Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.13 KB, 106 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trườngưđạiưhọcưvinh
--------------

Đỗ THị THANH NGA

ĐặC ĐIểM TRUYệN NGắN NGUYễN TUÂN
TRƯớC NĂM 1945
Chuyên ngành: VĂN HọC Việt Nam
Mã số: 60.22.34

Luận văn thạc sĩ ngữ văn

Vinh - 2010


2
Mục lục
Trang
Mở đầu..............................................................................................................1
1. Lý do chon đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...................................................................................................2
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu......................................................................5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................6
5. Phơng pháp nghiên cứu....................................................................................6
6. Đóng góp của luận văn.....................................................................................6
7. Cấu trúc của luận văn...................................................................................... 6
Chơng 1. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong bức tranh chung của truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945............................................................7


1.1. Giới thuyết về thể loại truyện ngắn..............................................................7
1.2. Bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.............8
1.2.1.Truyện ngắn ra đời là kết quả của quá trình hiện đại hoá văn học Việt
Nam.......................................................................................................................8
1.2.2. Khái niệm trào lu và dòng truyện ngắn.....................................................9
1.2.3. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1345 có sự phân hoá thành nhiều
dòng truyện ngắn khác nhau...........................................10
1.3. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn và trong
bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945...................19
1.3.1. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.........19
1.3.2. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong bức tranh chung của truyện ngắn Vit
Nam giai đoạn 1930-1945..................................................................................26
Chơng 2. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân nhìn từ cảm hứng sáng tạo,
hệ thống đề tài v quan niệm nghệ thuật về con ngời.................................31
2.1. Cảm hứng sáng tạo .....................................................................................31
2.1.1. Đôi nét về cảm hứng và cảm hứng chủ đạo trong sáng tạo nghệ thuật........31
2.1.2. Cảm hứng sáng tạo trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân.......................32
2.2. Hệ thống đề tài............................................................................................37
2.2.1. Đề tài Vang bóng một thời...................................................................37
2.2.2. Đề tài Yêu ngôn....................................................................................45
2.2.3. Đề tài Xê dịch.......................................................................................54
2.2.4. Đề tài về cuộc sống nghèo khó, cơ cực...................................................60


3
2.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân.........62
2.3.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật về con ngời........................................62
2.3.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân........63
Chơng 3. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân nhìn từ một số phơng diện
ngh thut tự sự................................................................................................76

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật....................................................................76
3.1.1. Khái niệm nhân vật..................................................................................76
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân.............76
3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống................................................................85
3.2.1. Khái niệm về tình huống..........................................................................85
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Tuân...........86
3.3. Giọng điệu...................................................................................................93
3.3.1. Khái niệm giọng điệu...............................................................................93
3.3.2. Giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Tuân...........................................94
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật.................................................................................105
3.4.1. Kết hợp ngôn ngữ k và ngụn ng t...................................................105
3.4.2. Thủ pháp lạ hoá ngôn từ.....................................................................110
3.4.3. Sử dụng tối đa lớp từ Hán-Việt, từ mang sắc thái cổ............................117
Kết luận.....................................................................................................120
Tài liệu tham khảo.............................................................................122


4
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Tuân là hiện tợng độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại.
Sinh thời ông sáng tạo trên nhiều lĩnh vực, lĩnh vực nào ông cũng tâm huyết,
có thành tựu và thể hiện một cái tôi tài hoa tột bật của mình. Trong suốt
cuộc đời, bằng lao động nghệ thuật nghiêm túc, bằng tài năng và tấm lòng,
Nguyễn Tuân đã để lại một số lợng tác phẩm đồ sộ và tạo đợc một phong cách
độc đáo, khẳng định đợc vị trí của mình trên văn đàn. Ông thực sự là một
nghệ sĩ ngôn từ đa cái đẹp thăng hoa [1; 369] là một phong cách độc nhất vô
nhị, thật sự Việt Nam [1; 361]. Đến với văn chơng của Nguyễn Tuân, chúng
ta học hỏi đợc rất nhiều kinh nghiệm từ cách dùng từ, đặt câu, cách sáng tạo từ
mới, cũng nh tình thần lao động nghiêm túc của ông.

1.2. Tài năng của Nguyễn Tuân đối với nền văn học dân tộc đựơc thể hiện
trên nhiều lĩnh vực văn học khác nhau nh: tuỳ bút, truyện ngắn, thơ... ở lĩnh
vực nào ông cũng thể hiện đợc một cá tính riêng, một dấu ấn riêng, một cách
suy nghĩ riêng, diễn tả riêng [2; 320]. Với bản lĩnh sáng tạo của một cá tính
độc đáo, ông đã để lại cho đời một di sản văn học quý báu với nhiều tác phẩm
có giá trị, khẳng định đợc vị trí của mình trong lòng công chúng. Những trang
văn xuôi của ông vừa gai góc vừa tài hoa. Tác phẩm của Nguyễn Tuân không
chỉ thể hiện một tình yêu nghiêm khắc với cái đẹp bình dị của con ngời - cuộc
sống - quê hơng mà còn khẳng định đợc vị trí của nhà văn trên văn đàn. Từ trớc Cách mạng tháng Tám cho đến nay, sáng tác của Nguyễn Tuân nhất là
truyện ngắn đã trở thành đối tợng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học.
Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu một cách tập trung, toàn diện về
những đặc điểm cơ bản trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân.
1.3. Trong chơng trình Văn học THPT hiện nay, Nguyễn Tuân đợc giảng
dạy với t cách là một tác gia văn học, là ngời có nhiều đóng góp cho sự phát
triển của văn học ở cả phơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Vì vậy,
số tiết và số tác phẩm của ông đợc đa vào chơng trình khá nhiều. Việc lựa
chọn đề tài này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về nhà văn đồng
thời góp phần thiết thực cho việc giảng dạy đợc tốt hơn.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Đặc điểm truyện
ngắn Nguyễn Tuân trớc năm 1945 với mong muốn góp thêm tiếng nói vào


5
việc khám phá giá trị văn chơng của Nguyễn Tuân, khám phá những đặc sắc
của một phong cách nghệ thuật độc đáo bậc nhất này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Tuân đã khẳng định đợc sự độc đáo của mình trong đời sống văn
học Việt Nam hiện đại bằng thể loại tuỳ bút và truyện ngắn. Tính đến nay đã
có nhiều bài báo, tiểu luận và các công trình nghiên cứu về văn phong của ông
ở các phơng diện khác nhau nh: con ngời và tác phẩm của Nguyễn Tuân, bàn

về khuynh hớng truyện ngắn, phong cách nghệ thuật, quan điểm sáng tác,
những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong một số truyện ngắn...Trong
số những nhà nghiên cứu tâm huyết về Nguyễn Tuân có lẽ là Nguyễn Đăng
Mạnh. Ông không phải là ngời đầu tiên nghiên cứu về Nguyễn Tuân nhng lại
là ngời nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Ông
đã có nhiều bài viết ngắn, những tiểu luận nhỏ và những công trình lớn về
Nguyễn Tuân. Qua các công trình của mình, Nguyễn Đăng Mạnh đã cung cấp
cho ngời đọc một cái nhìn bao quát về Nguyễn Tuân từ thân thế, sự nghiệp đến
quan điểm nghệ thuật. Bàn về phong cách Nguyễn Tuân, Nguyễn Đăng Mạnh
đã nhận xét: hạt nhân của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có thể gói
gọn trong chữ ngông, ngông là sự chống trả với mọi nề nếp, phép tắc, mọi
thứ đạo lí thông thờng của xã hội bằng cách làm ngợc lại. Đề cập đến quan
điểm sáng tác của Nguyễn Tuân ông còn viết: Nói đến Nguyễn Tuân là ngời
ta nghĩ đến một nhà văn có quan điểm duy mĩ, chỉ trọng cái đẹp hình thức
không cần nội dung, chủ trơng viết văn không khuynh hớng, nghĩa là muốn
đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời. (Nguyễn Tuân về tác gia và
tác phẩm, Nxb GD, Nà Nội, 2003)
Sau Cách mạng, ông tiếp tục su tầm, biên soạn và viết lời giới thiệu Tuyển
tập Nguyễn Tuân (1982) và Nguyễn Tuân toàn tập (2000). Bài giới thiệu của
Nguyễn Đăng Mạnh là một tiểu luận công phu, đánh giá nhiều phơng diện về
con ngời và tác phẩm của Nguyễn Tuân. Ông đã xem xét quan điểm sáng tác,
t tởng nghệ thuật, đề tài, thể loại, phong cách, những thành công và hạn chế
trong toàn bộ sự nghiệp văn chơng của Nguyễn Tuân.
Cùng với Nguyễn Đăng Mạnh, nhiều nhà nghiên cứu khác cũng có rất
nhiều bài viết đánh giá về giá trị văn chơng cũng nh quan điểm và phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bàn về quan điểm của Nguyễn Tuân, Nguyễn
Thị Thanh Minh viết: Với Nguyễn Tuân, cái đẹp gắn với cái thiên lơng, cái
đẹp là một cái gì độc đáo khác thờng. Một trong những quan niệm về cái đẹp



6
của Nguyễn Tuân là cái đẹp đối lập với cái phàm tục, cái đẹp không đi đôi với
đồng tiền. (Nguyễn Tuân và cái đẹp trong Nguyễn Tuân tác gia và tác
phẩm, Nxb GD, Hà Nội, 2003)
Hà Văn Đức trong công trình nghiên cứu của mình đã viết: Giá trị tích cực
nhất của sáng tác Nguyễn Tuân trớc Cách mạng là tinh thần dân tộc biểu hiện
qua việc khai thác và giữ gìn cái đẹp truyền thống...tình cảm sâu đậm với quê hơng, đất nớc thấm đợm qua mỗi trang viết của Nguyễn Tuân. Đợc đi, đợc ngắm,
đợc hoà mình trong cảnh sắc thiên nhiên là một đam mê mãnh liệt của Nguyễn
Tuân. Con ngời say mê cái đẹp ấy chính lại rất nặng lòng với quê hơng, đất nớc
với những giá trị thẩm mĩ, giá trị văn hoá tinh thần dân tộc.
Tôn Thảo Miên, trong bài viết Nguyễn Tuân - tài hoa văn chơng đã nhận
xét về văn chơng Nguyễn Tuân Trân trọng những giá trị văn hoá cổ truyền
dân tộc và đặc biệt ở ông có một niềm đam mê mãnh liệt tiếng mẹ đẻ...ông
viết văn không hời hợt mà từng câu văn, từng con chữ đều đợc gọt giũa tỉ mẩn
kỹ càng. Đánh giá về thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân ông
viết: nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân thờng là những con ngời tài
hoa, tài tử thích phiêu du các miền vô định, không mục đích, không phơng hớng. Đi để tận hởng vẻ đẹp của thiên nhiên đất nớc.
Một trong những tác phẩm thành công của Nguyễn Tuân trớc Cách mạng
là tập truyện Vang bóng một thời. Đã có rất nhiều ý kiến, nhận xét của các nhà
văn, nhà nghiên cứu về giá trị của tập truyện này nh Vũ Ngọc Phan, Thạch
Lam, Trơng Chính, Phan Cự Đệ, Văn Tâm, Đỗ Đức Hiểu... Đặc biệt nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã thừa nhận sự thành công
của Vang bóng một thời trên cả phơng diện nội dung và t tởng nghệ thuật. Ông
cho rằng: Tỏc phẩm đầu tay này là một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện,
toàn mĩ .
Bên cạnh những đánh giá của các nhà nghiên cứu về giá trị văn chơng và
phong cách, quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân còn có nhiều ý kiến khác
về phơng diện ngôn ngữ, thể loại, giọng điệu, nghệ thuật xây dựng nhân vật...
Trong truyện ngắn viết trớc Cách mạng, các nhà nghiên cứu còn phát hiện
văn Nguyễn Tuân Gợi lên trong lòng ngời đọc một nỗi ngậm ngùi, luyến tiếc

về một thời vàng son đã qua (Tôn Thảo Miên). Văn Tâm trong bài viết in
trong Nguyễn Tuân-ngời đi tìm cái đẹp, Nxb Văn học, 1997, nhận định: Khi
Nguyễn Tuân tái hiện hiện thực trớc mắt, cái tôi Nguyễn Tuân thờng chiếm


7
một vị trí tiền cảnh cùng thái độ khinh miệt. Ngợc lại, khi hớng về đời sống
văn hoá dân tộc, cái tôi của tác giả lùi vào hậu cảnh...và đợc tái tạo bởi một
thái độ trân trọng.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan tiếp tục đánh giá về giọng
điệu và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân Những truyện ngắn, truyện dài của ông
đăng từ năm 1938 trong Tiểu thuyết thứ 7, Tao đàn, Hà Nội tân văn và Trung
Bắc chủ nhật đã làm ngời ta phải chú ý lối hành văn đặc biệt của ông và
những ý kiến cùng t tởng phô diễn bằng những giọng tài hoa sâu cay và khinh
bạc, là ngời có tính hào hoa và giọng điệu khinh bạc đệ nhất trong văn giới
Việt Nam hiện đại. Phan Cự Đệ trong chuyên luận Truyện ngắn Việt Nam
hiện đại- Lịch sử phát triển của các khuynh hớng và loại hình truyện ngắn cho
rằng: Điểm thu hút nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân là nghệ thuật
xây dựng nhân vật và sự linh hoạt trong xây dựng cốt truyện.
Trong toàn bộ những công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân, có nhiều ý
kiến đánh giá rất cao về ngôn từ của ông. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra đặc
điểm cụ thể của văn phong Nguyễn Tuân. Đó là thứ văn chơng chăm chú
khám phá ở phơng diện kĩ thuật, Nguyễn là ngời đầu tiên nêu lên cái đẹp ở
khía cạnh kĩ thuật (Phan Ngọc). Trơng Chính cho rằng ngôn từ của Nguyễn
Tuân trong sáng lạ kỳ. Mai Quốc Liên, Hoài Anh cho Nguyễn Tuân là bậc
thầy ngôn từ, nhà nghệ sĩ ngôn từ đa cái đẹp thăng hoa...
Những nhận xét, đánh giá về con ngời và văn chơng Nguyễn Tuân không
thể liệt kê hết. Có rất nhiều nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học rất
tâm huyết với văn nghiệp của Nguyễn Tuân. Các ý kiến trên đã đi vào khám
phá những đặc sắc về đề tài, phong cách nghệ thuật độc đáo, khả năng xây

dựng hình tợng nghệ thuật, sự sáng tạo ngôn từ và đặc điểm câu văn của
Nguyễn Tuân. Lịch sử vấn đề cho thấy, cha có công trình nào thực sự đi sâu
tìm hiểu một cách tập trung, toàn diện về những Đặc điểm truyện ngắn
Nguyễn Tuân trớc năm 1945. Mặc dù vậy, những ý kiến, nhận định, đánh giá
trên là rất ý nghĩa, gợi mở và định hớng cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi tập trung nghiên cứu Đặc điểm truyện ngắn
Nguyễn Tuân trớc năm 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát 39 truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong cuốn


8
Nguyễn Tuân truyện ngắn, Nxb Văn học, 2006.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đa ra cái nhìn khái quát về truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong bức
tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945.
4.2. Khảo sát, phân tích nhằm nhận diện những đặc điểm cơ bản về nội
dung trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân trớc năm 1945.
4.3. Khảo sát, phân tích và xác định những đặc điểm về phơng diện nghệ
thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân trớc năm 1945.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện công trình này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp:
- Phơng pháp phân tích - tổng hợp
- Phơng pháp đối chiếu - so sánh
- Phơng pháp phân loại - thống kê
- Phơng pháp cấu trúc - hệ thống
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc tìm hiểu những đặc điểm chung nhất về nội dung cũng nh nghệ

thuật biểu hiện của truyện ngắn Nguyễn Tuân trớc năm 1945, chúng tôi hi
vọng luận văn sẽ góp phần khẳng định vai trò cũng nh đóng góp của Nguyễn
Tuân về thể loại truyện ngắn cho nền văn học dân tộc.
Kết quả của luận văn có thể sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai
quan tâm đến vấn đề này và có ý nghĩa cho việc giảng dạy trong nhà trờng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong bức tranh chung của truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945
Chơng 2. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân nhìn từ cảm hứng sáng tạo,
hệ thống đề tài v quan niệm nghệ thuật về con ngời
Chơng 3. Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân nhìn từ một số phơng diện
ngh thut tự sự
Chơng 1
Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong bức tranh chung
Của truyện ngắn việt nam giai đoạn 1930-1945
1.1. Giới thuyết về thể loại truyện ngắn


9
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ.
Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phơng diện của đời sống, đời
t, thế sự hay sử thi, nhng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn đợc viết ra
để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ [314].
Cốt truyện của truyện ngắn thờng diễn ra trong một không gian và thời
gian hạn chế, kết thúc của truyện ngắn cũng không chia thành nhiều tuyến
phức tạp. Truyện ngắn đợc viết để tiếp thu liền một mạch nên đặc điểm của
truyện ngắn là tính ngắn gọn. Để thể hiện nổi bật t tởng, chủ đề, khắc hoạ tính
cách nhân vật đòi hỏi nhà văn viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện,
biết mạnh dạn gọt tỉa và dồn nén. Do đó, trong khuôn khổ ngắn gọn, những

truyện ngắn thành công có thể biểu hiện những vấn đề xã hội có tầm khái quát
rộng lớn.
Do khuôn khổ ngắn, nhiều khi làm cho truyện ngắn gần với các hình thức
truyện kể dân gian nh truyện cổ tích, truyện cời. Truyện ngắn thời trung đại
cũng ngắn nhng rất gần với truyện vừa. Truyện ngắn hiện đại là một kiểu t duy
mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng mang tính
chất thể loại.
Khác với tiểu thuyết là một thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự
đầy đặn và toàn vẹn của nó. Truyện ngắn thờng hớng tới việc khắc hoạ một
hiện tợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống
tâm hồn con ngời. Vì thế, trong truyện ngắn thờng ít nhân vật, ít sự kiện phức
tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện
ngắn là một mảnh nhỏ trong thế giới ấy. Truyện ngắn không nhằm tới việc
khắc hoạ tính cách điển hình đầy đặn trong tơng quan với hoàn cảnh mà
truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện trong
trong cuộc sống nhân vật. Nhng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ
thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời.
1.2. Bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945
1.2.1. Truyện ngắn ra đời là kết quả của quá trình hiện đại hoá văn học
Việt Nam
Từ đầu thế kỉ XX, văn hoá Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hởng của văn
hoá phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hoá Phơng Tây
mà chủ yếu là văn hoá Pháp. Luồng văn hoá mới thông qua tầng lớp trí thức
Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn của ngời cầm bút cũng nh


10
đọc sách. Nhu cầu văn hoá của lớp công chúng mới đã thôi thúc đội ngũ nhà
văn, nhà thơ. Nhiều thể loại mới đã ra đời. Đến đầu 1932 có ba thể loại đạt đợc những thành công đầu tiên là truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch.
Truyện ngắn là hình thức thể loại khá năng động, nó không đòi hỏi một

nội dung quá đồ sộ nh tiểu thuyết mà là nhát cắt thời gian mỏng trong cả
quãng đời của số phận con ngời, nhng lại chứa đựng một dung lợng nghệ thuật
lớn. So với tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại Việt Nam đã thành công sớm hơn.
Thời trung đại chúng ta cha có khái niệm truyện ngắn với t cách thể loại.
Truyện ngắn Việt Nam hiện đại l sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và
cái hiện đại.
Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản có thể đợc coi là
truyện ngắn đầu tiên của văn học mới. Với nghệ thuật mới mẻ, ngời trần thuật
ở ngôi thứ nhất, sự miêu tả đan xen với đối thoại, xây dựng tình huống nhân
vật sám hối vì tội sát nhân và sự kết thúc tác phẩm bằng cái chết... là những
điều mới, đánh dấu bớc phát triển của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Bá Học thuộc lớp nhà văn nổi tiếng đầu tiên ở nớc ta viết
truyện ngắn phản ánh xã hội thành thị đang t sản hoá. Những tác phẩm của
ông nh: Có gan làm giàu, Câu chuyện gia đình...nhà văn vừa học tập cách mô
tả khách quan, mô tả hiện thực cuộc sống, vừa không dứt bỏ quan điểm văn
học cũ, vừa làm quen với cách kể chuyện, mô tả, đối thoại của văn học phơng
Tây, vừa sử dụng văn biền ngẫu và hình ảnh ớc lệ tợng trng của văn học truyền
thống.
Đến truyện ngắn của Phạm Duy Tốn ta thấy các tác phẩm của ông đã đạt
đợc trình độ nhất định trong việc thể hiện đặc trng thể loại. Ông rất chú ý phơi
bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Với các
truyện ngắn: Sống chết mặc bay, Con ngời sở khanh Phạm Duy Tốn đã làm
xúc động ngời đọc bằng nghệ thuật mô tả chân thực những hiện trạng mà ông
quan sát.
Đến năm 1932, truyện ngắn phát triển thành thể loại mũi nhọn, đạt đợc
những thành tựu xuất sắc với những tác giả tiêu biểu nh Nam Cao, Nguyễn
Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Vũ Trọng phụng, Nguyễn Tuân...
1.2.2. Khái niệm về trào lu và dòng truyện ngắn
Khái niệm trào lu văn học là hiện tợng phức tạp và không phải hễ có sáng
tác văn học là có trào lu văn học. Trong mỗi nền văn học dân tộc, trớc cũng



11
nh sau khi có các trào lu, lịch sử văn học có thể đợc khảo sát căn cứ trên các
sáng tác của các nhà văn lớn, các phong cách. Song, khi sáng tác đã trở thành
chuyên nghiệp, phát triển phong phú, đội ngũ sáng tác đông đảo, tức là khi có
điều kiện nào đó về xã hội và về văn học thì khi đó sẽ có khả năng xuất hiện
các trào lu văn học bao trùm lên sáng tác của các nhà văn riêng lẻ.
Sự ra đời của các trào lu văn học một mặt bắt nguồn từ sự vận động bên
trong của văn học, từ yêu cầu đổi mới cách viết hay cổ vũ cho một quan niệm
thẩm mỹ nào đó, mặt khác gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất
định tức là những ảnh hởng từ bên ngoài. Một trào lu văn học thờng gắn liền
với những quan điểm và nguyên tắc sáng tác nhất định, chi phối cảm hứng
sáng tạo, thể loại, cách xây dựng nhân vật... Vì vậy, các tác phẩm văn học
thuộc cùng một trào lu có những đặc điểm chung, những nét gần gũi nhau và
các nhà văn trong cùng một trào lu, nếu thống nhất với nhau có thể tạo ra
những trờng phái văn học với cơng lĩnh sáng tác chung.
Nh vậy, khái niệm trào lu văn học là nhằm chỉ một hiện tợng có tính chất
lịch sử, ra đời và mất đi trong khoảng thời gian nhất định, những tác phẩm gần
gũi nhau về cảm hứng, về nguyên tắc miêu tả hiện thực hoặc về t tởng và nổi
lên thành một dòng rộng lớn, có bề thế trong đời sống văn học của một dân
tộc hoặc của một thời đại.
Với ý nghĩa đó, khái niệm dòng văn học đợc chúng tôi hiểu là sáng tác của
các nhà văn thuộc một trào lu văn học. Sáng tác của họ thờng có những đặc
điểm giống nhau trong hệ thống đề tài, chủ đề, thể hiện thống nhất trong
nguyên tắc nhận thức con ngời và cuộc sống, trong cách nhìn nhận đánh giá
những vấn đề thời đại. Nh vậy, một dòng văn học là tâp hợp những nhà văn mà
phong cách sáng tạo của họ có sự gần gũi, có nhiều điểm tơng đồng.
Trong những năm từ 1930-1945, văn học Việt Nam đã phát triển rực rỡ,
đạt nhiều thành tựu về thơ lẫn văn xuôi và dĩ nhiên trong đó có truyện ngắn.

Các cây bút viết truyện ngắn sáng tác theo nhiều trào lu, khuynh hớng khác
nhau đã làm nên một diện mạo khá phong phú, đa dạng cho văn học giai đoạn
này. ở đó, cũng phân hoá thành nhiều dòng truyện ngắn khác nhau nh dòng
truyện ngắn trữ tình, lãng mạn, dòng truyện ngắn hiện thực.
1.2.3. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 có sự phân hoá
thành nhiều dòng truyện ngắn khác nhau
1.2.3.1. Dòng truyện ngắn trữ tình, lãng mạn


12
Văn học lãng mạn Việt Nam xuất hiện nh một trào lu trong thời kỳ 19321945 bắt đầu với nhóm Tự lực văn đoàn và phong trào thơ mới. Văn học lãng
mạn Việt Nam, trong đó đáng chú ý là bộ phận sáng tác của các nhà văn viết
theo khuynh hớng lãng mạn. Những sáng tác theo khuynh hớng lãng mạn này
là tiếng nói của tầng lớp t sản dân tộc và tiểu t sản trí thức thành thị đã thoát ly
phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Con đờng văn chơng lúc bấy
giờ đối với một số tiểu t sản trí thức là lối thoát ly trong sạch, là nơi để gửi
gắm tâm sự yêu nớc thầm kín, phủ định xã hội đơng thời bằng cách thoát ly về
quá khứ, vào tình yêu, vào thiên nhiên, khẳng định cái tôi cá nhân, lý tởng hoá
cuộc sống hiện tại... Họ đã tạo nên một thứ văn xuôi giàu chất thơ, đậm chất
trữ tình, góp phần hình thành và phát triển một dòng văn học- dòng truyện
ngắn trữ tình, lãng mạn. Tác giả của dòng truyn ngn này là những thành
viên chủ chốt của Tự lực văn đoàn nh Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo,
Thạch Lam, Xuân Diệu. Ngoài ra còn có sự hiện diện của một số tác giả nh
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Ngọc Giao, Đỗ Tốn, Nguyễn Tuân...
Tuy nhiên, việc phân định các tác giả theo khuynh hớng nào chỉ dựa vào
các tác phẩm của họ vì có những tác giả, vừa viết theo khuynh hớng lãng mạn
vừa đậm chất hiện thực nh Thạch Lam, Hoàng Đạo. Và tên gọi dòng truyện
ngắn trữ tình, lãng mạn là bao quát cho tất cả những truyện ngắn viết theo
khuynh hớng lãng mạn. Còn nếu phân định rõ ràng thì những truyện đậm chất
trữ tình (thiên về tình cảm, cảm xúc) sẽ thuộc dòng truyện ngắn trữ tình và số

truyện nghiêng về bút pháp lãng mạn (chủ yếu là sáng tác của một số cây bút
của Tự lực văn đoàn và Nguyễn Tuân) sẽ thuộc dòng truyện ngắn lãng mạn.
Đầu tiên là văn chơng Tự lực văn đoàn, trong số tám thành viên chính thức
thì có tới bảy ngời viết truyện ngắn. Đặc điểm chung trong phần lớn truyện
của các tác giả Tự lực văn đoàn là tạo một không khí truyện đậm chất lãng
mạn, với một lối viết bay bổng, giàu sức gợi cảm. ở các cung bậc tình cảm
theo các chủ đề tình yêu, tình ngời, tình quê hơng hay mọi rung động của tâm
hồn đợc thể hiện phong phú, đa dạng. Tập trung ở các tập truyện nh Anh phải
sống, Đợi chờ, Đội mũ lệch, Tiếng suối reo (Khái Hng). Nhất Linh với các tập
truyện Anh phải sống (viết chung với Khái Hng), Tối tăm, Hai buổi chiều
vàng. Hoàng Đạo với các truyện Tiếng đàn, Cánh buồm trắng. Qua các truyện
ngắn trên, ta bắt gặp một Nhất Linh tinh tế trong việc diễn tả những cảm xúc
và diễn biến tâm lý. Một Khái Hng sôi nổi, yêu đời luôn vui vẻ lạc quan một


13
cách dễ dãi với những t tởng lãng mạn và ngây thơ, vui trong những nỗi buồn
man mác, trong những xao xuyến, bâng khuâng. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan
khi nhận xét phong cách viết truyện ngắn của Khái Hng, Nhất Linh đã cho
rằng thứ truyện tâm tình rất nhẹ nhàng và trong sáng.
Đi vào một số truyện là những trang văn nặng về tình cảm, thiên nhiên về
cảm xúc và nặng một nỗi buồn thơng nhớ. Thế rồi một buổi chiều (Nhất Linh)
là một câu chuyện tình lãng mạn giữa một S cô và Dũng. Qua câu chuyện nhà
văn đã phát hiện ra những rung động thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn S cô về
một khát vọng tình yêu tởng chừng đã vùi sâu, chôn chặt trong cái đời yên
tĩnh ở chùa, nhng rồi cái khao khát của cuộc đời trần tục đã vợt qua mọi sự
kiềm toả của lý trí để đến với tiếng gọi của cuộc đời tục lụy, đời ân ái.
Truyện Đợi chờ (Khái Hng) lại là câu chuyện tình đầy chất thơ. Cái cảm
giác mong nhớ đợi chờ của Linh với một giai nhân cùng lời hứa hẹn trong lúc
tình cờ gặp gỡ đợc diễn tả một cách tinh tế Đã hai năm chàng chờ đợi...và

trên bờ sông khóm cây vẫn yên lặng nghiêng mình, soi bóng xuống mặt nớc
xanh rêu... và trên ngọn đồi xa xa làn mây bạc vẫn ngập ngừng dừng lại.
Truyện ngắn của Hoàng Đạo chủ yếu hớng tới những số phận đói khổ,
thấp hèn, những cảnh đời tội nghiệp đáng thơng... Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của ông phong phú đủ các tầng lớp. Tất cả đợc thể hiện bằng một
cái nhìn nhân bản và những trang văn giản dị mà thấm đẫm tình ngời.
Nhìn chung, các truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo đều có
đặc điểm chung là trong sáng, hớng về những cái đẹp nguyên sơ, thuần phác
tiêu biểu cho khuynh hớng lãng mạn thời kỳ đầu trong văn học Việt Nam.
Thạch Lam đã kế thừa và phát huy một cách xuất sắc những thành tích của văn
chơng Tự lực văn đoàn. Bằng sự tìm tòi, sáng tạo nhà văn đã kiến tạo nên một
loại tự sự trữ tình trong văn học hiện đại. Có thể nói rằng, Thạch Lam là ngời
đóng vai trò trụ cột, là ngời khơi nguồn, khởi xớng cho dàn đồng ca truyện
ngắn trữ tình Chỉ đến Thạch Lam mới có thể làm cho truyện ngắn trữ tình trở
thành một khuynh hớng sáng giá trên văn đàn hiện đại. Sự thành công đó đã tạo
ra những âm hởng có sức lan rộng, vơn xa, tác động mạnh mẽ đến nhiều nhà
văn cùng thời: Nhiều nhà văn đã bắt nhịp, cộng hởng làm nên một dòng phong
cách truyện ngắn trữ tình đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu bao gồm những cây
bút trẻ nhng già dặn về bút pháp nghệ thuật [62; 229].
Qua các tập truyện Gió đầu mùa, Nắng trong vờn, Sợi tóc và một số truyện
khác, ta bắt gặp một Thạch Lam giàu tình cảm nhân đạo. Những truyện viết về


14
tình yêu, tình ngời, tình yêu quê hơng xứ sở đã đợc nhà văn thể hiện trên từng
thiên truyện ngắn một cách đằm thắm, nhẹ nhàng và tinh tế. Là một nghệ sĩ có
tâm hồn lãng mạn, Thạch Lam yêu cái đẹp, hớng tới cái đẹp, luôn chắt chiu
cái đẹp (Bùi Việt Thắng). Đọc truyện ngắn của Thạch Lam ta thấy cái đẹp
hiển hiện khắp nơi. Đó là cái đẹp của những giá trị tinh thần, những thuần
phong mĩ tục, những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, cái đẹp của tình ngời, của những nỗi niềm trắc ẩn. Đó là tình bà cháu âm áp hồn hậu trong Dới

bóng hoàng lan, là sự cần cù nhẫn nại, chịu thơng chịu khó của Tâm trong Cô
hàng xén... Cái đẹp mà Thạch Lam chăm chú phát hiện chính là cái đẹp trong
sâu thẳm tâm hồn con ngời. Tất cả những điều trên đợc diễn tả bằng một lối
văn nhuần nhị, tinh tế mang phong cách trữ tình Phong cách Thạch Lam là
phong cách trữ tình, ấn tợng, những ấn tợng lan truyền đến ngời đọc nhờ lối
văn đầy ắp cảm giác (Bùi Việt Thắng)
Xuân Diệu với tập Phấn thông vàng cũng đã thể hiện đợc nét tinh tế đằm
thắm. Có thể nói Xuân Diệu đã đa thơ vào truyện ngắn nên truyện của ông có
những nét đặc sắc riêng Rất Xuân Diệu, cái tôi ham sống trong thơ đã
giúp ông khi viết truyện phát hiện rất tinh tế những cái tù đọng, nhàm chán
đến vô vị. Sự vận động của thiên nhiên, cuộc sống, con ngời đợc tác giả truyền
tải trong một mạch văn xuôi tràn trề cảm xúc, đậm đà chất thơ.
Thanh Tịnh vừa làm thơ vừa viết văn nhng ngời đọc nhớ tới Thanh Tịnh và
yêu mến ông chủ yếu qua truyện. Với tập truyện ngắn Quê mẹ đủ đa ông vào
vị trí những tác giả viết truyện ngắn nổi tiếng giai đoạn 1930-1945. Truyện
ngắn của Thanh Tịnh có sức gợi cảm lớn, thấm sâu vào lòng ngời đọc. Vũ
Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (NXB KHXH, 1998) đã xếp Thanh Tịnh
vào dòng tiểu thuyết tình cảm và ông nhận thấy thứ tình cảm của Thanh Tịnh
là thứ tình êm dịu nhẹ nhàng, thứ tình cảm của ngời dân quê hồn hậu. Qua
các truyện ngắn, nhà văn đã hớng tới khám phá, phát hiện những vẻ đẹp bình
dị trong cuộc sống nh tình yêu, tình bạn, tình cảm gắn bó giữa con ngời với
quê hơng...đợc ông trình bày một cách nhẹ nhàng, đằm thắm. Phải nói rằng
Thanh Tịnh đã mang vào truyện ngắn chất trữ tình sâu lắng, một chất thơ bàng
bạc, thấm đẫm trên từng trang văn xuôi. Mỗi truyện ngắn của ông nh một bài
thơ trữ tình ngay từ nhan đề tác phẩm nh Tình th, Một đêm xuân, Tình trong
câu hát... Văn Thanh Tịnh mang vẻ đẹp thuần khiết, trong trẻo, gợi cảm và đằm
thắm đã tạo đợc sức sống lâu bền trong lòng độc giả.


15

Đọc văn của Hồ Dzếnh ta thấy phong cách truyện ngắn của ông gần với
truyện của Thạch Lam, Thanh Tịnh là nặng về cảm xúc trữ tình, thiên về kí ức,
hoài niệm. Tập Chân trời cũ (1942) là tập truyện mang tính chất hồi kí, tự
truyện. Cái cảm giác cô đơn, lẻ loi lạc loài dờng nh lúc nào cũng ám ảnh. Bởi
vậy, mỗi trang văn của ông đều chất chứa một nỗi buồn man mác, khi là tâm
sự và niềm hoài vọng về Cố hơng, khi là những kí ức, hoài niệm về dĩ vãng,
lúc lại khắc khoải giữa hạnh phúc và khổ đau. Cũng nh Thanh Tịnh, Thạch
Lam, ngòi bút Hồ Dzếnh đi sâu khám phá những vẻ đẹp bình dị trong đời
sống, đặc biệt là đời sống nội tâm con ngời. Và điều đó đợc thể hiện một cách
nhẹ nhàng tinh tế trên mỗi trang văn của ông.
Cũng giống nh Thạch Lam, văn của Đỗ Tốn cũng thiên về cảm xúc, cảm giác.
Với các truyện Hoa vông vang, Duyên số, Điệu thu ca, Tình quê hơng, Một kiếp
ngời ta cảm nhận thấy cái âm hởng, cái d vị của những tình cảm trong sáng đẹp
đẽ, đến những rung động sâu xa trong tâm hồn con ngời đợc nhà văn trình bày khá
tinh tế. Đó là những rung động e ấp, khẽ khàng của một trái tim chớm nở mối tình
duyên đầu đời (Hoa vông vang). Tình cảm chị em thiết tha đằm thắm đợc bao bọc
bởi không khí êm đềm tơi mát (Điệu thơ ca). Tất cả đều mang hơi hớng, dáng dấp
của truyện Dới bóng hoàng lan (Thạch Lam), Tình quê hơng (Thanh Tịnh). Ngoài
ra, phải kể đến Ngọc Giao, Thanh Châu với nhiều truyện nặng về tình cảm, cảm
xúc và đặng một nỗi buồn thơng nhớ.
Tên tuổi của Nguyễn Tuân gắn liền với trào lu văn học lãng mạn Việt
Nam. Là cây bút tiêu biểu của trào lu văn học này, vì vậy sáng tác của Nguyễn
Tuân nói chung và truyện ngắn của ông nói riêng đậm chất lãng mạn. Do bất
hoà với xã hội ối a ba phèng ô trọc, ông đã phóng to cái tôi của mình lên
nh một phơng tiện để chống trả. Ta bắt gặp Một Nguyễn Tuân giang hồ và
lãng mạn mang cái Tôi kênh kiệu và khinh bạc đi lù lù, ngang bớng giữa cuộc
đời, xem đó nh một vũ khí chống trả lại cái xã hội kim tiền ô trọc, một
Nguyễn Tuân tôn thờ cái Đẹp, chắt chiu, trân trọng cái Đẹp trong cuộc sống
hàng ngày, trong ngôn ngữ và truyền thống dân tộc [11; 525].
Tập truyện Vang bóng một thời đã làm sống dậy nét đẹp xa của một thời

phong kiến suy tàn. Thời có những ông Nghè, ông Cử, ông Tú sống nhàn tản
với những thú chơi phong lu, tao nhã nhng rất cầu kỳ. Nguyễn Tuân đã thực sự
say sa tỉa tót, tô đậm thêm cái nét xa đã mờ nhạt, nét vẽ của những ngày đã
qua, một thời đã tàn. Những sinh hoạt của đời thờng hàng ngày nh uống trà,


16
đánh cờ, chơi hoa, đánh thơ, thả thơ đợc tỉa tót một cách cầu kỳ, trang trọng
nh một thứ lễ nghi, một thứ đạo, một lý tởng sống.
Tập t truyện Nguyễn, nhà văn đã ca ngợi cuộc sống xê dịch, thoát ly
bằng những hình ảnh đẹp đẽ, qua đó phơi bày những lạc thú vốn đã đợc nâng
lên nh một biểu tợng. Tất cả thể hiện niềm khát khao, hy vọng cũng nh nỗi
chán chờng, tuyệt vọng của Nguyễn Tuân trớc cuộc đời, trớc cuộc sống lúc
bấy giờ.
Tất cả những gơng mặt tiêu biểu kể trên đã đóng góp vào dòng truyện
ngắn trữ tình, lãng mạn nhiều tiếng nói phong phú đa sắc, đa thanh tạo nên
một dòng truyện ngắn theo khuynh hớng lãng mạn đậm bản sắc riêng, làm
phong phú diện mạo văn học Việt Nam hiện đại và góp phần hoàn thiện quá
trình hiện đại hoá văn học dân tộc.
1.2.3.2. Dòng truyện ngắn hiện thực
Hiện thực cuộc sống đầy biến động của xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945
đã tạo nên những mảng đề tài phong phú khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các
nhà văn nói chung và những ngời viết truyện ngắn nói riêng. Họ đã tạo nên một
thứ văn xuôi phản ánh hiện thực xã hội đầy biến động lúc bấy giờ, góp phần hình
thành và phát triển một dòng truyện ngắn - dòng truyện ngắn hiện thực.
Có thể xem thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa hiện thực.
Lực lợng sáng tác ngày càng đông đảo nh: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,
Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Tô Hoài... Các nhà văn hiện
thực này đã đề cập một cách trực tiếp những vấn đề bức xúc, nóng bỏng của
hiện thực xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ở một giai đoạn lịch sử đầy

sóng gió một cách chân thực, sinh động. Những vấn đề mâu thuẫn, đấu tranh
giai cấp, áp bức bóc lột, sự bất công thối nát trong xã hội, sự bần cùng tha hoá
của con ngời trớc sức tấn công của hoàn cảnh...đã đợc ngoài bút tả chân, tả
thực của các nhà văn miêu tả, trình bày một cách khách quan đúng nh sự tồn
tại vốn có của nó với một cảm hứng phê phán mãnh liệt. Chính điều đó đã làm
nên sự đa dạng của dòng truyện ngắn hiện thực.
Nguyễn Công Hoan là cây bút tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán và
ông cũng là tác giả tiểu biểu của dòng truyện ngắn hiện thực. Thông qua tiếng cời trào phúng, nhà văn tập trung khai thác và làm nổi bật xung đột giàu - nghèo,
sự bất công thối nát của xã hội. Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đã
phản ánh rõ nét sự đụng chạm của cái giàu và cái nghèo trên đờng đời với
một niềm căm phẫn cao độ. Nhà văn đã thẳng tay phê phán, đả kích những kẻ


17
giàu mà bất nghĩa, những kẻ đầy quyền lực mà bất nhân nh Răng con chó nhà
t sản, Kép T bền là những truyện tiêu biểu cho thấy sự thảm hại của ngời
nghèo trong xã hội đồng tiền là trên hết. Ngời nghèo trong xã hội đó, không
những khổ vì đói mà còn khổ vì bị xúc phạm nhân phẩm, bị chà đạp một cách
phũ phàng (Bữa no đòn, Thằng ăn cắp, Chị phu mỏ). Bên cạnh đó, nhà văn
còn phơi bày bản chất xấu xa, bỉ ổi và tàn ác của tầng lớp quan lại từ ông quan
Phụ mẫu đến ông Lý, những ông chủ, bà chủ ở thành thị nh các truyện: Sáu
mạng ngời, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Báo hiếu trả nghĩa cha, Đồng hào có ma,
Tinh thần thể dục... Qua đó ngời đọc hình dung một bức tranh xã hội nhố
nhăng, đồi bại, đầy sự bất công của xã hội đơng thời.
Vũ Trọng Phụng cũng đợc xem là cây bút tiêu biểu của văn học hiện thực
phê phán. Truyện ngắn của ông (gần ba mơi truyện) đề cập đến những trạng
thái tâm lý khác nhau trong đời sống hàng ngày nh sự tha hoá về những vấn đề
đạo đức, thế thái nhân tình trong cái xã hội đen tối, đảo điên. Đồng thời nó
còn toát lên sự căm ghét sâu sắc thế lực và sức mạnh của đồng tiền nh truyện
Bộ răng vàng nói về một cụ già vô phúc vì có hai đứa con bất hiếu, lúc lâm

chung chúng đã cạy miệng cha để lấy bộ răng vàng. Nói chung, đồng tiền đã
biến mọi quan hệ giữa ngời với ngời thành quan hệ mua bán hết sức trắng
trợn, nó dẫn con ngời trợt dài trên sự tha hoá (Bà lão loà, Trúng số độc đắc,
Một cái chết). Bên cạnh đó nhà văn còn mỉa mai, giễu cợt lối sống rỡm đời,
buông thả, bê tha, lối sống ngông nghênh, vô nghĩa và hết sức lố bịch (Hồ Sê
Líu, Hồ Líu Sê sàng, Từ lý thuyết đến thực hành). Có thể khẳng định, trong
truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, bao nhiêu mặt đen tối, những tệ nạn, thói h
tật xấu đợc phơi bày, đợc phanh phui. Qua đó chúng ta cũng thấy rằng ông
không phải là nhà văn khách quan chủ nghĩa, hững hờ với những con ngời
bất hạnh, mà thực ra ông còn là một nhà văn thực sự đồng cảm với số phận
đáng thơng của những ngời nghèo khổ.
Truyện ngắn của Nguyên Hồng tuy không trực tiếp miêu tả những mâu thuẫn
giai cấp, những đối kháng trong xã hội nhng đã lột tả một cách chân thực quá
trình bần cùng hoá, lu manh hoá của những ngời thành thị, những tấn bi kịch đớn
đau của tầng lớp ngời dới đáy xã hội. Ông tỏ ra là một nhà văn hiện thực nhạy
cảm với vấn đề xã hội và chan chứa lòng yêu thơng con ngời. Thế giới nhân vật
trong tác phẩm Nguyên Hồng chủ yếu là những con ngời dới đáy xã hội của
thành phố cảng Hải Phòng, từ kẻ lu manh, gái điếm, kẻ ăn mày, ăn xin họ đã phải


18
sống một cuộc đời khổ đau bất hạnh, chịu hết nạn nọ đến nạn kia. Những tác
phẩm nh Ngọn lửa, Hơi thở tàn, Giọt máu, Đây bóng tối, Hai mẹ con, Trong
cảnh khốn cùng đã thể hiện đợc lòng yêu thơng vô hạn, sự đau xót, nhức nhối trớc nỗi đau, nỗi khổ của những ngời lao động nghèo.
Nếu nh Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng là những
nhà văn tiêu biểu cho thời kỳ đầu của văn xuôi hiện thực phê phán thì Nam
Cao lại là ngọn cờ đầu của văn xuôi thời kỳ sau. Truyện của Nam Cao tập
trung vào hai đề tài là: Ngời nông dân nghèo và ngời trí thức nghèo. ở đề tài
ngời nông dân nghốo, Nam Cao đã làm rõ bi kịch của những ngời nông dân bị
hạn hán, lụt lội làm cho chiêm khô mùa thối, nạn thóc cao gạo kém, công xá

rẻ mạt đẩy bao gia đình đến cảnh ly tán, mỗi ngời một ngã để kiếm ăn. Nạn cờng hào địa chủ hà hiếp, bóc lột khiến cho cuộc đời bao kẻ lơng thiện bỗng
hoá thành những gã lu manh quẫn bách (Chí Phèo, Một đám cới, Lão Hạc,
Lang Rận, Dì Hảo, Một bữa no...).
ở đề tài ngời trí thức nghèo, nổi bật là các truyện Trăng sáng, Những
truyện không muốn viết, Quên điều độ, Đời thừa... Nhân vật chính của các
truyện về đề tài này đều là những nhà văn nghèo, những giáo khổ trờng t,
những học sinh thất nghiệp dở sống, dở chết vì cảnh nghèo khổ đói thiếu.
Ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phát hiện, miêu tả, đi sâu vào tấn bi kịch
trong tâm hồn họ. Tấn bi kịch đó chính là mâu thuẫn giữa ý thức sâu sắc về
giá trị của sự sống và nhân phẩm, những ớc mơ, khát vọng về một sự nghiệp
và gánh nặng cơm áo, những lo toan tẹp nhẹp đời thờng để rồi họ trở thành
ời thừa. Từ đó nhà văn lên án cái xã hội ngột ngạt bóp nghẹt cả quyền
sống, quyền làm ngời của họ. Nh vậy, Nam Cao không chỉ đi sâu vào khai
thác nỗi khổ vật chất mà còn quan tâm đến nỗi khổ tinh thần của con ngời.
Với lòng yêu thơng con ngời, sự cảm thông sâu sắc, nhà văn luôn gần gũi và
thể hiện lòng yêu thơng cực độ đối với những thân phận nghèo khổ bế tắc.
Nam Cao đã phát hiện, nâng niu những bản chất tốt đẹp ẩn sâu trong tâm hồn
họ, phẫn nộ trớc những ngang trái bất công của xã hội cũ, thấu hiểu đợc hoàn
cảnh phi nhân tính đã làm tha hoá con ngời. Chính những điều đó đã tạo nên
giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn của Nam Cao.
Truyện ngắn của Tô Hoài giúp ta tìm hiểu những con ngời với các phong
tục, tập quán sinh hoạt của một vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội. Nhng
đằng sau cái màu sắc phong tục đó, ngòi bút hiện thực của Tô Hoài đã phản


19
ánh đợc một xã hội đang đói khổ, cùng quẫn. Xã hội của những ngời nông dân
nghèo, những thợ dệt bị phá sản, những mối tình dang dở, trai gái phải bỏ làng
đi làm thuê làm mớn, đi kéo xe ngoài tỉnh. Những truyện đầu tay của Tô Hoài
đã bắt nguồn từ hiện thực ở vùng Nghĩa Đô quê ông những năm mù xám trớc

Cách mạng tháng Tám.
Nh vậy, với sự đóng góp của các tên tuổi nh Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... đã làm nên một dòng
truyện ngắn - dòng truyện ngắn hiện thực góp phần tô điểm cho bức tranh
chung của văn học Viêt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
1.3. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn
và trong bức tranh chung của truyện ngắn Vit Nam giai đoạn 1930-1945
1.3.1. Truyện ngắn Nguyễn Tuân trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Dẫu đã từ giã cõi đời này nhng sự nghiệp văn chơng mà Nguyễn Tuân để
lại đã có một vị trí ổn định và xứng đáng trong nền văn học dân tộc. Là một
ngời tài hoa, uyên bác, giàu cá tính, Nguyễn Tuân hoạt động trên nhiều lĩnh
vực: viết văn, làm báo, diễn kịch. ở lĩnh vực nào ông cũng say sa thể hiện hết
cái tôi tài hoa của mình.
Bớc vào nghề văn, Nguyễn Tuân thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí,
truyện ngắn theo khuynh hớng hiện thực trào phúng nhằm lên án bọn thống trị
đế quốc tay sai và đã để lại ít nhiều dấu ấn. Từ 1938-1940 trở đi, ông mới định
hình đợc sở trờng của mình và thành công xuất sắc với hàng loạt truyện ngắn
và tuỳ bút. Đặc biệt, Nguyễn Tuân đã khẳng định tài năng đặc biệt của mình
bằng sự đột phá ở đề tài, cảm hứng và thi pháp sáng tác trong thể loại truyện
ngắn. Khởi đầu là truyện Vờn Xuân Lan tạ chủ (truyện ngắn đăng lần đầu trên
Tiểu thuyết thứ bảy, 1935) và các truyện Một vụ bắt rợu lậu, Đánh mất ví, Gỡ
cái vạ vịt, Mời năm trời mới gặp lại cố nhân, Thời sự. Sau đó là tập Vang bóng
một thời và một loạt truyện Yêu ngôn và tập tự truyện Nguyễn... Nguyễn Tuân
đã mang vào một thứ lạ trong văn học (Vơng Trí Nhàn) và tự vạch cho mình
một lối đi riêng, một phong cách độc đáo không thể trộn lẫn với bất cứ nhà
văn nào.
Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, tập truyện Vang bóng một thời đợc đánh
giá cao nhất về t tởng và nghệ thuật. Lần đầu tiên, quá khứ và xã hội phong
kiến Việt Nam đợc xem xét và ghi chép từ cái nhìn hiện đại. Nguyễn Tuân
không viết về trật tự xã hội, về t tởng, đạo đức cũ mà thiên về mô tả, ngợi ca



20
những vẻ đẹp riêng về một thời xa cũ. Những phong tục đẹp, những thú chơi
tao nhã, lành mạnh hiện lên một cách chân thực. Trong khi những nhà văn
khác sao nhãng quá khứ thì Nguyễn Tuân, bằng tình yêu tha thiết quê hơng,
đất nớc, thái độ trân trọng những giá trị văn hoá của dân tộc và lòng yêu mến
dĩ vãng, tiếc thơng dĩ vãng, nhà văn đã vớt lại những vẻ đẹp đã qua và làm
sống lại cả một thời xa bằng những trang văn để đời mà về sau ông không
bao giờ đạt tới nữa.
Đối tợng mà Nguyễn Tuân hớng tới là những nhà Nho cuối mùa. Họ là
những ông Cử, ông Nghè, ông Tú, những quan hu nh cụ Kép, cụ Thợng, cụ
ấm...có nhân cách, tài hoa nhng bất đắc chí. Họ chơi ngông với đời bằng lối
sống ẩn mình, bỏ ngoài danh lợi, chỉ biết vui thú, hởng lạc một cách tao nhã,
đài các, cầu kì. Đó là cụ ấm (Chén trà trong sơng sớm) thích uống và pha trà
với thứ nớc đọng lại trong lá sen buổi sớm mai. Cha bao giờ ông già này dám
cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm ny, pha cho mình cũng nh mời khách,
cụ ấm để vào đó bao nhiêu công phu, những công phu đã trở thành lễ nghi.
Một cụ Kép (Hơng cuội) đã để tất cả cái quãng đời xế chiều của mình vào
việc chăm sóc một vờn hoa quý... Cách chơi hoa, uống trà đều toát lên sự cầu
kỳ, lịch lãm, tài hoa đầy nghi lễ và rất đỗi đời thờng. Tất cả những cái đẹp ấy
đợc Nguyễn Tuân nâng niu, trân trọng, miêu tả một cách cầu kỳ và nâng lên
hàng nghệ thuật. Theo Nguyễn Đăng Mạnh Vang bóng một thời cũng nh
nhiều tuỳ bút của ông, còn thấy những mĩ tục nói lên thái độ sống giản dị mà
sâu sắc, thanh đạm mà tinh tế.
Do nhu cầu khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác khiến ngòi bút Nguyễn
Tuân đôi chỗ hơi cực đoan, chỉ quan tâm đến cái đẹp thuần tuý mang tính hình
thức. Vì thế, ngời đọc có cảm giác vừa thú vị vừa rợn rợn về cái đẹp của nghệ
thuật chém treo ngành của Bát Lê (Bữa rợu máu), cái đẹp của nghệ thuật
ném bút chì (Một đám bất đắc chí). Tất nhiên, ẩn trong cái đẹp lạnh lùng và

tàn bạo đó, ngời đọc vẫn nhận thấy chút hơi hớng của hiện thực và ý nghĩa
tích cực của việc phản ánh hình tợng đó.
Nh vậy, với sự độc đáo về quan niệm, đề tài, cảm hứng sáng tác và thái độ
thiết tha trân trọng cái đẹp quá khứ. Vang bóng một thời trở thành tác phẩm
bất tử với thời gian.
Khoảng những năm cuối của chế độ thuộc địa, trong một tâm trạng hoang
mang, bế tắc cực độ Nguyễn Tuân đã viết một loạt tác phẩm: Một ngời muốn


21
đập vỡ đàn, Có một ngời không muốn ốm nữa, Một ngời tỉnh rợu đốt cháy
rừng trúc...tập tự truyện Nguyễn và một loạt truyện mang màu sắc h ảo, kinh
dị mà ông gọi là Yêu ngôn (Xác Ngọc Lam, Rợu bệnh, Đới-Roi, Lửa nến trong
tranh, Loạn âm,). Những sáng tác này, cho thấy chân dung tơng đối toàn diện
về con ngời Nguyễn Tuân trong thời kỳ có nhiều khủng hoảng, bế tắc về t tởng.
Nhà văn đã đi vào một loạt truyện thần kỳ, quái đản, thả t tởng của mình
vào cõi âm để tránh xa cuộc sống trần gian. Yêu ngôn là mảng sáng tác đặc
biệt của Nguyễn Tuân. Khoảng 1943, Nguyễn Tuân đã cho đăng trên tờ Thanh
Nghị và Trung Bắc Chủ nhật một số truyện ngắn hoang đờng viết theo lối
Liêu Trai Của Bồ Tùng Linh. Ông dự định sẽ in Yêu ngôn, một tuyển tập gồm
nhiều tác phẩm mang tính h ảo, huyền bí nhng cha kịp làm thì Cách mạng
tháng Tám nỗ ra. Về sau, năm 1998, Nguyễn Đăng Mạnh đã biên soạn và cho
xuất bản Yêu ngôn gồm Rợu bệnh, Đới-Roi, Xác Ngọc Lam, Lửa nến trong
tranh, Loạn âm. Nhà biên soạn còn đa vào tập sách hai truyện in trong Vang
bóng một thời là Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non tản cùng phần cốt lõi
của Chùa Đàn, tựa đề Tâm sự của nớc độc, viết trớc năm 1945 (Nhà xuất bản
Hội Nhà văn, 2000). Yêu ngôn không đợc phổ biến rộng rãi nh Vang bóng một
thời nhng sự độc đáo của của chủ đề, t tởng và thi pháp đã tạo nên một
Nguyễn Tuân một mình một cõi, không thể trộn lẫn với bất kỳ ai. Có thể xem
Yêu ngôn là cuộc săn tìm cảm giác mới lạ, mãnh liệt. ở đề tài này, nhà văn đã

bọc lộ tất cả sức mạnh của trí tởng tợng để diễn tả niềm khao khát, cảm giác
khác thờng, mãnh liệt. Điều mà Nguyễn Tuân không tìm thấy trong cuộc sống
thực tại. Trong thế giới kỳ ảo của Nguyễn Tuân, cái thực và cái ảo, ma và ngời,
âm và dơng hoà lẫn. Sự độc đáo của tập truyện này là viết về thế giới ma quái,
về cõi âm nhng nhà văn không chỉ hớng ngời đọc đến sự sợ hãi mà đằng sau
lớp sơng khói huyền ảo ma quái ấy, Nguyễn Tuân vẫn muốn hớng con ngời
đến cái đẹp, cái thiện... Xác Ngọc Lam là câu chuyện tình kỳ lạ giữa cô Dó
(thần Dó) và cậu Năm, ngời họ Chu có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Cô Dó quê
ở thợng ngàn, trót yêu cậu Năm cô đã theo chồng về xuôi v ẩn thân trong
phiếm đá, hàng đêm cô Dú hát cho chồng nghe và giúp chồng làm giấy. Khi
cu Nm qua i, cô Dú không về thợng ngàn mà vẫn ở lại giúp con cháu nhà
chồng đợc năm đời thỡ lu lạc vào tay k phàm tục. Thần Dó chết, di hài nàng
và phiếm đá (nơi ẩn tích của nàng) biến thành Xác Ngọc Lam. Truyện Loạn


22
âm lại là một cuộc hàn huyên thần kỳ, quái đản giữa hai ngời là ông quan
Kinh Lịch trên trần và một vị Quan Ôn dới cõi âm đợc Diêm Vơng cử về trần
mộ phu xuống âm phủ. Vì tình nghĩa trớc đây, vị Quan Ôn này đã đến nhà ông
Kinh Lịch giữa đêm hôm khuya khoắt đa danh sách những ngời mình định bắt
xem có ai là ngời thân của bạn để châm chớc.
Nh vậy, không hớng đến đề cao những ông Nghè, ông Cử tài hoa bất đắc
chí a sống nhàn nhã với những thú chơi lành mạnh, tao nhã mà Yêu ngôn hớng
tới một thế giới thần bí. Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều chi tiết huyền ảo để
tạo nên một thế giới huyền ảo kiểu Liêu Trai của Bồ Tùng Linh cùng với một
thứ ngôn ngữ tài hoa, phong phú với những cách diễn đạt cầu kỳ khác lạ. Tất
cả đã tạo nên một Yêu ngôn biến ảo, có sức hấp dẫn kỳ lạ.
Tập truyện Nguyễn gồm sáu truyện: Nhà Nguyễn, Đôi tri kỉ gợng, Chuyến
xe tình, Cái cà vát đen, Một ngời cha về ăn tết, Lửa trại là hình ảnh cái tôi
Nguyễn Tuân tài năng, ôm ấp khát vọng khẳng định mình bằng một sự nghiệp

văn chơng và luôn mang tâm trạng bất hoà trớc thời cuộc. Nguyễn đã dùng
một quyển sách in để tỏ rõ cá tính của mình. Cuốn sách đã đánh dấu sự có mặt
của chàng ở cuộc sống này - một cuộc sống đầy bất mãn và uất kết. Và đôi
lúc, Nguyễn cảm tởng mất hết cả tự tin trong cái lối sống mà trớc kia chàng
cho là mầu nhiệm. Trong một tâm trạng chán chờng, trống rỗng và bi quan
Nguyễn thắt một cái cà vát đen để tự để tang mình (Cái cà vát đen), thậm
chí để giải toả bức bối chàng đã ra đi, bất cần gia đình, vợ con. Đi để kiếm tìm
cảm giác mới lạ và để thất vọng. Sau mỗi cuộc đi Nguyễn trở về, điều làm cho
chàng thích thú là tìm sự thoải mái cho thân thể. Nguyễn tởng rằng sau một
tuần đi xa trở về sẽ có điều gì mới mẻ nhng chàng đã hoàn toàn thất vọng (Mợn cái vui của ngời khác) và chàng đã tự vẽ chân dung mình nh một con ngời
cô độc. Chàng đã tự chọn cho mình con đờng lập ngôn để khẳng định, để gây
sự với đời (Đôi tri kỉ gợng), thậm chí Nguyễn còn tỏ ra kiêu ngạo, bất cần tất
cả. Chàng đã thi vị hoá cuộc sống lập dị, phóng to cái tôi nghệ thuật của
mình lên coi đó là thứ vũ khí chống trả với cuộc đời đáng chán này.
Nhìn lại sáng tác của Nguyễn Tuân trớc Cách mạng, đa số các nhà nghiên
cứu cho rằng Nguyễn Tuân là một hiện tợng phức tạp về quan điểm, t tởng
nghệ thuật. Song, không thể phủ nhận giá trị văn chơng của ông. Nguyễn Tuân
vẫn luôn là một nhà văn đợc bạn đọc trân trọng. Giá trị văn chơng trong
truyện ngắn của ông giàu tính nhân văn. Vơng Trí Nhàn đánh giá về Nguyễn


23
Tuân là trong số ít những nhà văn ở ta nhạy cảm về hình thức và có đợc cách
hiểu toàn diện về bản chất cái đẹp trong hình thức nghệ thuật. Đọc văn
Nguyễn Tuân luôn luôn cảm thấy hình thức đứng ra thách thức với nội dung,
giữa hình thức và nội dung vừa sóng đôi nhau, vừa đuổi bắt nhau.
Cách mạng tháng Tám đã giúp cho Nguyễn Tuân thoát khỏi những bế tắc
trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Cách mạng đã làm thức dậy trong lòng
ông niềm tin yêu đối với cuộc sống, đối với con ngời. Nó làm hồi sinh một trái
tim luôn ôm ấp một tình yêu quê hơng đất nớc. Một cuộc đời mới, một quan

niệm nghệ thuật mới đã mở ra với Nguyễn Tuân. Ông đã xông xáo và hăng hái
đem ngòi bút của mình để phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, phục vụ từng
bớc đi của Cách mạng. Trong niềm vui ấy ông đã viết một loạt tác phẩm: Vô
đề (sau đổi thành Lột xác), Chùa Đàn, Quán Tơi... Vô đề có thể gọi là tuyên
ngôn của Nguyễn Tuân trớc thay đổi của đất nớc, của dân tộc.
Thật khó hình dung một anh chàng Nguyễn lãng tử, kiêu ngạo, bất cần,
chán chờng thuở nào nay lại bằng lòng ở lại giữa đời này. Hơn nữa lại vứt
hết lòng kiêu căng...trở nên khiêm tốn và muốn có ngay một thái độ khuất
nhục để nêu rõ mọi sự phục thiện của mình. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng
Nguyễn Tuân đã quan niệm cuộc Lột xác đơn giản, dễ dàng quá. Nhng dẫu
sao chúng ta cũng phải ghi nhận lòng nhiệt thành, niềm tin yêu đối với Cách
mạng, đối với cuộc đời mới của Nguyễn Tuân. Vì thực sự nó đã đánh dấu một
bớc chuyển về t tởng của một trí thức yêu nớc.
Cũng nh Lột xác, Chùa Đàn nằm trong mạch văn sám hối của Nguyễn
Tuân ở những ngày đầu Cách mạng. Hoàng Nh Mai cho rằng Chùa Đàn ấy là
tất cả nhà văn Nguyễn Tuân, một Nguyễn Tuân toàn vẹn, tinh hoa t tởng, tài
hoa văn chơng.
Vẫn tiếp mạch truyện viết về mối liên hệ siêu hình giữa sống và chết của
những ngời tài tử, những ngời nghệ sĩ trong một không gian huyễn hoặc, phi
thực mà Nguyễn Tuân đã viết trớc Cách mạng. Có thể xem Chùa Đàn là tác
phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân. Chỉ có một tâm hồn nghệ sĩ và tài năng
văn chơng nh Nguyễn Tuân mới có thể viết nên những áng văn nh vậy.
Nguyễn Tuân đã đa ngời đọc vào một thế giới linh thiêng của nghệ thuật, vào
cái đẹp vĩnh hằng không thể thiếu đợc trong cuộc sống này.
Quán Tơi là truyện ông viết trong giai đoạn 1945-1956 cũng đã thể hiện đợc niềm vui trong từng bớc đi của Cách mạng. Nhân vật Khâu đến với Quán
Tơi và anh cảm thấy một niềm vui sớng thật sự về cuộc sống nơi đây. Chuyện


24
về những ngời đi Cách mạng, về những ngời trên phố lo làm ăn... Tất cả tạo

nên không khí nhộn nhịp v cuc sng mi.
Có thể khẳng định Lột xác, Quán Tơi nhất là Chùa Đàn là những phơng
diện khác nhau trong tâm hồn Nguyễn Tuân ở một thời điểm đang chuyển
biến dữ dội về t tởng. Không còn chàng Nguyễn khinh bạc, bất cần thủ nào
mà chỉ có Nguyễn Tuân hôm nay đã thực sự sống trong quần chúng.
Với lòng nhiệt tình Cách mạng, tình yêu tha thiết đối với quê hơng, đất nớc và những hiểu biết sâu sắc về cảnh sắc và con ngời Việt Nam nên ngoài thể
loại truyện ngắn, Nguyễn Tuân còn sáng tạo nhiều thiên tuỳ bút đặc sắc nh:
Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình (1955 - 1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi (1972) cùng rất nhiều tuỳ bút nổi tiếng về cảnh sắc và hơng vị
đất nớc Việt Nam.
Nh vậy, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia làm hai giai đoạn là trớc
và sau Cách mạng. Để làm nên một văn nghiệp tầm vóc của ông, ngoài thể
loại tuỳ bút thì truyện ngắn cũng để lại những dấu ấn quan trọng góp phần tạo
nên sự vẻ vang của nhà văn. Truyện ngắn của Nguyễn Tuân tuy số lợng không
nhiều bằng tuỳ bút nhng với thể loại này, ông đã chứng tỏ mình nh một cây
bút truyện ngắn có phong cách độc đáo. Với các tập Vang bóng một thời, Yêu
ngôn, Nguyễn Tuân xứng đáng là cây bút truyện ngắn có hạng trong Văn học
lãng mạn Việt Nam nói riêng và là những tác phẩm có giá trị của nền văn xuôi
Việt Nam hiện đại.
1.3.2. Truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong bức tranh chung của truyện
ngắn Vit Nam giai đoạn 1930-1945
Từ năm 1930-1945, văn học Việt Nam phát triển rực rỡ và đạt đợc nhiều
thành tựu trên nhiều lĩnh vực cả thơ lẫn văn xuôi. Đặc biệt là truyện ngắn đã
phát triển và gặt hái đợc những thành tựu rõ nét. Các cây bút viết truyện ngắn
sáng tác theo nhiều khuynh hớng khác nhau đã làm nên một diện mạo đa
dạng, phong phú cho văn học giai đoạn này. Đầu tiên là văn chơng Tự lực văn
đoàn với các tên tuổi nh Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo. Họ - những thành
viên trong văn đoàn - là những ngời có công đầu trong công cuộc chống lễ
giáo phong kiến, tuyên chiến với t tởng cổ hủ, đề cao chủ nghĩa cá nhân, biểu
dơng tầng lớp trẻ tuổi đại diện cho t tởng mới, đấu tranh vì tự do và hạnh phúc

cá nhân. Có thể khẳng định văn chơng Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp


25
to lớn vào việc cách tân nội dung và hình thức văn học. Song hành với những
truyện ngắn viết theo khuynh hớng lãng mạn là những truyện ngắn viết theo
khuynh hớng hiện thực phê phán với những tên tuổi nổi tiếng nh Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng. Trong số những gơng
mặt tiêu biểu trên, có thể xếp Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng xuất hiện ở giai đoạn đầu của văn học hiện thực còn Nam Cao là ngời
xuất hiện ở giai đoạn sau. Nguyễn Công Hoan nhìn thẳng vào hiện thực, bằng
tiếng cời trào phúng, phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu
sống vô đạo còn ngời nghèo thì bị ức hiếp đói khổ cùng cực. Vũ Trọng Phụng
lại có một cái nhìn đầy phẫn uất hớng vào xã hội mà theo ông chỉ thấy lũ
khốn nạn, quan lại tham nhũng, đàn bà h hỏng, đàn ông dâm đãng, một tụi
văn sỹ đầu cơ xảo quyệt. Cái xã hội mà ông gọi là chó đểu vô nghĩa lý.
Nguyên Hồng bằng tình cảm nhân đạo, tình yêu thơng con ngời tha thiết, mỗi
sáng tác của ông đã làm sống dậy cuộc sống lam lũ, cơ cực, bần cùng của
những ngời lao động nghèo khổ. Ngô Tất Tố thì nhìn cuộc đời bằng tiêu chí
của đạo đức, dùng đạo đức để đánh giá con ngời. Trong sáng tác của mình,
Ngô Tất Tố đã thể hịên đợc tình cảm yêu thơng cảm mến đối với những kiếp
ngời khổ sở, cơ cực và sự căm phẫn tột độ đối với những ông quan trên, những
loại ngời bất nhân, đểu cáng. Đến với Nam Cao, ngời đọc luôn cảm thấy ngột
ngạt và ảm đạm không nguôi về số phận những con ngời khốn khổ. Cái không
khí ngột ngạt đó chủ yếu là do hiện thc của xã hội lúc bấy giờ. Trớc cái nghèo,
cái đói của cơm áo con ngời bị đè nén đến cùng cực, những quyền cơ bản của
họ không đạt đợc, những ớc mơ khát vọng bị đổ vỡ, nhân vật đi vào con đờng
tha hoá. Song, bất cứ trong hoàn cảnh nào nhân vật trong truyện ngắn của
Nam Cao vẫn luôn có ý thức vơn lên để không rơi vào con đờng tha hoá.
Trong bức tranh chung đó thì truyện ngắn Nguyễn Tuân đã có một cái nhìn

rất riêng. Nói nh Vũ Ngọc Phan Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng hẳn về một
phái riêng, cả lối văn lẫn về t tởng. Là nhà văn tiêu biểu cho trào lu văn học
lãng mạn những năm 1939 - 1945, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ mình là một cây
bút truyện ngắn có phong cách riêng, độc đáo, xứng đáng là một tác gia văn
học lớn. Phan Cự Đệ khẳng định Từ 1939 - 1940 văn học lãng mạn Việt Nam
xuất hiện một phong cách truyện ngắn hết sức độc đáo: Nguyễn Tuân suốt đời
đi tìm cái Đẹp, thờ cái Đẹp nh tôn giáo của mình [12; 333].
Nguyễn Tuân đến với văn học thời kỳ này do bất hoà với xã hội ối a ba
phèng ô trọc, ông phóng to cái tôi của mình lên nh một phơng tiện để


×