông tây; Bắc - Nam. Đó là việc di chuyển công nghệ dệt may từ các nước NIC sang
các nước Đông nam á và Nam á). Do đó chúng ta có cơ hội để kế thừa và phát triển các
thành tựu của những nước đi trước, đồng thời học hỏi được kinh nghiệm của các nước
đó.

Amphay Sayasack CQ494541
9
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
Nước ta là nơi giao lưu của hai nền văn hoá lớn đó là văn hoá Trung hoa và văn
hoá Sông Hằng, giữa nền văn hoá nho giáo và nền văn hoá phật giáo. Cho nên đã tạo ra
những phong tục tập quán đa dạng và phong phú; cùng với một nền văn hoá đặc trưng.
Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng nó làm cho sản phẩm dệt may của chúng ta đa
dạng và phong phú hơn.
1.3.1.3 Những lợi thế về truyền thống
Ngành dệt may là một ngành đã có từ xa xưa. Ngay trong thời kỳ phong kiến cũng
đã xây dựng lên các làng nghề thủ công. Nó cũng vẫn được tiếp tục phát triển cho đến
giai đoạn sau này mặc dù có thời gian nó đã phát triển chậm lại do đặc điểm hoàn cảnh
lịch sử của đất nước. Tuy nhiên khoảng hai thập kỷ trở lại đây thì nó đã phát triển nhanh
chóng đặc biệt là trong những năm gần đây.
Ngành dệt may là một ngành mà nguyên vật liệu của nó là sợi bông và vải. Do đó
mà nó có quan hệ mật thiết với các ngành nông nghiệp của đất nước. Mà điều kiện của
nước ta hoàn toàn có thể cho phép phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho ngành
đó. Chứ không phải như hiện nay phần lớn các nguyên liệu của nước ta được nhập khẩu
từ nước ngoài.
1.3.1.4 Ngành dệt may là một trong những ngành được xây dựng chiến lược
phát triển
Kể từ khi chuyển hướng nền kinh tế từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang
tập trung sản xuất hàng tiêu dùng lương thực, và hàng xuất khẩu. Đảng và Nhà nước đã
chú ý đến vai trò của các ngành công nghiệp nhẹ nói chung và ngành dệt may nói riêng
nhiều hơn. Để nâng cao năng suất, chất lượng và đưa ngành dệt may nước ta phát triển
một "chiến lược phát triển tăng tốc để phát triển ngành dệt may đến năm 2010" đã được
xây dựng với những mục tiêu cụ thể như: Đến năm 2010 sản phẩm chủ yếu đạt Bông
sợi đạt 808.000 tấn, sợi tổng hơp đạt 120.000 tấn, sợi các loại đạt 300.000 tấn, vải lụa
thành phẩm 81.400m
2

, dệt kim đạt 500 triệu sản phẩm, may mặc đạt 1500 triệu sản
phẩm. Còn năm 2005 thì các sản phẩm chủ yếu đạt Bông 30.000 tấn, sợi tổng hợp
60.000 tấn, sợi các loại 150.000 tấn vải lụa thành phẩm 800 triệu m
2
dệt kim 300 triệu
sản phẩm may mặc 780 triệu sản phẩm. Đối với xuất khẩu thì đến năm 2005 đạt kim
ngạch từ 1000 đến 5000 triệu USD và đến 2010 thì đạt 8000 đến 9000 triệu USD; tỷ lệ
sử dụng nguyên liệu nội địa tăng từ 50% năm 2005 lên 75% năm 2010. Bên cạnh đó là
Amphay Sayasack CQ494541
10
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
những chương trình để đầu tư và phát triển ngành may và thượng nguồn cho ngành dệt
may. Như vậy trong những năm tới ngành dệt may sẽ là một trong những ngành chủ lực
phcụ vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nó cũng là ngành đóng
góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta.
1.3.1.5 Thị trường ngày càng được mở rộng
Bên cạnh những lợi thế về vị trí địa lý do điều kiện tự nhiên mang lại ngành dệt
may còn có lợi thế về cơ hội tiêu thụ hàng hoá ra nước ngoài do thị trường đã và đang
ngày càng được mở rộng.
Nếu như trước đây do sự cấm vận, sự phân biệt giữa hai hệ thống chính trị cơ bản
trên thế giới làm cho sản phẩm dệt may của ta chỉ có cơ hội tiêu thụ trên phạm vi thị
trường của các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày nay với những lợi thế là chúng ta không
còn bị cấm vận nữa, thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, cho phép chúng ta thiết
lập những quan hệ kinh tê mới với các nước và vùng lãnh thổ mới. Nâng cao, phát triển
hơn nữa những mối quan hệ chúng ta đang có. Những điều đó, làm cho thị trường tiệu
thụ của nước ta được mở rộng đáng kể.
Chính phủ với những nỗ lực mà trong thời gian qua những hàng rào định lượng đã
được hạ thấp hoặc xoá bỏ, đặc biệt là hạn ngạch vào một số thị trường. Do đó đã tạo
điều kiện cho chúng ta nâng cao khả năng thâm nhập và phát triển thị trường cho sản
phẩm dệt - may.

1.3.2 Những khó khăn cho xuất khẩu của ngành dệt may nước ta
Những yếu tố thuận lợi như trên cho phép ngành công nghiệp dệt may của chúng
ta phát triển và sản xuất được khối lượng sản phẩm lớn. Nhưng không phải nước ta là
nước duy nhất có lợi thế. Trên thế giới, còn có nhiều quốc gia khác nữa cũng có lợi thế
về mặt hàng này. Cũng như chúng ta, họ tập trung phát triển ngành công nghiệp dệt may
để khai thác lợi thế so sánh. Vì vậy, hàng dệt may của chúng ta đang phải đối mặt với sự
cạnh tranh của nhiều đối thủ cạnh tranh, lớn trên thị trường dệt may thế giới nói chung
và thị trường EU nói riêng.
Trung Quốc, một nước láng giềng, đồng thời cũng là một đối thủ cạnh tranh khổng
lồ hơn hẳn chúng ta về mọi mặt: đội ngũ nhân viên giỏi, giá thành thấp . .. Ngay từ rất
sớm, Trung quốc đã thực hiện những bước chuẩn bị cho ngành dệt may của họ phát
triển. Năm 1998 - 1999, Trung Quốc đã trợ giá cho mỗi kg bông 0,6USD xấp xỉ 50%
Amphay Sayasack CQ494541
11
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
giá bông trong thời kỳ đó. Mạnh dạn cho tư nhân hoá và cho phá sản các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn thua lỗ. Đổi mới thiết bị loại bỏ trên 10 triệu cọc sợi trong ba năm
1998 - 2000 để cơ cấu lại ngành dệt, nâng cao năng suất hạ giá thành sản phẩm, tăng
cường sức cạnh tranh. Chính vì vậy mà ngành công nghiệp dệt - may đã trở thành một
ngành công nghiệp lớn nhất Trung Quốc hàng năm đóng góp khoảng 20% vào giá trị
sản lượng ngành công nghiệp Trung quốc. Kim ngạch xuất khẩu của Trung quốc luôn
đạt mức tăng trưởng cao, chiếm khoảng 20% sản lượng hàng dệt may xuất khẩu toàn
cầu (kim ngạch xuất sang EU của Trung Quốc chiếm khoảng 7 tỷ USD). Theo như dự
báo của các chuyên gia thế giới thì đến năm 2007 Trung Quốc chiếm khoảng 50% thị
trường dệt may thế giới với trị giá khoảng trên 70 tỷ USD.
Ngay sau Trung Quốc, một đối thủ cạnh tranh Nam á chúng ta phải kể đến đó là
Ấn độ. Ngành dệt may là ngành truyền thống với lịch sử phát triển hơn 150 năm và là
ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có ảnh hưởng lớn đến giá trị kim ngạch
xuất khẩu của Ấn độ. Hiện nay ngành công nghiệp này ở Ấn độ đã giải quyết công ăn
việc làm cho khoảng 15 triệu lao động, chiếm khoảng 20% sản lượng công nghiệp toàn

quốc, xuất khẩu năm 2000 đạt 11,26 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa vị trí của ngành
công nghiệp này đồng thời khai thác lợi thế Ấn độ đang thực hiện Chương trình hiện đại
hoá ngành dệt với nguồn vốn khoảng 6 tỷ USD nhằm đạt mục tiêu xuất khẩu đến 2010
khoảng 50 tỷ USD. Theo như hiệp hội dệt may Ấn độ thì sau ngày 1/1/2005 khi mà hiệp
định ATC (Agreement or Textiles and clothing) được thực hiện thì ngành dệt may Ấn
độ còn có khả năng phát triển hơn nữa đặc biệt là trên thị trường Châu Âu. Vì theo họ
thì mặc dù Trung Quốc là nước có ưu thế về ngành dệt may và có khả năng chiếm ưu
thế nhưng Châu Âu sẽ không "đặt hết trứng trong một giỏ". Các nước Châu Âu sẽ tìm
cách hạn chế rủi ro vì sự phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc bằng cách tìm đến những
đối tác khác nữa khi đó ngành công nghiệp dệt may của Ấn độ càng có thêm cơ hội phát
triển.
Ngoài hai đại gia lớn nhất của ngành công nghiệp dệt may thế giới được cho là sẽ
"làm mưa làm gió" trên thị trường dệt may thế giới thời kỳ hậu ATC. Pakistan cũng
được đánh giá là một trong số 15 nước có khả năng tồn tại và chiếm ưu thế trên những
thị trường dệt may khốc liệt (Mỹ, EU, Nhật . . .) của thế giới. Ngay từ những năm 2000
Amphay Sayasack CQ494541
12
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
chính phủ Pakistan có chương trình đầu tư mới cho ngành dệt - may để đến năm 2005
kim ngạch 13,8 tỷ USD.
Bảng 1.3 Số liệu qui mô ngành dệt - may của một số nước (2001)
Tên nước Sản lượng sợi
(ngàn tấm)
Sản lượng vải
lụa (triệu m
2
)
Sản phẩm
may (triệu
sản phẩm)

Kim ngạch
xuất khẩu
(triệu USD)
Trung quốc 5300 21.000 10.000 50.000
Ấn độ 2.100 23.000 10.000 12.500
Bangladesh 200 1.800 10.000 4.000
Thái Lan 1.000 4.200 2.500 6.500
Indonexia 1.800 4.400 300 8.000
Việt Nam 85 304 100 2.000
Nguồn:cuốn thị trường Việt Nam thời kỳ hội nhập AFTA
Bên cạnh trung quốc, Ấn độ, Pakistan hàng dệt may của nước ta còn phải đối mặt
với hàng loạt các nước trong khu vực (Thái Lan, Inđonexia, Philipine) và hàng loạt các
nước ngoài khu vực (Hàn quốc, Hồng Kông, Bangladesh). Chính vì vậy mà trong thời
gian tới hoạt động xuất khẩu dệt may của nước ta sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT - MAY
VÀO EU CỦA VIỆT NAM
Amphay Sayasack CQ494541
13
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
2.1 Khái quát hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Điều kiện trong nước thuận lợi hơn 10 năm qua ngành dệt may nước ta phát triển
không ngừng. Giá trị sản lượng hàng năm của từng mặt hàng tăng lên đáng kể. Đưa
ngành công nghiệp dệt - may của nước ta ngày càng lớn mạnh, vị trí, vai trò của ngành
trong nền kinh tế ngày càng được khẳng định và nâng cao.
Bảng 2.1. Sản lượng các sản phẩm của ngành dệt - may
T
T
Sản phẩm Đ/ vị 1997 1998 1999 2000 2001
2002 2003

1
Sợi toàn
bộ
Tấn - 69076 79171 129890 131500 226811 25300
2 Vải lụa Triệu m 299 315 322,2 356,4 379 469,6 487,0
3
Vải bạt
các loại
nghìn
m
- 18919 20874 23516 23700 15962 16600
4
Vải mòn
các loại
nghìn
m
- 19085 23911 29974 27000 33908 35600
5
Quần áo
dệt kim
nghìn
sp
25.100 29114 34456 45820 47681 51358 72151
6 Len đan Tấn - 2243 3106 2683 2800 1818 1650
7
Khăn các
loại
Triệu
sp
- 337,0 333,5 430,6 435,0 508,9 588

8
Quần áo
may sẵn
nghìn
sp
302200 275046 302426 337011 351364 489058 618629
Nguồn: Thu nhập từ tài liệu tham khảo và niên giám thống kê
Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may trong thời gian qua chiếm bình
quân khoảng 9% giá trị toàn ngành công nghiệp, chiếm khoảng 2% giá trị tổng sản
phẩm quốc nội. Tỷ lệ tăng trưởng ngành dệt may cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP tương
đương với tỷ lệ tăng trưởng của ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may hiện
nay đang giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động nước ta (theo số
liệu của Hiệp hội dệt - may Việt nam).
Bảng 2.2. Ngành dệt may trong cơ cấu công nghiệptính theo giá so sánh năm 1994
TT Chỉ tiêu Đ/ vị 1995 2000 2001 2002 2003(SB)
1 GDP tỷ đồng 195567 273666 292535 313247 335989
2 Công nghiệp
Tỷ
đồng
58550 96913 106986 117125 129247
3 Dệt may tỷ đồng 9126 16088,6 17502 24115,6 17519,7
4 Tỷ lệ dệt % 15,6 16,6 16,4 20,6 13,55
Amphay Sayasack CQ494541
14
Đề án môn học GS.TS. Đỗ Đức Bình
may / Công
nghiệp
5
Tỷ lệ dệt
may/GDP

% 4,6 5,8 6,0 7,7 5,2
Nguồn: niên giám thống kê 2003.
Cùng với lớn mạnh, trong hơn mười năm qua hàng dệt may luôn đứng thứ hai
trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Trong giai đoạn 1996 - 2000
hàng may mặc xuất khẩu tăng bình quân 20 - 25%, chiếm khoảng 13 - 14% tổng giá trị
suất khẩu cả nước. Còn trong giia đoạn 2000 - 2005 này kim ngạch xuất khẩu dệt may
nước ta khoảng 5183 triệu USD (cụ thể xem bảng 2.3).
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may 2000 - 2005.
TT Chỉ tiêu Đ/ vị 2000 2001 2002 2003 2004 2005
1 Tổng KN xuất khẩu
Triệu
USD
14.455 15.027 16.706 20.176 535.762 60.586
2
KNXK công nghiệp

Triệu
đồng
4375 5102 6340 8164 10.373 12.872
3
Kim ngạch XK dệt
may
Triệu
USD
1892 1975 2752 3687 4319 5183
Tăng trưởng % 8,3 4,3 16,17 18,27 41,64
4 Tỷ trọng 3/1 % 13,09 13,14 16,47 18.27 16,61 16,89
5 Tỷ trọng 3/2 % 43,24 38,71 43,41 45,16 41,64 40,27
Nguồn: tạp chí ngoại thương số 2 tháng 1 / 2005.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may cũng chiếm từ 42 - 43% kim ngạch xuất

khẩu của ngành công nghiệp và thủ công mỹ nghệ.
Trên cơ sở phát huy nội lực đồng thời tận dụng những cơ hội từ môi trường thời
gian qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên sự tăng
trưởng này lại do tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc giữ vị trí áp đảo.
Đối với các mặt hàng khác như sợi, vải . . . Chúng ta cũng xuất khẩu nhưng chúng
chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, sợi chỉ chiếm khoảng 2%, vải chiếm khoảng 3%. Điều đáng
chú ý mặc dù tỷ trọng xuất khẩu vải và sợi rất thấp nhưng cũng chưa cung cấp đủ
nguyên liệu, phụ kiện cho ngành may, sản phẩm may mặc của chúng ta xuất khẩu chủ
yếu là bằng con đường gia công cho nước ngoài (chiếm khoảng 60% tổgn kim ngạch
xuất khẩu). Vì vậy mà nó đã làm hạn chế đi phần nào số lượng cũng như giá trị xuất
Amphay Sayasack CQ494541
15

×