Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức dạy học ngoại kháo chương Từ vi mô đến vĩ mô lớp 12 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.34 MB, 103 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định : “Giáo dục
đào tạo cùng với KHCN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc
đẩy CNH- HĐH đất nước”. Mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người
có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Có
tri thức khoa học hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại
hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động thầy
giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp
cận tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một
cách có hệ thống và có tư duy logic, phân tích tổng hợp, phát triển năng lực của
mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của HS trong quá trình học
tập…”
Luật giáo dục năm 2005 cũng quy định : “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS, phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”.
Những năm gần đây công tác ngoại khóa ở các trường phổ thông đã được
quan tâm hơn, hoạt động ngoai khoá đã được đưa vào kế hoạch giảng dạy giáo
dục của nhà trường.GV đựơc cử đi tập huấn. Tuy vậy khi thực hiện GV vẫn
còn nhiều lúng túng trong soạn thảo nội dung trong cách tổ chức cũng như trong
lý luận. Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa nói chung và vật lí nói riêng là
rất cần thiết. Trong chương trình vật lí phổ thông chương “Từ vi mô đến vĩ mô”
là một chương cung cấp những kiến thức mới so với chương trình cải cách, có


-2-



nội dung trừu tượng. Qua tìm hiểu thực tế dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ
mô” ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Tuyên Hoá – Tĩnh Quảng Bình tôi
nhận thấy hầu hết các GV chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình, HS tiếp thu
một cách thụ động do đó không khơi dậy được tính năng động, sáng tạo, tự chủ
trong học tập của HS.
Hiện nay công nghệ thông tin ngày càng chiếm một vai trò quan trọng được
ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Công nghệ thông tin có thể hỗ trợ đắc
lực cho giáo viên, học sinh, các nhà quản lý giáo dục trong việc nghiên cứu
chương trình các môn học hay mô tả các sự vật hiện tượng...Nhiều phần mềm
sáng tạo hỗ trợ việc tự học, tự ôn tập của học sinh, đặc biệt mạng Internet là
nguồn thông tin, dữ liệu hết sức dồi dào GV có thể khai thác để phục vụ cho
việc đổi mới PPDH và mở rộng kiến thức.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài: Ứng dụng công nghệ thông
tin vào tổ chức dạy học ngoại khóa chương “Từ vi mô đến vĩ mô” ở lớp 12
THPT.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu ứng dụng CNTT vào tổ chức dạy học ngoại khóa chương “Từ
vi mô đến vĩ mô” ở lớp 12 THPT, nhằm kích thích hứng thú học tập của HS,
phát huy tính tích cực,chủ động sáng tạo của các em trong quá trình dạy học,
từ đó nâng cao chất lượng dạy học vật lí.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng.
- MVT và các phần mềm ứng dụng hỗ trợ quá trình dạy học.
- Các hình thức tổ chức dạy học ngoại khoá có tác dụng nâng cao hiệu quả dạy
và học chương “ Từ vi mô đến vĩ mô ” .
- Nội dung chương trình và PPDH vật lí 12 ở trường THPT.


-3-


- Hoạt động dạy và học của GV và HS trong tiến trình tổ chức dạy học ngoại
khóa.
3.2 Phạm vi.
Nghiên cứu ứng dụng CNTT vào dạy học ngoại khóa chương “Từ vi mô đến
vĩ mô” vật lí lớp 12 THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Bằng việc xây dựng các bài dạy học ngoại khóa với sự trợ giúp của CNTT
đáp ứng những yêu cầu và sử dụng chúng một cách hợp lý trong dạy học sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy học chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về hoạt động ngoại khóa (HĐNK)
Vật lí ở trường THPT với sự hỗ trợ của máy vi tính.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa vật lí 12 THPT.
- Tìm hiểu thực tế triển khai dạy học ngoại khóa ở trường THPT - Tuyên Hoá
- Tỉnh Quảng Bình và một số trường THPT trên địa bàn huyện Tuyên Hoá, tỉnh
Quang Bình.
- Đề xuất phương án tổ chức dạy học ngoại khóa, để thực hiện giảng dạy có
hiệu quả nội dung chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT.
- TNSP để đánh giá, kiểm nghiệm giả thuyết khoa học của đề tài.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
+ Nghiên cứu lý thuyết :
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng và nhà nước, của Bộ GD&ĐT về đổi mới
PPDH.
- Nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục học và lý luận dạy học Vật lí, đặc biệt về
hướng dẫn ngoại khóa.
- Nghiên cứu các tài liệu về ứng dụng MVT và các thiết bị đa phương tiện vào
dạy học Vật lí để xây dựng bài học ngoại khóa.



-4-

- Nghiên cứu SGK Vật lí lớp 12 và các tài liệu tham khảo.
+ Nghiên cứu thực tiễn :
- Điều tra thực trạng dạy học ngoại khoá vật lí ở trường trung học phổ thông
thuộc địa bàn huyện Tuyên Hoá – Tĩnh Quảng Bình.
- Thực nghiệm sư phạm:
Đánh giá hiệu quả sư phạm của việc tổ chức dạy học ngoại khóa đã đề xuất,
kiểm tra tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu.
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động ngoại khóa vật
lí, đặc biệt là ứng dụng CNTT xây dựng nội dung, phương pháp tiến hành các
buổi ngoại khóa vật lí.
- Xây dựng hai bài dạy học ngoại khoá thuộc chương “Từ vi mô đến vĩ mô” lớp
12 THPT và trình chiếu trên các phần mềm thích hợp... phục vụ cho hoạt động
ngoại khóa.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung.
Chương 1 : Cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động ngoại khóa về vật lí ở
trường phổ thông.
Chương 2 : Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ngoại khóa vật lí chương
“Từ vi mô đến vĩ mô” lớp 12 THPT cho HS.
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm.
- Kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.
Chương 1



-5-

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA
VỀ VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ chức dạy học ở
THPT
1.1.1. Khái niệm
Do sự hạn chế của thời gian lên lớp trong chương trình chính khoá, đồng
thời với sự gia tăng không ngừng của tri thức đã làm xuất hiện mâu thuẫn giữa
nhu cầu nhận thức của học sinh với tính kế hoạch của chương trình. Để giải
quyết mâu thuẫn này người ta tổ chức các hoạt động ngoại khoá nhằm tạo điều
kiện cho học sinh có thể mở rộng, đào sâu kiến thức, phát triển năng lực cá
nhân và kích thích thiên hướng của các em về một mặt hoạt động nào đó. [5].
1.1.2. Tác dụng của hoạt động ngoại khóa Vật lí
HĐNK nói chung, HĐNK về Vật lí nói riêng có nhiều tác dụng to lớn,
sau đây là một số tác dụng cơ bản:
- Hoạt động ngoại khoá góp phần giáo dục tính tổ chức, tính kế hoạch, tinh thần
làm chủ và hợp tác trên cơ sở những hoạt động thực tế. Ngoại khoá được thực
hiện cơ bản dựa trên sự tự nguyện, tự giác của học sinh cộng với sự giúp đỡ
thích hợp của giáo viên sẽ động viên học sinh nổ lực hết mình giải quyết vấn
đề đặt ra .
- HĐNK về vật lí góp phần củng cố, đào sâu, mở rộng chuẩn hóa hệ thống kiến
thức Vật lí đã học trên lớp và những kiến thức mới.Trong quá trình tiến hành
hoạt động ngoại khoá, học sinh được tự mình nghiên cứu. tự mình tìm hiểu vấn
đề và tranh luận với bạn bè trong sự cân nhắc kĩ càng. Chính vì thế hoạt động
ngoại khoá góp phần đắc lực trong việc phát triển trí lực và khả năng sáng tạo
của học sinh.
- Gây hứng thú học tập cho HS trong học môn vật lí (khơi dậy tính tò mò, ham
hiểu biết, lòng say mê nghiên cứu khoa học, niềm vui thành công);



-6-

- Qua hoạt động ngoại khoá, học sinh được rèn luyện một số kĩ năng như : Tập
nghiên cứu một vấn đề, thuyết minh trình bày trước đám đông, tập sử dụng
những dụng cụ, thiết bị máy móc từ đơn giản đến hiện đại. Qua đó sẽ làm nảy
nở ở học sinh ý thức về nghề nghiệp sẽ chọn trong tương lai.
- Do hoạt động chính khóa có thời gian hạn hẹp nên HĐNK làm tăng tính vận
dụng của kiến thức tạo điều kiện gắn lý thuyết với thực tiễn;
- Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu vật lý cho HS. [4]
- Hoạt động ngoại khoá là điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể thử nghiệm
các phương pháp dạy học . [5]
1.1.3. Nguyên tắc của hoạt động ngoại khóa vật lí
Để HĐNK thu được những kết quả như mong muốn ta cần phải tuân theo các
nguyên tắc sau:
- HĐNK vật lí phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo đối với cấp học, phù hợp với
chương trình đổi mới giáo dục. Căn cứ hoàn cảnh cụ thể của từng trường để
xác định nội dung, chương trình, lựa chọn phương thức tổ chức HĐNK một
cách phù hợp;
- HĐNK vật lí thể hiện tính khoa học rõ nét nên bắt đầu từ khâu chuẩn bị đã
phải tính đến tính khả thi của hoạt động;
- HĐNK vật lí yêu cầu nhà giáo dục phải biết thể hiện mình trong vai trò là
người cố vấn cho HS thiết kế thi công hoạt động và tự đánh giá hoạt động của
mình và tập thể;
1.1.4. Đặc điểm của giờ học ngoại khóa Vật lí
- HĐNK vật lí được thưc hiện ngoài giờ học chính khoá, nó không mang tính
bắt buộc mà tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi học sinh
trong khuôn khổ khả năng của giáo viên bộ môn và của nhà trường.
- Nội dung rất đa dạng giúp học sinh mở rộng, đào sâu, làm phong phú thêm
những kiến thức mà học sinh đã được học trong các giờ học chính khoá.



-7-

- Không hạn chế số lượng HS tham gia HĐNK, có thể hoạt động theo khối lớp,
đơn vị lớp, nhóm có thể huy động cả trường tham gia.
- Không phân biệt năng lực của HS tham gia nhưng cần chú ý hạt nhân nòng
cốt của buổi ngoại khóa.
+ Hoạt động ngoại khoá có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau .
1. 2. Nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp hướng dẫn hoạt động
ngoại khóa Vật lí.
1.2.1. Nội dung ngoại khóa về vật lí.
Do đặc điểm của bộ môn vật lí, ngoại khoá có tác dụng bổ sung kiến thức
lí thuyết, kĩ năng thực hành, giới thiệu những ứng dụng của vật lí vào KHKT
và đời sống, quá trình phát triển của vật lí học ...cho HS, làm tăng hứng thú cho
HS đối với môn học, rèn luyện khả năng phân tích và giải quyết vấn đề của các
em.Ngoại khoá vật lí giúp học sinh hiểu rõ hơn các hiện tượng vật lí ,thấy được
vai trò to lớn của vật lí trong đời sống và trong KHKT.Việc tham gia ngoại
khoá sẽ giúp học sinh mạnh dạn hơn, tư duy logic chặt chẽ hơn, từ đó nâng cao
chất lượng học tập môn vật lí.
Nôi dung ngoại khoá vật lí có thể là những kiến thức nằm trong phạm vi
chương trình vật lí THPT và khi đó HĐNK có tác dụng cũng cố các kiến thức
kĩ năng cơ bản. Nội dung của ngoại khoá vật lý cũng có thể là những kiến thức
mở rộng vượt ra ngoài nội dung chương trình hoặc có trong chương trình nhưng
lại được trình bày hết sức sơ lược. Chẳng hạn như Thiên Văn học,vật lí hiện
đại, các ứng dụng của vật lí trong Kĩ thuật – Công nghệ.Khi đó HĐNK giúp
tăng hiểu biết, phát huy óc sáng tạo của HS [5].
1.2.2. Xây dựng giáo án ngoại khoá vật lí.
Thành công của buổi ngoại khoá phụ thuộc vào việc xây dựng giáo án ngoại
khoá. Giáo án càng chi tiết, cụ thể thì chất lượng buổi ngoại khoá càng cao. Nói

chung một giáo án ngoại khoá bao gồm :


-8-

+ Chủ đề ngoại khoá.
+ Hình thức tổ chức ngoại khoá .
+ Mục tiêu :
- Về tri thức.
-Về rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy.
- Về giáo dục tư tưởng.
+ Chuẩn bị chương trình :
- Thời gian, địa điểm, thời lượng tiến hành.
- Đối tượng tham gia.
- Ban tổ chức : Cơ cấu, số lượng, chức năng, nhiệm vụ.
- Cơ sở vật chất, kinh phí, phượng tiện phục vụ buổi ngoại khoá .
+ Tiến trình thực hiện :
- Danh mục các khâu trong quá trình tiến hành.
- Nội dụng, phương pháp tiến hành, phương tiện hoạt động.
- Thời gian cho từng nội dụng.
Giáo án ngoại khoá nói chung giống giáo án lên lớp, tuy vậy do sự khác nhau
về quy mô tổ chức, thời lượng, nội dung, cách tiến hành …Đòi hỏi phải có sự
chuẩn bị kĩ lưỡng và có nhiều phương án xử lí đặt ra. [5].
1.2.3. Các hình thức hoạt động ngoại khóa vật lí
HĐNK vật lí ở trường phổ thông có thể tiến hành theo nhiều hình
thức khác nhau: Hình thức cá nhân; hoạt động theo các nhóm; hoạt động theo
lớp có cùng nội dung và chương trình; HĐNK có tính chất quần chúng rộng rãi.
Trên thực tế tùy vào không gian và thời gian, số lượng HS, và nội dung kiến
thức mà đưa ra hình thức hoạt động thích hơp.
1.2.3.1. Hoạt động ngoại khóa Vật lí có tính chất quần chúng rộng rãi

Hoạt động này thường tốn nhiều thời gian công sức nhưng dễ thực hiện, đạt
hiệu quả cao. Hình thức này nếu được chuẩn bị chu đáo và tổ chức hấp dẫn thì


-9-

có tác dụng rất lớn trong việc gây hứng thú, lòng say mê nghiên cứu vật lí và
chế tạo dụng cụ thí nghiệm của HS. Đây là hình thức tổ chức tốt để đào sâu,
mở rộng kiến thức cho HS trong nhiều lĩnh vực vật lí và đòi hỏi sự tham gia
đông đảo của HS. Hình thức hoạt động có tính chất quần chúng rộng rãi này
làm cho HS yêu thích môn vật lí, kích thích trí tưởng tượng sáng tạo. Phải tổ
chức sao cho buổi sinh hoạt này thực sự là một ngày hội, là sự kiện đáng ghi
nhớ của nhà trường. Để làm được điều này thì nội dung của nó phải thật phong
phú, súc tích trong đó có những thí nghiệm vui, bài toán thực nghiệm và những
nghịch lý của vật lí, nên xen kẽ những tiết mục văn nghệ hoặc những trò chơi
giải trí có tính chất khoa học nhằm giúp cho buổi sinh hoạt này thêm tưng bừng
náo nhiệt. Để đạt được các yêu cầu đó đòi hỏi GV phải soạn thảo chương trình
sao cho phù hợp với trình độ của HS.
HĐNK có tính chất quần chúng rộng rãi như: Hội thi vật lí;Hội vui vật lí, triển
lãm vật lí, báo tường vật lí ; Tham quan ngoại khoá vật lí;Câu lạc bộ vật lí.
* Hội thi vật lí
Hội thi là một trong những cách thức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn HS, đạt kết
quả tốt trong vấn đề giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho người tham
gia. Hội thi là dịp để mỗi cá nhân hoặc tập thể, thể hiện khả năng của mình.
Khẳng định thành tích, kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu
trong học tập và trong các hoạt động tập thể. Quy mô của hội thi đối tượng
tham gia, cách thức tổ chức hội thi như thế nào phụ thuộc vào mục đích, yêu
cầu ý nghĩa, tính chất và nội dung của hội thi.
Các hình thức thi trong Hội thi vật lí :
- Thi trả lời nhanh : Sau khi nêu câu hỏi, đội nào có tín hiệu trước sẽ được trả

lời.Thời gian để suy nghĩ cho mỗi câu là cố định. Nếu đội có tín hiệu trước trả
lời sai thì đội khác có quyền trả lời. Thi trả lời nhanh có thể dùng các câu hỏi
tự luận hoặc trắc nghiệm.


- 10 -

- Thi giải thích hiện tượng : Sau khi nêu hiện tượng hoặc làm thí nghiệm, yêu
cầu giải thích diễn biến, kết quả. Trong thời gian ấn định, các đội cùng trả lời
ra giấy hoặc bảng. Căn cứ vào câu trả lời, giám khảo cho điểm. Sau khi các đội
trả lời, người dẫn chương trình công bố đáp án chính xác.
- Thi giải bài tập: Bài tập có thể ra dưới dạng định tính hoặc định lượng.Các
đội bốc thăm chọn bài tập (bài tập phải có dạng tương tự nhau và cùng một độ
khó ) hoặc tất cả cùng làm một bài tập.
- Thi giải ô chữ: Tạo một ô chữ gồm nhiều hàng ngang và một cột dọc. Cột dọc
được sắp xếp sao cho nó do các chữ ở các hàng ngang tạo thành.
- Thi thực hành làm thí nghiệm, chế tạo dụng cụ thí nghiệm: Có nhiều hình thức
khác nhau cho phần này. Có thể phát cho các đội thi các dụng cụ, yêu cầu trình
bày cách làm một thí nghiệm hoặc xem đội nào làm được nhiều thí nghiệm hơn.
[5].
* Hội vui vật lí
Hội vui vật lí (hay còn gọi là dạ hội vật lí nếu tổ chức vào buổi tối )là
hình thức ngoại khóa phổ biến, sôi động lôi cuốn được đông đảo HS tham gia,
tạo được khí thế trong hoạt động học tập và nghiên cứu. Hội vui vật lí có thể
được tổ chức theo khối lớp hoặc quy mô toàn trường theo từng chuyên đề như:
Hội vui Cơ - Nhiệt - Điện - Quang, sự nghiệp các nhà bác học, điều khiển tự
độngv.v... có thể tổ chức hội vui vật lí kết hợp với các bộ môn khác như công
nghệ, hóa học và sinh học, địa lí v.v...Tổ chức hội vui vật lí gồm hai phần:
phần khai mạc, giới thiệu nội dung, phần này nên ngắn gọn sau đó chuyển sang
phần vui chơi, cả hai phần này không nên kéo dài.

Về các trò chơi trong hội vui vật lí có thể nên hướng vào các loại trò chơi
sau đây:
+ Hái hoa : Các câu đố vui, các câu hỏi bài tập định tính về vật lí được
viết vào mảnh giấy nhỏ sau đó gấp lại để đảm bảo sự bí mật và treo lên cành


- 11 -

hoa đã được trang trí trong phòng vui chơi, người chơi sẽ lên “hái hoa” có các
câu hỏi, câu đố vui đó, ai trả lời đúng sẽ nhận được giải thưởng. Để đảm bảo
trật tự và nghe người hái hoa trả lời chỉ nên cho một hoặc hai người lên “hái
hoa”.
+ Có một số trò chơi thông minh nhanh trí như: Tìm chỗ sai trong đoạn
viết về nội dung vật lí hay tìm chỗ sai trong các hình vẽ sơ đồ mạch điện hoặc
điền từ phù hợp vào câu hỏi còn thiếu. Những trò chơi này so với những hoạt
động nói trên không kém phần hấp dẫn. Để hội vui đem lại không khí thoải
mái, sôi động, ban tổ chức hội vui nên thống nhất cách gợi ý đối với một số câu
đố vui hoặc trò chơi khó giúp người hướng dẫn trò chơi điều khiển linh hoạt và
lôi cuốn người chơi đồng đều ở mọi trò chơi.
+ Trò chơi trong hội vui vật lí cũng có thể là thi mắc điện, sáng tạo mạch
điện, lắp và biểu diễn một số thí nghiệm nào đó.
Ví dụ: Trò chơi mắc điện theo thời gian quy định của ban tổ chức, đòi
hỏi người chơi phải có thao tác nhanh nhẹn theo kịp tiến độ của thời gian mà
ban tổ chức đưa ra.
Loại trò chơi này đòi hỏi người chơi không những tăng tốc độ thao tác
mà còn phải hợp lý hóa các thao tác và có những sáng kiến khác …
+ Trong hội vui vật lí giải bài tập cũng có thể đưa vào để làm một nội
dung thi : Trong phần thi này mỗi lần thi gồm 6 hoặc 7 người cùng giải một bài
tập vật lí, nếu ai đưa ra đáp án đúng và nhanh nhất thì được thưởng.
Vấn đề đặt ra ở đây là nội dung các đề thi, phải chọn sao cho khi đánh

giá kết quả được nhanh gọn và chính xác phản ánh đúng nội dung đưa ra. Như
vậy không chỉ tiện cho việc đánh giá mà nó còn làm tăng thêm tính chất hứng
thú của trò chơi nhằm bảo đảm cho hội vui thành công :
- Chuẩn bị chu đáo và phong phú về nội dung, tổ chức chặt chẽ hình thức
phù hợp, trang trí đẹp mang màu sắc của buổi dạ hội vật lí.


- 12 -

- Lường trước được những tình huống có thể xảy ra hoặc ngoài dự kiến
nhằm cổ vũ động viên khuyến khích kịp thời, có phần thưởng để động viên tinh
thần cho người thắng cuộc.
Do các trò chơi liên quan đến thí nghiệm, máy móc thiết bị nên cần lắp
đặt và vận hành trước khi tổ chức đảm bảo đủ thời gian quy định. Dạ hội hay
hội vui vật lí phải gắn chặt với nội dung chính khóa nhưng nó vẫn mang màu
sắc vui chơi thoải mái, ngoài tính hấp dẫn của nội dung cần có những hình thức
động viên khích lệ. [16]
* Tham quan ngoại khoá vật lí
Tham quan ngoại khoá là một hình thức tổ chức dạy học trong thực tế nhờ
quan sát trực tiếp của HS dưới sự hướng dẫn của GV và cơ sở tham quan nhằm
nghiên cứu sự vật, hiện tượng cần tìm hiểu trong nội dung dạy học.
Hình thức tham quan ngoại khoá có thể được tổ chức trước, trong và sau
khi học một chuyên đề nào đó, phần nào đó( Chẳng hạn sau khi học xong máy
biến thế hay là sau khi học xong các động cơ điện v.v...)
Tham quan ngoại khoá có tác dụng mở rộng, nâng cao tầm hiểu biết xung
quanh những vấn đề do chương trình quy định. Bồi dưỡng phương pháp nhận
thức như quan sát, phân tích, tổng hợp những tư liệu cụ thể đã thu thập được
trong quá trình tham quan. Nâng cao hứng thú học tập, phát triển óc quan sát
tính tò mò khoa học.Góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp, đảm bảo dạy học gắn
liền với lao động sản xuất.

Nội dung tham quan ngoại khoá vật lí: Tham quan tìm hiểu máy móc, thiết
bị dùng trong sản xuất, thông tin liên lạc ; cơ sở sản xuất, nhà máy ; cơ quan
KHKT [5].
* Triển lãm về vật lí
Triển lãm về vật lí là hình thức trưng bày những thành quả, những kết
quả hoạt động học tập của mỗi lớp, khối lớp hay toàn trường. Triển lãm vật lí


- 13 -

ở trường phổ thông có thể tổ chức nhân dịp các ngày lễ(thành lập trường, ngày
thành lập đoàn, ngày nhà giáo Việt nam, ngày sinh các nhà bác học vật lí)hoặc
sau khi học xong một phần nào đó trong nội dung chương trình vật lí. Triển lãm
vật lí chỉ đảm bảo thành công khi cuộc triển lãm đó phong phú về nội dung,
trình bày một cách gọn gàng, đẹp đẽ và khoa học. Nội dung triển lãm có thể là:
các dụng cụ, mô hình mà HS chế tạo, vật mẫu sưu tầm được, đồ dùng phục vụ
dạy và học của thầy và trò chế tạo ra. Cũng có thể lắp ráp và biểu diễn một số
thí nghiệm mang tính hiện đại, khó thực hiện kể cả những thí nghiệm chưa có
điều kiện thực hiện ở trên lớp. Đối với một số thí nghiệm hoặc vật mẫu nào đó
nên có hình vẽ, bản hướng dẫn kèm theo. Biểu đồ hình vẽ và tranh ảnh sẽ góp
phần làm cho triển lãm thêm phong phú, có thể kết hợp với các bộ môn khác
như(công nghệ, hóa học, sinh học)triển lãm có thể kết hợp với hội vui vật lí để
đảm bảo tính chất của công tác ngoại khóa, trong việc tổ chức triển lãm cần
phát huy tốt vai trò của HS, đặc biệt phát huy tính độc lập sáng tạo.
* Tổ chức câu lạc bộ vật lí
Câu lạc bộ được tổ chức nhằm mở rộng tầm nhận thức, hiểu biết về văn hoá,
khoa học kĩ thuật, giáo dục lòng yêu lao động, giáo dục đạo đức, giúp phát triển
toàn diện các khả năng sáng tạo và các năng khiếu của con người .Tổ chức câu
lạc bộ vật lí là điều kiện tốt để các cá nhân yêu thích vật lí có môi trường phát
huy khả năng của mình.

Cơ cấu tổ chức câu lạc bộ gồm: Chủ nhiệm câu lạc bộ, các phó chủ nhiệm,
thư kí, ban cố vấn và các thành viên của câu lạc bộ.
Hoạt động của câu lạc bộ gồm: Tổ chức các buổi thảo luận về vật lí ;Tổ
chức các buổi giao lưu tìm hiểu về kiến thức vật lí ;Tổ chức viết báo tường
trong phạm vi câu lạc bộ v.v...
* Báo tường về vật lí
Báo tường về vật lí là một HĐNK hấp dẫn, nhẹ nhàng không phải giới hạn


- 14 -

thời gian có thể được tổ chức ở bất kỳ trường phổ thông nào, thường có tác dụng
thúc đẩy HS sưu tầm và đọc các sách báo về vật lí. Báo tường là nơi khá tốt để
các nhóm ngoại khóa thông báo về hoạt động và kết quả học tập thu được qua
tìm hiểu và nghiên cứu của mình, thúc đẩy phong trào thi đua học tập chính khóa
và ngoại khóa của HS [3,28,7].
Nội dung của tờ báo, thường là các bài viết về các chuyên đề vật lí ; hướng
dẫn cách học vật lí; giới thiệu các phương pháp giải toán vật lí; giới thiệu lịch sử
vật lí, các nhà bác học vật lí; giới thiệu các thành tựu, các ứng dụng của vật lí
trong kĩ thuật, đời sống .v.v... [5]
1.2.3.2. Hoạt động ngoại khóa theo nhóm
Nhóm ngoại khóa vật lí là hình thức HĐNK cơ bản ở trường phổ thông, đây
là hình thức có tổ chức nhưng nó không phức tạp lắm, mỗi nhóm ngoại khóa
không quá 15 HS. Qua hoạt động theo nhóm theo một chương trình đã định sẵn
HS sẽ thu nhận được một số kiến thức bổ sung, đào sâu củng cố những kiến
thức và kỹ năng đã có. HĐNK theo nhóm tạo cho HS biết cách áp dụng kiến
thức hiểu biết của mình vào thực tiễn tạo điều kiện cho các em tham gia trực
tiếp vào quá trình sáng tạo.
Tổ chức ngoại khóa theo nhóm cần dựa vào tính tự nguyện, hứng thú của
HS trên cơ sở yêu thích công việc. Từ đó khả năng của các em sẽ được phát

triển, hình thức này là hình thức dạy học phát huy tính tập thể mà trong đó HS
dưới sự chỉ đạo của GV các em tự do trao đổi những ý tưởng, những kiến thức,
hình thành kỹ năng kỹ xảo nêu cao tính đồng đội các thành viên trong nhóm
không chỉ có trách nhiệm với việc học của mình mà còn có trách nhiệm quan
tâm đến việc học của các bạn khác trong nhóm.
Để duy trì hoạt động đều đặn của nhóm cần phải xây dựng hạt nhân của
nhóm, hạt nhân thường đóng vai trò là nhóm trưởng, HS được chọn làm hạt
nhân là những HS có hứng thú về vật lí, nhiệt tình cao đối với đề tài nhóm đang


- 15 -

làm có khả năng tổ chức và thu hút sự đoàn kết trong nhóm và có học lực tốt,
kiến thức vững vàng. Tuy nhiên, nhóm trưởng không nhất thiết phải giỏi nhất
trong nhóm.
Học tập theo nhóm có nhiều hình thức nhưng thông thường có hai dạng:
- Học tập theo nhóm thống nhất : Theo hình thức này thì tất cả HS đều thực
hiện nhiệm vụ như nhau.
- Học tập theo nhóm phân hóa: Những nhóm khác nhau thực hiện các nhiệm vụ
khác nhau trong khuôn khổ đề tài chung của cả lớp.
Tổ chức học tập theo nhóm để đạt kết quả tốt thì một nguyên tắc bất di bất dịch
là phải bảo đảm tính nghiêm túc, nhẹ nhàng, tránh sự nặng nề, không tùy tiện.
Nội dung HĐNK vật lí có thể thành lập ra những nhóm có chức năng khác
nhau, nhóm “Vật lí lý thuyết”, nhóm “Vật lí kỹ thuật”, nhóm chế tạo dụng cụ
thí nghiệm vật lí.
* Nhóm nghiên cứu lí thuyết
Nhiệm vụ của nhóm là sưu tầm tài liệu vật lí liên quan đến vấn đề đang
học, từ đó giúp các em hiểu bài một cách sâu sắc hơn nghiên cứu giải thích
những hiện tượng mà do thời lượng trên lớp GV không thể đi sâu được, sưu
tầm những bài toán vật lí hay, thảo luận tìm tòi những phương pháp giải tốt

nhất, tối ưu nhất. Nhóm có thể tìm hiểu quá trình phát triển của vật lí, kỹ thuật,
tiểu sử các nhà vật lí. Nội dung hoạt động của nhóm ngoại khóa“vật lí lý
thuyết”phải mới lạ so với hoạt động chính khóa, không đơn thuần chỉ là kiểm
nghiệm hoặc áp dụng dưới dạng quá đơn giản các kiến thức đã học.
Vật lí nói chung và chương“Từ vi mô đến vĩ mô ”nói riêng thường hấp
dẫn đối với HS từ đó cần xác định nội dung phù hợp các bước tổ chức hợp lý
sao cho HS từng bước thu được kết quả cao. Kết quả hoạt động của nhóm có
thể được báo cáo theo từng cá nhân hoặc cả nhóm.


- 16 -

Cần khuyến khích động viên kịp thời bằng những lời động viên, đánh
giá kịp thời của GV. Tuyên dương các em trước lớp hoặc đăng kết quả trên
bảng tin của nhà trường là hình thức mang tính chất giáo dục, giáo dưỡng có ý
nghĩa động viên, là động lực khích lệ gây niềm tin cho các em.
* Nhóm “Vật lí kỹ thuật”
Đây là HĐNK thu hút được đông đảo HS tham gia, bởi sản phẩm phong
phú đa dạng có tác dụng giáo dục kỹ thuật, hoạt động này cần được đề cao và
khuyến khích.
Nhóm ngoại khóa này mang nhiều tính chất thực hành, nên hoạt động
của nhóm phải gắn liền hai mặt lý thuyết và thực hành. Ngoài lý thuyết HS
được học trên lớp, những buổi sinh hoạt ngoại khóa phải tiến hành ôn tập và bổ
sung lý thuyết cho các nhóm viên, xen kẽ với các buổi thực hành. Để đạt được
kết quả theo ý muốn, GV cần chú ý phối hợp với những tổ chức chuyên môn ở
địa phương, qua đó nhóm ngoại khóa có thể dựa vào những nhà chuyên môn
có kinh nghiệm mà hoạt động có hiệu quả hơn. Ngoài ra nên tổ chức những
nhóm phục vụ yêu cầu nền sản xuất và sinh hoạt ở địa phương. Chính các nhóm
kỹ thuật này làm nòng cốt cho việc liên hệ giữa bài học với thực tế kỹ thuật,
GV chọn một phương diện kỹ thuật hẹp nào đó cho nhóm như mạch điện đơn

giản trong nhà, kỹ thuật vô tuyến.v.v. Hoạt động của nhóm do GV vật lý lãnh
đạo, được tập trung chủ yếu vào đề tài vật lí, kỹ thuật thuộc diện rộng để có thể
liên hệ tốt công tác HS trong nhóm với việc dạy học vật lí. Đặc biệt hấp dẫn
với HS là công tác ngoài lớp có ý nghĩa xã hội công ích như : Việc đặt đường
dây điện trong phòng thí nghiệm vật lí, hoặc tự mình lắp đặt được đường dây
điện trong gia đình, tự động hóa chuông điện trong phòng thí nghiệm.
* Nhóm “Chế tạo dụng cụ thí nghiệm”
Hoạt động tích cực của nhóm này sẽ mang lại nhiều lợi ích vì dụng cụ
thí nghiệm vật lí, đặc biệt là dụng cụ phục vụ cho thí nghiệm thực hành đồng


- 17 -

loạt cho HS có tầm quan trọng trong việc học tập môn vật lí. Để có nhiều dụng
cụ thí nghiệm cho HS thực hành thì phải tổ chức cho HS tham gia chế tạo dụng
cụ. Nội dung hoạt động chế tạo dụng cụ thí nghiệm đòi hỏi tính sáng tạo, vừa
nằm trong trọng tâm của chương trình vừa mang tính lý thú đối với HS vừa
phục vụ trực tiếp mục tiêu đào tạo. Những dụng cụ thí nghiệm mà HS nghiên
cứu, chế tạo thành công, do sáng kiến hoặc làm theo mẫu có sẵn đều có tác
dụng giúp nhà trường khắc phục khó khăn thiếu thốn dụng cụ thí nghiệm vật lí.
Trong trường hợp này cần giúp các em chế tạo đẹp, dễ bảo quản và có thể để
sử dụng lâu dài. Như vậy ý nghĩa giáo dục và thực tiễn càng được phát huy
mạnh mẽ. Tuy nhiên, bước đầu nhóm thí nghiệm này chỉ chế tạo các thí nghiệm
đơn giản, dễ làm nhất do GV chỉ định hoặc hướng dẫn trong sách báo. Sau đó
dần dần làm những dụng cụ để thực hiện lại những thí nghiệm đã biểu diễn trên
lớp hoặc nghe GV giới thiệu nhưng chưa được làm vì thiếu các dụng cụ. Trong
trường hợp này các thành viên của nhóm cần hiểu rõ nguyên lý vật lí của các
dụng cụ chứ không phải máy móc sao chép lại nguyên mẫu có sẵn trong sách
báo, mà không hiểu gì về bản chất vật lí trong thiết bị và nguyên tắc hoạt động
của các dụng cụ.

1.2.3.3. Hoạt động ngoại khóa có tính chất cá nhân
HS tự đọc sách báo về vật lí và kỹ thuật, hoặc truy cập vào các website có
nội dung về vật lí và kỹ thuật, là hình thức HĐNK tự lập và dễ thực hiện, qua
việc đọc sách báo về vật lí và kỹ thuật ngoài việc góp phần gây hứng thú, tăng
hiểu biết về khoa học, nó là một trong những yếu tố chuẩn bị cần thiết cho
HĐNK. Hình thức này bổ sung rất nhiều cho các giờ học chính khóa, là một
nguồn cung cấp kiến thức quan trọng từ đó tập cho HS hình thành thói quen
đọc sách báo và nghiên cứu tài liệu.
- Nếu có điều kiện tổ chức một “Tủ sách ngoại khóa vật lí”, biện pháp để


- 18 -

xây dựng vận động các em yêu thích khoa học, thích khám phá thế giới vật lí
gửi tặng những cuốn sách phổ biến khoa học.
- Có thể tổ chức những buổi “Sinh hoạt khoa học” trong buổi sinh hoạt đó
HS có thể báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung chương trình đang
học mà họ yêu thích, để làm được điều đó phải có sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng về
mặt nội dung [3, 7].
1.2.4. Phương pháp hướng dẫn hoạt động ngoại khóa vật lí
Có ba kiểu định hướng hoạt động trong quá trình tổ chức HĐNK vật lí: định
hướng tái tạo, định hướng tìm tòi và định hướng khái quát chương trình hóa.
* Định hướng tái tạo
Là kiểu định hướng trong đó người dạy hướng HS vào việc huy động áp
dụng những kiến thức, cách thức hoạt động mà HS đã nắm được hoặc đã được
người dạy chỉ ra một cách tường tận nhằm thực hiện được nhiệm vụ được giao,
nghĩa là HS chỉ cần tái tạo những hành động đã được người dạy chỉ rõ hoặc
những hành động trong các tình huống quen thuộc với HS [7].
* Định hướng tìm tòi
Là kiểu hướng dẫn mang tính chất gợi ý của GV cho HS suy nghĩ tìm tòi,

phát hiện cách giải quyết vấn đề. HS tự tìm tòi cách xác định các hành động
cần thực hiện để đi đến kết quả. Kiểu hướng dẫn này có ưu điểm là định hướng
cho HS khả năng tự lực tìm tòi cách giải quyết vấn đề, do đó làm cho năng lực
tư duy của HS được phát triển. Kiểu hướng dẫn này có tác dụng lớn đối với HS
khá giỏi. Đối với HS khác có thể vẫn chưa tự giải quyết được, vì vậy GV cần
gợi ý hướng dẫn định hướng cho tư duy của HS để HS có thể tìm được cách
giải quyết vấn đề.
Đây là kiểu định hướng mà người dạy không chỉ chỉ ra cho HS một cách
tường minh các kiến thức và cách thức hoạt động cần áp dụng. Mà người dạy


- 19 -

còn đưa ra cho HS những gợi ý để cho HS có thể tự tìm tòi hoặc xây dựng
những kiến thức và cách thức phù hợp nhằm giải quyết nhiệm vụ họ đảm nhận.
Theo định hướng này từng HS phải tham gia vào các hoạt động như đọc
sách, các tạp chí khoa học vật lí và kỹ thuật theo sự gợi ý của GV vì đây là hình
thức hoạt động đơn giản dễ thực hiện, nó là yếu tố cơ bản và cần thiết cho
HĐNK. Hình thức hoạt động này bổ sung cho các giờ học chính khóa, nhờ hoạt
động này giáo dục cho HS lòng say mê thích học hỏi, tìm tòi kiến thức trên sách
báo hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng như : Nghe đài, xem ti vi,
mạng Intener.
* Định hướng khái quát chương trình hóa
Đây là kiểu hướng dẫn HS nhằm phát triển tư duy theo đường lối khái quát
của việc giải quyết vấn đề, xử lý hướng ban đầu đòi hỏi sự tìm tòi, giải quyết
vấn đề của HS. Nếu HS không thể thực hiện được thì GV phải giúp đỡ HS phát
triển định hướng, khái quát ban đầu “Cụ thể hóa. Chi tiết hóa” nhằm thu hẹp
phạm vi, mức độ phải tìm tòi giải quyết sao cho vừa sức với HS. Nếu đã thu
hẹp phạm vi, mức độ tìm tòi mà HS Vẫn không đáp ứng được thì GV hướng
dẫn chuyển dần sang kiểu định hướng tái tạo, hướng dẫn trình tự các hành động,

thao tác hợp lý để theo đó HS tự giải quyết vấn đề đã đặt ra. Lúc này HS vẫn
không đáp ứng được thì mới thực hiện sự hướng dẫn tái tạo đối với mỗi hành
động, thao tác cụ thể riêng biệt của trình tự hành động các thao tác đó.
Đó là kiểu định hướng trong đó GV gợi ý cho HS kiểu định hướng tìm tòi
trên giúp HS nhận thức được khái quát định hướng được chương trình hóa theo
các bước dự định hợp lý.
1.2.5. Thực hiện hoạt động ngoại khóa
HĐNK mang lại nhiều lợi ích nhưng không nên gây nặng nề đối với HS.
Tùy theo hình thức và mức độ nội dung mà tiến hành các buổi HĐNK, nếu tổ


- 20 -

chức hoạt động ngoại khóa theo nhóm căn cứ vào nội dung công việc để chia
thời gian sao cho hợp lý:
Ví dụ: Theo hình thức nhóm “Vật lí kỹ thuật” tổ chức không quá một lần trong
một tuần tỷ lệ các buổi thực hành và lý thuyết có thể thay đổi tùy theo sự hứng
thú của HS tính chất của tài liệu nghiên cứu, tiến trình thực hiện công việc ở
nhà.
Nếu tổ chức HĐNK có tính chất quần chúng rộng rãi, nên tổ chức hai tháng
một lần trong năm học, và thời gian mỗi buổi không quá hai đến ba giờ đồng
hồ.
Lập kế hoạch thời gian các buổi hoạt động nhóm sao cho các kiến thức về
lý thuyết và thực hành hỗ trợ bổ sung cho nhau, tránh tình trạng khi HS chưa
có đủ cơ sở lý thuyết vững chắc mà lại tiến hành thực hành hoặc chế tạo. Lập
kế hoạch cụ thể các ngày trong tuần ngày nào GV cung cấp lý thuyết, ngày nào
thực hành cho từng tổ. Việc này đòi hỏi GV tốn nhiều thời gian, nhưng lại đảm
bảo có đủ dụng cụ, công cụ cho tất cả các nhóm viên.
Trong quá trình thực hiện hoạt động ngoại khóa, cần phải tiến hành các thủ
thuật, biện pháp nhằm lôi cuốn HS vào vấn đề, đề tài nghiên cứu để làm được

điều đó cần trích quỹ thời gian cho HS tham dự các buổi diễn giảng, đi tham
quan viện bảo tàng, tìm hiểu thực tế, xem phim, nghe truyền thanh. [7].
1.2.6. Lập kế hoạch tổ chức hoạt động ngoại khóa
Lập kế hoạch nó ảnh hưởng rất nhiều tới hiệu quả của HĐNK. Quy trình
tổ chức các buổi ngoại khóa căn cứ vào mục tiêu khóa học đòi hỏi phải có sự
đầu tư suy nghĩ, phân chia nội dung trình tự tiến hành và thời gian từng giai
đoạn. Khi lập kế hoạch GV phải xuất phát từ nhiệm vụ đề ra của nhà trường
sao cho phù hợp với chương trình và hứng thú học tập của HS. GV tính toán
đến thiết bị của phòng thí nghiệm, dự tính chế tạo những dụng cụ bổ sung dần
cho phòng thí nghiệm trong từng giai đoạn, dự tính về nhu cầu nguyên vật liệu


- 21 -

và công cụ, cách tổ chức phải tuân theo đúng hình thức và nội dung như: Bài
trí trong phòng (Các phương tiện loa, đài, máy chiếu…), nội dung chương trình
hoạt động, nội dung báo cáo, lựa chọn các thí nghiệm biểu diễn, các dụng cụ
mô hình, hình ảnh, tranh ảnh, trình kế hoạch với ban giám hiệu, GV chủ nhiệm
lớp, tổ chức đoàn của nhà trường, kinh phí cho tổ chức hoạt động để có sự thống
nhất từ trên xuống, tất cả các vấn đề trên chuẩn bị tốt sẽ đem lại kết quả khả
quan.
1.3. Đánh giá kết quả hoạt động ngoại khóa vật lí
1.3.1. Nhận thức chung về tổ chức hoạt động ngoại khóa vật lí
Tổ chức HĐNK vật lí là việc làm cần thiết đối với bộ môn vật lí nhưng nó
phải phù hợp với đặc điểm HS, lớp học, nhà trường đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn đặt ra.
Do đó tổ chức HĐNK vật lí phải có hình thức và nội dung phong phú, linh
hoạt khi cần có thể điều chỉnh, thay đổi nội dung và hình thức sao cho phù hợp
với điều kiện của GV và HS. [3].
1.3.2. Mục tiêu đánh giá

Theo yêu cầu đổi mới PPDH nói chung và vật lí nói riêng, HĐNK là việc làm
cần thiết:
- Góp phần củng cố đào sâu, mở rộng kiến thức.
- Giúp các em hình thành ý thức tổ chức, năng lực tổ chức, khả năng diễn đạt
ngôn ngữ;
- Phát huy được tính tích cực, ý thức tự lực, tự giác trong quá trình học tập
ở trường phổ thông.
1.3.3.Tiêu chí đánh giá
Tiêu chí đánh giá phải rõ ràng mới có tác động tích cực tới việc học tập
của HS
Tiêu chí đối với cá nhân:


- 22 -

+ Đánh giá về ý thức trách nhiệm, hiệu quả đóng góp vào việc tổ chức
HĐNK;
+ Đánh giá về trình độ tiếp thu mà nội dung HĐNK chuyển tải.
Tiêu chí đối với tập thể;
+ Số lượng HS tham gia HĐNK;
+ Số lượng, chất lượng sản phẩm đã làm của nhóm, của lớp;
+ Tinh thần tập thể và ý thức hợp tác trong hoạt động [3.28].
1.4. Tổ chức hoạt động ngoại khóa với sự trợ giúp của CNTT
1.4.1. Đổi mới PPDH với sự trợ giúp của CNTT
Theo quan điểm thông tin, học là một quá trình thu nhận thông tin có định
hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin ; dạy là phát thông tin và giúp người
học thực hiện quá trình một cách có hiệu quả.
Nếu nội dung bài học chỉ được chuyển tải tới người học dưới dạng văn bản thì
người học có thể sẽ kém hứng thú. Nếu chỉ truyền tin theo một chiều, không có
sự hỏi đáp thì thông tin thu được của người học có thể phiến diện, không đầy

đủ hoặc bị biến dạng, có khi dẫn đến việc hiểu sai nội dung.
Theo quan điểm CNTT, để đổi mới PPDH người ta tìm những“Phương pháp
làm tăng giá trị lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả
hơn”.
Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật, quá trình dạy học đã sử dụng PTDH
sau đây:
- Sử dụng mạng Internet để dạy học.
- Phần mềm dạy học(PMDH)giúp HS học trên lớp và ở nhà.
- Công nghệ kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm trên máy tính.
- Phần mềm hỗ trợ giảng bài, minh họa trên lớp với LCD – projector(máy chiếu
tinh thể lỏng)hay còn gọi là video – projector.
- Phim chiếu để giảng bài với đèn chiếu Overhead.


- 23 -

- Bảng thông minh.
1.4.2. Vai trò của CNTT với hoạt động ngoại khóa
Trước kia quy mô giáo dục trong xã hội loài người rất nhỏ bé hiệu quả thấp,
kinh nghiệm được truyền thụ từ đời này qua đời khác, người này sang người
khác qua lời nói hoặc hành động. Ngày nay sự có mặt của MVT, Internet đã có
tác dụng mạnh mẽ đến hoạt động giáo dục - đào tạo. Với những ưu điểm về tốc
độ xử lý, khả năng lưu trữ thông tin và truy nhập chính xác, khả năng làm việc
trong thời gian dài của MVT, sử dụng với công cụ là PTDH. Trong hoạt động
dạy – học hứa hẹn cả về tính hiệu quả và tiết kiệm được chi phí, tuy nhiên MVT
chưa có khả năng suy luận ứng biến khi xuất hiện tình huống mới, chưa có khả
năng đúc rút kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm. MVT không có trí khôn
và không thể thay thế vai trò của người GV trong dạy học.
Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện PPDH tích cực, đặc biệt là những đổi
mới có tính chất cách mạng về phương pháp đã đem lại bộ mặt mới cho nền

giáo dục, nét nổi bật được thể hiện ở PPDH hiện nay là áp dụng những thành
tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào quá trình dạy học nhằm thực hiện mục
đích giáo dục đạt hiệu quả cao.
Nhờ các công cụ đa phương tiện(multimedia) và MVT như: Văn bản (text),
đồ họa (graphic), hình ảnh (image), âm thanh (sound), hoạt cảnh (video) ... GV
xây dựng được bài giảng sinh động thu hút được sự tập trung của người học,
dễ dàng thể hiện được
các phương pháp sư phạm: PPDH tình huống, PPDH nêu vấn đề, dạy học theo
chủ đề, thực hiện đánh giá kết quả học tập một cách toàn diện, khách quan hay
tổ chức các buổi HĐNK. Sử dụng CNTT trong hoạt động ngoại khóa GV có
điều kiện tốt để tổ chức cho HS trao đổi thảo luận, phát huy tính tích cực, lòng
say mê, hứng thú trong học tập. GV có thể hướng dẫn cho HS tiếp cận một
lượng kiến thức phong phú, sâu rộng và sinh động đặc biệt ứng dụng CNTT


- 24 -

trong các buổi ngoại khóa có nhiều ưu điểm trong việc thực hiện chức năng
nghe nhìn, giúp học sinh tiếp cận tốt hơn với hiện thực khách quan, ngoài ra
chúng ta có thể ứng dụng CNTT trong hoạt động ngoại khóa dưới các hình thức
sau:
 Tìm kiếm thông tin liên quan đến chủ đề ngoại khóa :
Sự kết hợp của MVT với các hệ thống truyền thông (communication), viễn
thông (telecommunication), đã tạo ra sự chuyển biến có tính cách mạng trong
việc tổ chức và khai thác, sử dụng các hệ thống máy tính. Mô hình tập trung
dựa trên các máy tính có phương thức khai thác theo “lô” (batchprocessing) đã
được thay thế bởi một mô hình tổ chức sử dụng mới trong đó các máy tính đơn
lẻ được kết nối lại với nhau để thực hiện công việc, một môi trường làm việc
chung của nhiều người sử dụng cho phép nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên
chung từ những vị trí địa lý khác nhau. [14]

Mạng máy tính, Internet, đã được ứng dụng trong giáo dục ở nhiều nước
đây là môi trường thông tin vừa là diễn đàn trao đổi, hợp tác có tính tương tác
mạnh. Nhiều thí nghiệm mô phỏng, tranh ảnh, video clip, những vấn đề về nội
dung, phương pháp và nhiều công trình nghiên cứu khoa học giáo dục đã được
đưa lên Internet. Hiện nay đã có hàng tỉ tài liệu được đưa lên mạng, Internet đã
trở thành một trong những kho tàng quý báu nhất về thông tin trên thế giới.
Internet explorer và thanh search explorer giúp tìm kiếm thông tin một cách
nhanh chóng và thuận tiện, để tìm kiếm thông tin trên Internet cần hiểu rõ cách
sử dụng công cụ tìm kiếm một cách có hiệu quả, các công cụ thường được dùng
nhất là google, yahoo,... ở các địa chỉ:

;


 Trình diễn thông tin thu thập được:
MVT có khả năng trình bày và biểu diễn thông tin đa dạng, dưới nhiều hình
thức: có thể đưa vào các hình ảnh tĩnh, động, âm thanh, đặc biệt là các đoạn


- 25 -

phim, làm cho bài giảng sinh động hơn, những hiện tượng khó quan sát, những
thí nghiệm khó thực hiện, các dữ liệu này sẽ làm tăng tính trực quan trong các
buổi ngoại khóa, giúp buổi sinh hoạt ngoại khóa gắn liền với thực tiễn của cuộc
sống.
Sử dụng MVT, GV có thể tổ chức buổi ngoại khóa một cách logic, dẫn
dắt HS đi sâu vào từng vấn đề cụ thể, GV có thể dùng tư liệu thu được như băng
đĩa, hình ảnh, các đoạn video clip cùng chữ viết dưới dạng các câu hỏi, trò chơi
cho chúng lần lượt xuất hiện trên một phông nền có màu sắc đẹp đẽ, không gian
ba chiều gây tác động mạnh mẽ đến HS, với phương thức này các hình ảnh, sơ

đồ, nội dung các câu hỏi lần lượt xuất hiện trên màn hình, âm thanh, lời nói
nhạc nền cũng có thể sử dụng phụ họa nhằm tăng tính sinh động cho buổi ngoại
khóa.
Dạy học với phương tiện hiện đại trên sẽ có ưu thế sau:
- Các PMDH có thể thực hiện các thí nghiệm ảo, tăng tính trực quan cho
người học, cho phép HS học theo khả năng ;
- Các phương tiện hiện đại sẽ tạo ra khả năng để GV trình bày bài giảng
sinh động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của
khoa học hiện đại;
- Các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hóa các bài giảng mẫu, đặc biệt đối với
những phần khó giảng, những khái niệm phức tạp. HS học không bị thụ động,
có nhiều thời gian nghe giảng để đào sâu suy nghĩ v.v... Và điều quan trọng hơn
là nhiều học sinh được dự và nghe giảng bài của nhiều GV giỏi.
- Ứng dụng CNTT để dạy học, PPDH cũng thay đổi, GV là người hướng dẫn
HS học tập chứ không đơn thuần chỉ là người rót thông tin vào đầu HS. GV
cũng phải học tập thường xuyên để nâng cao trình độ về CNTT, sử dụng CNTT
có hiệu quả trong học tập. HS có thể lấy thông tin từ nhiều nguồn phong phú
khác nhau như sách, Internet, CD – ROM ... lúc này HS phải biết đánh giá và


×