Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Đối sánh cái kỳ trong Truyền kỳ mạn lục và trong Tiễn đăng tân thoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.45 KB, 108 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HƯỜNG

ĐỐI SÁNH CÁI “KỲ” TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
VÀ TRONG TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHẠM TUẤN VŨ

NGHỆ AN - 2012


2
MỤC LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ xưa đã có nhiều ý kiến chỉ ra mối liên hệ giữa Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ, nhà văn Việt Nam thế kỷ XVI và Tiễn đăng tân thoại


của Cù Hựu (tức Cù Tông Cát), nhà văn Trung Quốc (1347 - 1433). Chẳng
hạn trong lời Tựa Truyền kỳ mạn lục viết năm Vĩnh Định sơ niên (1547),
Hà Thiện Hán nhận định: “Xem văn từ của sách thấy không ra ngoài phên
dậu của Tông Cát”. Lê Qúy Đôn ở Nghệ văn chí phần Truyện ký trong Đại
Việt thông sử nhận xét: “Về đại thể phỏng theo tập Tiễn đăng của nhà nho
đời Nguyên”. Tại mục Văn tịch chí của cuốn Lịch triều hiến chương loại
chí, học giả Phan Huy Chú khẳng định: “Sách Truyền kỳ mạn lục bốn
quyển, do dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại lược bắt chước cuốn Tiễn đăng tập
của nhà nho đời Nguyên”. Nghiên cứu hai tác phẩm trong sự đối sánh là
một hướng tìm hiểu văn học trong cuộc tiếp xúc văn hóa, trong bối cảnh
thời đại giữa Việt Nam - Trung Quốc.
1.2. Cùng với sự khẳng định Nguyễn Dữ tiếp thụ Tiễn đăng tân thoại,
nhiều ý kiến cũng chỉ ra sự đặc sắc của tác phẩm Nguyễn Dữ, khẳng định
nhà văn Việt Nam này đã tiếp thụ có chọn lọc và biến đổi, bên cạnh đó còn
sáng tạo nên những giá trị mới đậm đà bản sắc dân tộc và tính thời đại.
Giáo sư Trần Ích Nguyên trong công trình Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đã đánh giá về Truyền kỳ mạn lục: “Về kỹ
xảo nghệ thuật, ngôn ngữ văn tự thanh tân, điển nhã của Mạn lục có sức
truyền cảm không kém gì Tân thoại, đó là một trong những nguyên nhân
khiến sách được lưu truyền” [49, 283]. Trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời
trung đại, Nguyễn Đăng Na khẳng định với Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ
đã “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật”, là
người “mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam trung đại”
[41, 213].


2
1.3. Thuộc tính quan trọng nhất của truyện truyền kỳ là cái “kỳ” (kỳ
lạ, siêu thực, cái hư…). Người xưa từng cho rằng “phi kỳ bất truyền”
(không kỳ lạ thì không lưu truyền), tức là không có cái kỳ lạ thì không phải

truyện truyền kỳ đích thực. Nghiên cứu cái “kỳ” ở Truyền kỳ mạn lục trong
sự đối sánh với cái “kỳ” trong Tiễn đăng tân thoại sẽ có thêm cơ sở nhận
thức sự tiếp thụ và sáng tạo của Nguyễn Dữ và biết thêm về thuộc tính thể
loại.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông hiện hành có
dạy học các truyện truyền kỳ: Con hổ có nghĩa, Chuyện người con gái Nam
Xương, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Dế chọi. Các truyện này đều
sử dụng cái “kỳ”, qua đó nhà văn muốn chuyển tải chủ đề tư tưởng của
mình tới độc giả. Nghiên cứu đề tài này còn góp phần dạy học tốt hơn các
truyện truyền kỳ trên.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ là các tác phẩm văn xuôi tự sự có vị trí quan trọng trong văn học
Trung Quốc và Việt Nam thời trung đại. Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu
làm cho thể loại truyền kỳ Trung Quốc hưng thịnh trở lại. Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ được đánh giá là một áng “thiên cổ kỳ bút” (Vũ
Khâm Lân), là đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Điều này giải
thích vì sao cả hai tác phẩm này trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn
đối với các nhà nghiên cứu văn học. Đặc biệt vấn đề so sánh giữa hai tác
phẩm nói chung và so sánh về yếu tố “kỳ” nói riêng đã được giới nghiên
cứu trong và ngoài nước quan tâm và đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ điểm qua một số ý kiến liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
Ngay từ khi mới ra đời, Truyền kỳ mạn lục đã gây được sự chú ý cho
giới nghiên cứu. Trước hết phải kể đến ý kiến của Hà Thiện Hán trong lời
Tựa Truyền kỳ mạn lục viết năm Vĩnh Định sơ niên (1547): “Xem văn từ


3
của sách thấy không ra ngoài phên dậu của Tông Cát” [29, 7-8]. Tiếp

đến là là ý kiến của Lê Qúy Đôn trong Nghệ văn chí phần Truyện ký ở
Đại Việt thông sử: “Về đại thể phỏng theo tập Tiễn đăng của nhà nho đời
Nguyên” [29, 8]. Trong phần Văn tịch chí của cuốn Lịch triều hiến
chương loại chí, học giả Phan Huy Chú khẳng định: “Sách Truyền kỳ mạn
lục bốn quyển, do dật sĩ Nguyễn Dữ soạn, đại lược bắt chước cuốn Tiễn
đăng tập của nhà nho đời Nguyên” [29, 8].
Đến thời hiện đại, vấn đề nghiên cứu so sánh Truyền kỳ mạn lục và
Tiễn đăng tân thoại càng được chú ý. Vào giữa những năm 80, thành quả
nghiên cứu so sánh giữa hai tác phẩm này được biết đến với học giả người
Nga K.I.Gônlưghina. Nghiên cứu về ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại,
trong bài viết Cù Hựu và truyền kỳ Việt Nam, in trong sách Tiểu thuyết
đoản thiên Trung Quốc trung thế kỉ (Nxb Khoa học, Matxcơva, 1980), đã
cho rằng thể loại truyền kỳ của Việt Nam được hình thành trên cơ sở thể tài
này ở Trung Quốc đã thuần thục và Nguyễn Dữ là người khởi xướng cho
thể loại truyền kỳ ở Việt Nam.
Trong bài viết Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn
lục đăng trên Tạp chí Văn học, số 6/1996, Kawamoto Kuriye (Nhật Bản) đã
đánh giá Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ một tác phẩm viết lại theo mô hình
thể loại, phong cách, đề tài và môtíp của Tiễn đăng tân thoại.
Khi nghiên cứu về Kim Ngao tân thoại, tác giả Kim Seo Na (Hàn
Quốc) trong bài Đề tài tình yêu trong Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc
(so sánh với Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam), Tạp chí Văn học số 10/1995
đã viết: “Truyền kỳ mạn lục của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của Tiễn
đăng tân thoại của Cù Tông Cát của Trung Quốc giống như Kim Ngao tân
thoại” [56, 35].
Sự ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kỳ mạn lục
cũng đã được nhà nghiên cứu Việt Nam Phạm Tú Châu khẳng định trong
bài viết Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục,



4
Tạp chí Văn học, số 3/1987: “Về nội dung, những câu chuyện của Cù
Hựu là “tư liệu” đặc biệt để Nguyễn Dữ sáng tạo ra thế giới truyện quỷ
thần của mình”.
Đặc biệt công trình nghiên cứu của giáo sư người Đài Loan Trần Ích
Nguyên với quan điểm “Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền
kỳ mạn lục là một việc không thể xem nhẹ trong nghiên cứu văn học Đông
Á” thực sự có nhiều cống hiến trong việc nghiên cứu so sánh hai tác phẩm.
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân
thoại và Truyền kỳ mạn lục về nguồn gốc, mục đích sáng tác, nội hàm tư
tưởng và kỹ xảo nghệ thuật. Công trình đã gợi ý nhiều hướng tiếp cận mới
đối với hai tác phẩm.
Điểm qua tình hình nghiên cứu so sánh giữa Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi thấy mặc dù giới nghiên cứu đã có đề cập đến
vai trò quan trọng của yếu tố “kỳ” ở hai tác phẩm và có sự so sánh ở một số
phương diện nhưng chưa được trình bày một cách hệ thống. Kế thừa các
nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đi sâu tìm hiểu việc sử dụng cái “kỳ” ở
hai tác phẩm trong cái nhìn đối sánh, nhằm mở ra một hướng tiếp cận và
giúp cho việc dạy học một số tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ trong
chương trình phổ thông tốt hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Chỉ ra sự tương đồng cơ bản, sự khác biệt cơ bản hoặc vừa khác
biệt vừa tương đồng về cái “kỳ” của các cặp truyện trong Truyền kỳ mạn
lục và Tiễn đăng tân thoại.
3.2. Lý giải những điều đó từ những yếu tố chủ quan và khách quan
(khát vọng và tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ; những quan hệ phổ quát
thời trung đại; quan hệ văn học Việt - Trung vừa phổ quát vừa cá biệt thời
trung đại…).
3.3. Nhận thức giá trị của những sự tương đồng, sự khác biệt hoặc vừa
tương đồng vừa khác biệt đó ở truyện của Nguyễn Dữ.



5
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cái “kỳ” ở những truyện trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu theo văn bản Cù Hựu: Tiễn
đăng tân thoại và Nguyễn Dữ: Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học & Trung
tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây, 1999.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu văn học: thống kê phân loại, phân tích - tổng hợp… Chúng tôi đặc biệt chú trọng phương
pháp văn học so sánh vì đối sánh một giá trị của một tác phẩm văn học Việt
Nam và một tác phẩm văn học nước ngoài.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm bốn chương
Chương 1: Cơ sở để đối sánh cái “kỳ” ở hai tác phẩm
Chương 2: Những truyện trong Truyền kỳ mạn lục và trong Tiễn đăng
tân thoại tương đồng cơ bản về cái “kỳ”
Chương 3: Những truyện trong Truyền kỳ mạn lục và trong Tiễn đăng
tân thoại cơ bản khác biệt về cái “kỳ”
Chương 4: Những truyện trong Truyền kỳ mạn lục và trong Tiễn đăng
tân thoại vừa tương đồng vừa khác biệt về cái “kỳ”
Ngoài ra còn có phần Tài liệu tham khảo cuối luận văn


6
Chương 1
CƠ SỞ ĐỂ ĐỐI SÁNH CÁI “KỲ” Ở HAI TÁC PHẨM
1.1. Quan niệm của người Việt Nam thời trung đại về việc tiếp thụ
văn học Trung Quốc cổ - trung đại
Ảnh hưởng của văn học Trung Quốc cổ - trung đại đối với văn học

Việt Nam trung đại là ảnh hưởng của một nền văn học lâu đời có vai trò
kiến tạo vùng đối với một nền văn học trẻ tuổi ở gần. Ngoài ra, những nhân
tố phi văn học như sự tương đồng lớn về hình thái kinh tế xã hội, sự ảnh
hưởng của đời sống chính trị các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với
phong kiến Việt Nam, việc chịu ảnh hưởng của văn minh Khổng giáo và sự
tương đồng về chế độ thi cử… góp phần làm cho văn học Việt Nam trung
đại chịu ảnh hưởng lâu dài, phổ biến, trên nhiều phương diện của văn học
cổ - trung đại Trung Quốc.
Trong cuốn Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn
lục, Trần Ích Nguyên đã dẫn ý kiến của GS. Lã Sĩ Bằng trong công trình
Văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam như sau: “Quan hệ Trung - Việt
hơn hai nghìn năm qua do hai đại dân tộc Trung - Việt có hơn một nửa thời
gian sống chung dưới một tổ chức chính trị, có non một nửa thời gian duy
trì quan hệ phụ thuộc trên danh nghĩa, cho nên về phương diện lịch sử,
chính trị hơn một nghìn năm trước đã không có cách nào tách rời, thì một
nghìn năm sau quan hệ càng mật thiết. Còn như về lịch sử văn hóa, bởi hai
đại dân tộc Trung - Việt trước sau đều sinh hoạt trong cùng một hệ thống
văn hóa, hình thành chi gốc và chi nhánh của văn hóa nho gia, truyền thống
tinh thần xuất phát từ một nguồn, cho nên chúng ta có thể nói “văn hóa
Việt Nam có phần nào đấy là hình ảnh thu nhỏ của văn hóa Trung Hoa”.
Đến như sự dung hợp huyết thống, sự phát triển hay không của kinh tế, sự
tương ứng bề trong và bề ngoài về lịch sử, nỗi buồn vui vinh nhục giữa hai


7
đại dân tộc Trung - Việt đều nhất nhất nhằng nhịt với nhau khó mà phân
chia, thực không thể nói hết được như ý muốn” [49, 18].
Hiển nhiên là sự tổng quan này không thể thay thế cho việc nghiên
cứu những quan hệ cụ thể cá biệt, mà ngược lại càng thôi thúc những mối
quan tâm, vì rằng văn chương thực sự bao giờ cũng là những giá trị ra đời

từ tài năng và tâm huyết của từng tác giả, trong mối liên hệ sâu sắc với dân
tộc và thời cuộc. Phương thức và chất lượng tiếp thụ các giá trị văn chương
Trung Hoa cũng như sử dụng chúng vào việc sáng tạo các giá trị văn
chương Việt Nam khác nhau ở văn học chức năng và văn chương thẩm mỹ,
khác nhau ở các thể loại, từng thời kỳ và nhất là ở từng tác giả. Bởi vậy,
quá trình tiếp thụ văn học Trung Quốc cổ - trung đại là quá trình tiếp thu có
chọn lựa, có cách tân. Cái ngoại nhập và cái nội sinh kết hợp, bổ sung cho
nhau để tạo nên giá trị mới và vẫn mang đậm tinh thần dân tộc. PGS. Đàm
Chí Từ (Đại học Trịnh Châu, Hà Nam, Trung Quốc) cho rằng: “Trung
Quốc và Việt Nam là hai nước có nền văn hóa rất gần nhau. Sự gần nhau
về văn hóa đó là kết quả của sự giao lưu văn hóa lâu dài qua nhiều thế kỷ
giữa hai nước. Mối giao lưu văn hóa này mang tính hai chiều, tuy không
loại trừ trường hợp một chiều trong một khoảng thời gian nhất định. Bởi
vậy, chúng ta phải nhìn thấy tính hai chiều của nó khi nghiên cứu mối
giao lưu văn hóa giữa hai nước Trung - Việt. Đáng tiếc là, lâu nay trong
giới nghiên cứu khoa học tồn tại một tình trạng thiếu khoa học là cường
điệu một chiều sự ảnh hưởng của nền văn hóa Hán đối với nền văn hóa
Việt Nam (Hán sang Việt), còn chiều khác là sự ảnh hưởng (cống hiến)
của văn hóa Việt Nam đối với văn hóa Hán (Việt sang Hán) thì rất ít được
đề cập đến”.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý tiếp nhận các giá trị có trước là hiện
tượng phổ biến không chỉ của quan hệ văn học Việt - Trung mà còn của
văn học thế giới thời trung đại. Nhà nghiên cứu B.A. Grip-xốp nhận
xét: “Nhà văn trung cổ không sáng tạo ra những cốt truyện mà dường


8
như chỉ kể lại và kết hợp lại những môtíp xa xưa, khi thì bằng văn xuôi,
khi thì bằng thơ” [55, 115].
Như vậy, khi tiếp thụ văn học Trung Quốc cổ - trung đại, quan

niệm của người Việt Nam trung đại là vừa tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa, văn học Trung Quốc vừa có những sáng tạo, cách tân
để phù hợp với tâm tư, tình cảm và đời sống hiện thực của con người
Việt Nam. Dấu ấn văn hóa, văn học Trung Quốc thể hiện đậm nét trong
văn học trung đại Việt Nam. Ngược lại, văn hóa, văn học Việt Nam đã
có những sáng tạo mới, góp phần phát triển và làm phong phú thêm nội
dung của văn hóa, văn học Trung Quốc.
1.2. Truyện truyền kỳ
Truyền kỳ là một loại truyện ngắn, có nguồn gốc từ Trung Hoa, dùng
yếu tố kỳ ảo làm phương thức nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Đây là
một thể loại văn xuôi tự sự độc đáo, có sức sống mãnh liệt và lan tỏa ở
nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam…
Truyền kỳ là truyền đi một sự kỳ lạ. Vì vậy hạt nhân cơ bản của thể
loại này là “kỳ”. Nó chính là phương thức tư duy nghệ thuật kiểu phương
Đông để tạo nên những “kì văn”. Theo GS. Đào Duy Anh, “truyền kỳ là
sao chép sự kỳ quái”. Lăng Văn Hàn cho rằng, đó là thể loại “thuật kỳ ký
dị” (thuật điều lỳ lạ, ghi sự khác thường). Theo Khổng Thượng Nhậm (đời
Thanh), “Truyền kỳ là truyền những tình tiết khác lạ, tình tiết không ly kỳ
thì không truyền”. Các tác giả cuốn Từ điển văn học (bộ mới) đã giới
thuyết về truyện truyền kỳ khá rõ ràng và chi tiết. Đó là “một hình thức văn
xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau
được các nhà văn nâng lên thành bác học, sử dụng môtíp kỳ quái hoang
đường, lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm gợi hứng thú
cho người đọc” [25, 1730].
Những định nghĩa trên đều nhấn mạnh hai đặc điểm nổi bật ở truyện
truyền kỳ đó là hình thức văn xuôi tự sự và việc tham gia của yếu tố kỳ ảo,


9
môtíp kỳ quái, hoang đường, không có thực. Sự có mặt một cách tương đối

xuyên suốt của yếu tố “kỳ” và vai trò tích cực của nó đối với vấn đề xây
dựng cốt truyện và xây dựng nhân vật chính là bản chất thẩm mĩ của thể
loại truyện truyền kỳ.
Truyện truyền kỳ luôn có sự dung hợp thể loại, có sự đan xen giữa thơ,
từ ,biền văn với tản văn… Truyện truyền kỳ dùng văn xuôi để kể, đến chỗ
tả cảnh, tả người thì dùng văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì
thường làm thơ. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng của truyện
truyền kỳ.
Nội dung các truyện truyền kỳ không chỉ mang đậm sắc thái thần dị, lạ
kỳ mà còn chứa đựng những ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện những thế thái
nhân tình của đời sống và bộc lộ thái độ nhân sinh của tác giả.
Nói đến truyện kỳ ảo (khái niệm dùng để chỉ chung các loại truyện
như u linh, chích quái, truyền kỳ, chí dị) trong vùng văn học Đông Á, trước
tiên, phải nói đến truyện kỳ ảo trong văn học Trung Quốc - trung tâm văn
hóa có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài nhất đến văn học của toàn bộ các
nước trong khu vực. Lịch sử truyện kỳ ảo Trung Quốc có thể chia làm mấy
thời kỳ sau: truyện chí quái thời Lục triều (thế kỷ III - VI), truyện truyền kỳ
thời Đường - Tống (bắt đầu từ khoảng 618), truyện chí dị thời Minh Thanh (khoảng từ 1368 - 1840). Trong đó chí dị thực ra là giai đoạn tiếp
theo của truyền kỳ. Thời kỳ Minh - Thanh là một trong những giai đoạn
phát triển đến đỉnh điểm của truyện truyền kỳ và chí dị, trong đó nổi bật hai
tên tuổi lớn là Cù Hựu (1347 - 1433), tác giả Tiễn đăng tân thoại và Bồ
Tùng Linh (1640 - 1715), tác giả Liêu Trai chí dị. Quãng thời gian từ sau
Cù Hựu đến trước Bồ Tùng Linh là giai đoạn thể loại truyền kỳ Trung
Quốc không có đỉnh cao. Sau Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu là một số tác
phẩm chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông như Tiễn đăng dư thoại của Lý
Trinh (1376 - 1452), Mịch đăng nhân thoại của Thiệu Cảnh Thiềm (viết
sau đời Gia Tĩnh nhà Minh, 1592), ngoài ra còn có thể kể đến các tên tuổi


10

khác như Đào Phụ, Sái Vũ, Vương Hiến Định (1598 - 1662), Ngụy Hy
(1624 - 1681), Lý Thanh (1602 - 1681)...
Truyện kỳ ảo Trung Quốc, đặc biệt giai đoạn truyền kỳ, chí dị có ảnh
hưởng hết sức rộng lớn đến các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán. Tác
phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu có sức lan tỏa rộng nhất, mạnh nhất,
thúc đẩy sự ra đời các tập truyện truyền kỳ ở ba nước châu Á như Kim
Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (1435 - 1493, Triều Tiên), Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ (đầu thế kỷ XVI, Việt Nam), Gia tỳ tử của Asai
Ryohi (1612 - 1691, Nhật Bản). Nó tạo thành một thể loại văn cổ điển phổ
biến mang đặc trưng cho truyện ngắn phương Đông. Có khi cùng một cốt
truyện, một đề tài, các nhà văn ở các nước đã tạo nên những tác phẩm
truyền kỳ khác nhau, với những sắc thái tâm lý, phong tục, địa danh riêng
biệt của mỗi nước. Đó chính là giá trị văn hóa mà thể loại truyền kỳ đóng
góp vào văn hóa nhân loại.
Truyện truyền kỳ Việt Nam vốn có nguồn gốc từ thể loại truyện kỳ ảo
Trung Quốc cổ trung đại nhưng có quá trình phát triển nội sinh gắn liền với
nền văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là với văn học dân gian và văn
xuôi lịch sử. Văn hóa dân tộc như cái nôi nuôi dưỡng truyện truyền kỳ Việt
Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển và cũng chính nền văn hóa
dân tộc, đặc biệt là văn học dân gian đã giúp cho thể loại truyện này ở Việt
Nam khác với truyện truyền kỳ các nước đồng văn trong khu vực. Truyền
thống văn hóa, văn học dân tộc là một trong những nguồn gốc quan trọng
nhất của truyền kỳ Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu cho truyền kỳ Việt Nam
là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Như vậy, truyện truyền kỳ đã đem đến một bức tranh lạ về thế giới
hiện thực và con người bằng một phương tiện nghệ thuật riêng. Trong tiến
trình phát triển của mình, mặc dù có lúc thăng trầm nhưng truyện truyền kỳ
đã khẳng định được chỗ đứng trong hệ thống thể loại văn học để trở thành
một thể loại độc đáo và đặc sắc trong văn xuôi tự sự.



11
1.3. Cái “kỳ” trong truyện truyền kỳ
Truyện truyền kỳ là thể loại “kỳ văn dị sự” (văn lạ, việc lạ), “phi kỳ
bất truyền” (không kỳ lạ thì không lưu truyền), nghĩa là không có cái siêu
thực thì không phải là truyện truyền kỳ đích thực. Thuộc tính “kỳ” (rất lạ,
siêu thực, kỳ quái…) của thể loại thể hiện ở cách nhìn nhận tự nhiên, xã
hội, con người cá thể và quyết định sự lựa chọn các phương thức và thủ pháp
thể hiện. Thuộc tính của truyện truyền kỳ kéo theo một nghịch lý cốt tử của
thể loại này. Một mặt nó yêu cầu phải có tính chất “kỳ”, yêu cầu sự khác
thường, cũng có nghĩa là theo lẽ phải thông thường thì người ta khó tin là
thực. Mặt khác, người sáng tạo văn chương muốn độc giả bị thuyết phục
bởi sự chân thực của bức tranh đời sống và sự chân thành của mình. Bởi
vậy thủ pháp phổ biến để giải quyết nghịch lý là gắn câu chuyện với thời
gian, không gian, nhân vật xác định.
Truyền kỳ không từ chối miêu tả những câu chuyện lạ, những sự việc
lạ bởi nếu không “lạ” thì không truyền. Tuy nhiên chữ “kỳ” ở đây không
chỉ là kỳ ảo, kỳ dị mà phải hiểu như một quan niệm văn học, một phương
pháp sáng tác: “Vô kỳ bất truyền” (không lạ không lưu truyền được). Cái lạ
trong truyền kỳ khác với cái lạ trong tiểu thuyết chí quái. Cái lạ trong chí
quái chỉ những hiện tượng không bình thường xảy ra trong thiên nhiên, đời
sống như ngựa mọc sừng lên (Thái tử Đan nước Yên) hoặc người nôn từ
trong mồm ra đủ loại thức ngon vật lạ và cả một người con gái đẹp (Cái
lông ngỗng ở Dương Tiễn). Cái “lạ” ở đây gần với “quái”. Còn cái “lạ”
trong truyện truyền kỳ xuất hiện như một tất yếu trong mạch vận động chân
thực của cốt truyện, không gây cảm giác quái đản. Nó không xuất hiện một
cách ngẫu nhiên mà tham gia vào cốt truyện, thúc đẩy diễn biễn cốt truyện.
Mặt khác, thông qua yếu tố kỳ ảo, nhà văn bộc lộ được thái độ, tư tưởng,
tình cảm của mình đối với hiện thực. Chính nhờ yếu tố kỳ ảo trong Nam
Xương nữ tử lục (Chuyện người con gái Nam Xương - Truyền kỳ mạn lục)

mà người đọc được đến với một không gian khác - nơi con người được


12
sống hạnh phúc hơn, công bằng hơn. Qua đó, nhà văn bộc lộ sự đồng cảm
với số phận cũng như thái độ đồng tình với những khát vọng của con
người.
Đinh Phan Cẩm Vân đã viết về vai trò của cái “kỳ” trong truyện
truyền kỳ: “Yếu tố “kỳ” tạo nên sức hấp dẫn bề nổi cho câu chuyện và
truyền kỳ như được khoác một cái áo sặc sỡ, bắt mắt. Nhưng đó là cái áo
trong tay nhà ảo thuật. Biểu hiện của cái “kỳ” còn ở tầng sâu hơn chi phối
tư duy nghệ thuật của tác giả. Nó xử lý những yếu tố không gian, thời gian,
cách xây dựng hình tượng nhân vật theo một con đường riêng, nhuốm màu
sắc kỳ ảo, thần kỳ làm nên cái đẹp nội tại cho truyền kỳ” [73, 49].
Nhận định về sự hấp dẫn cũng như sức sống bền chặt của yếu tố “kỳ”
đối với nghệ thuật văn học, Lê Nguyên Cẩn đã viết: “Yếu tố kỳ ảo có mặt
trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật của nhân loại từ rất lâu và là một hình
thức ước lệ nghệ thuật giàu khả năng tái tạo và khám phá hiện thực. Nó tạo
ra các đột biến nghệ thuật, tạo nên hiệu quả nghệ thuật - gián cách nghệ
thuật rất độc đáo, bất ngờ. Nó tham gia tạo dựng hệ thống các điểm nhìn
nghệ thuật mới, mở rộng không gian nghệ thuật của tác phẩm, dàn trải và
căng thêm chiều sâu của thời gian nghệ thuật. Việc sử dụng yếu tố kỳ ảo
như một phương thức nghệ thuật để chiếm lĩnh và tái hiện cuộc sống không
tách rời các phương tiện thể hiện nghệ thuật khác, mà chúng được đan kết,
xoắn quyện vào nhau. Từ đó gia tăng hiệu quả triết lý nghệ thuật, tạo nên
độ tin cậy và thuyết phục trong cách bình giá, nhận diện con người và cuộc
đời” [4, 218].
Như vậy, truyền kỳ đã phản ánh cuộc sống theo một cách thức
riêng. Cái cách thức riêng đó chịu sự chi phối của cái “kỳ”. “Kỳ” là quan
niệm, là cái nhìn về thế giới của truyền kỳ. Nó khiến cho câu chuyện

không chỉ dừng lại ở việc ghi chép mà trở thành sản phẩm của hư cấu và
tưởng tượng. Sự hư cấu và tưởng tượng luôn hướng tới nguyên tắc
“trong ảo có lý, trong kỳ có tình” (Ngô Thánh Tích). Sự có mặt một cách


13
tương đối xuyên suốt của yếu tố “kỳ” và vai trò tích cực đối với vấn đề
dựng cốt truyện và xây dựng nhân vật chính là bản chất thẩm mỹ của thể
loại truyện truyền kỳ.
1.4. Quan hệ giữa cái “kỳ” và cái thực trong truyện truyền kỳ
Là một thể loại văn xuôi độc đáo phản ánh cái thực qua cái kỳ lạ, kết
cấu của mỗi truyện truyền kỳ thống nhất bởi hai hạt nhân cơ bản: “kỳ” và
thực. Trong truyện truyền kỳ, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa hai yếu tố
“kỳ” và thực là đặc trưng tách biệt của thể loại. Cái “kỳ” trở thành hạt nhân
cơ bản của cốt truyện, thành đối tượng nghệ thuật của nhà văn, được sử
dụng như một bút pháp nghệ thuật. “Hiện thực cuộc sống dưới ngòi bút của
các nhà văn được phản ánh qua cái kỳ lạ” [61]. Vai trò của mỗi yếu tố, sự
tác động qua lại giữa chúng biến thiên qua mỗi giai đoạn cụ thể của sự phát
triển thể loại. “Kỳ” là cái khác thường, cái hiếm có thậm chí là không hề có
trong hiện thực, như hồn ma của Lệ Khanh, Nhị Khanh… trong Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn lục. Nhưng cái “kỳ” là để phản ánh cái thực,
phản ánh sâu sắc hơn cái thực, mà không bị giới hạn bởi hiện thực. Không
có hồn ma của Lệ Khanh và Nhị Khanh lấy gì thể hiện được khao khát tình
yêu của tuổi trẻ, của phụ nữ. Cho nên cái “kỳ” ấy là phương tiện để biểu
hiện cái thực.
Cái “kỳ” vốn là một phạm trù mĩ học của vùng văn hóa Đông Á cổ
đại, là đặc thù tư duy của một giai đoạn lịch sử. Những tác phẩm văn xuôi
nổi tiếng nhất của văn học Đông Á đều chứa đựng trong nó những yếu tố
“kỳ”. Trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích… của văn học dân
gian hay những huyền thoại tôn giáo, văn xuôi lịch sử, cái “kỳ” đã có mặt

và chiếm ưu thế. Đây cũng chính là nguồn gốc quan trọng nhất của yếu tố
“kỳ” trong truyện truyền kỳ. Dưới góc độ thể loại, cái “kỳ” trong truyện
truyền kỳ không đơn giản chỉ là yếu tố nghệ thuật mà còn là thế giới quan
của cả một thời kỳ lịch sử dài lâu - một cách nhìn nhận thế giới. Quan niệm
về cái kỳ ảo, siêu nhiên, về thế giới tâm linh xuất phát từ cái nhìn phi nhị


14
nguyên luận trước vũ trụ của người Đông Á thời cổ trung đại. Ở đó không
có sự phân chia rạch ròi giữa trần gian và thế giới siêu nhiên, thậm chí giữa
chúng còn có sự tác động lẫn nhau một cách nhân quả. Vì vậy, việc phản
ánh mặt kỳ lạ đó chẳng phải là cái gì phi thực tế, mà đó chính là một phần
quan trọng của hiện thực.
Cái “kỳ rất thích hợp với bản chất của văn chương nói riêng và nghệ
thuật nói chung. Nó giải phóng nhận thức và cảm xúc của con người khỏi
cái hiện tồn để vươn tới những hình thái tồn tại khác.
Cái “kỳ” rất hữu dụng trong văn chương của những xã hội bất bình
đẳng. Nhờ cái “kỳ”, người ta có thể biểu thị một cách nghệ thuật những vấn
đề thiết thân của đời sống mà không bị thế lực xã hội ngăn trở. Chúng ta
đều biết đương thời nhà Thanh áp dụng chính sách ngục văn tự. Thời
Nguyễn Dữ, chính quyền chuyên chế cũng không cởi mở với văn chương,
vì vậy càng cần cái “kỳ”.
Cái “kỳ” trong truyện truyền kỳ được phát triển từ thụ động đến ý
thức. Từ cái “kỳ” còn thô phác, mộc mạc, mang tính tự phát, gần gũi với
cái siêu nhiên, kì vĩ của thần thoại và cổ tích đến cái “kỳ” được nhà văn sử
dụng một cách có ý thức như một thủ pháp nghệ thuật, như một hạt nhân tự
sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm. Cái “kỳ” và cái thực đã có sự kết hợp
ngày càng chặt chẽ hơn trong việc phản ánh thực tại cuộc sống, điều này
khiến cho cái “kỳ” không cản trở mà ngược lại gắn bó mật thiết với cái
thực, giúp nhà văn phản ánh một cách sâu sắc hơn cuộc sống. Trong mối

liên hệ với cái “kỳ”, chính cái thực đã có ý nghĩa cao hơn chính bản thân
nó. Nhờ bút pháp kỳ ảo, nhà văn có thể khám phá tâm hồn nhân vật ở một
thế giới mới lạ mà nó lạc vào, với những hoàn cảnh và thử thách mới. Ở
trong thế giới đó, nhà văn thể hiện được lý tưởng của mình về lẽ công bằng
xã hội, nơi cái ác bị trừng phạt, cái thiện cuối cùng đã chiến thắng cũng
như những tư tưởng tân tiến, cởi mở - điều mà họ không thể đạt được trong
cuộc sống thực tại. Sự có mặt của yếu tố “kỳ” một mặt tạo sự lôi cuốn, hấp


15
dẫn người đọc, đem đến cho họ những khoảng rộng rãi cho tưởng tượng và
liên tưởng; mặt khác giúp người đọc dần dần khám phá những bí mật của
sự thật về hiện thực cuộc sống.
1.5. Truyền kỳ mạn lục
Nguyễn Dữ người xã Đường Lâm, huyện Gia Phúc, nay là xã Đỗ
Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Chưa rõ ông sinh và mất năm
nào, chỉ biết nhiều tài liệu đều cho rằng ông là con trai cả Nguyễn Tường
Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1469). Bởi vậy,
nhiều nhà nghiên cứu đều suy đoán: Nguyễn Dữ có khả năng sinh vào cuối
thế kỷ XV, sống và sáng tác chủ yếu vào nửa đầu thế kỷ XVI.
Nguyễn Dữ còn để lại duy nhất tập truyện văn xuôi chữ Hán Truyền
kỳ mạn lục. Về thời điểm ra đời tác phẩm, hiện nay có nhiều ý kiến khác
nhau. Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục, cho rằng:
“Vì ngụy Mạc cướp ngôi, ông thề không ra làm quan, ở thôn quê dạy học
trò, không bao giờ đặt chân đến chốn thị thành, viết Truyền kỳ mạn lục bốn
quyển, văn từ thanh lệ, người đương thời rất khen” [19]. Trần Văn Giáp
trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1971 viết: “Ông đậu tiến sĩ vào khoảng đầu thế kỷ XVI, làm quan tri
huyện Thanh Toàn rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ. Trong khi nghỉ, ông soạn
ra Truyền kỳ mạn lục”. Nguyễn Phạm Hùng cho rằng Nguyễn Dữ sáng tác

Truyền kỳ mạn lục khi cáo quan về ở ẩn, dưới triều Lê.
Có thể Nguyễn Dữ đã sáng tác Truyền kỳ mạn lục trong nhiều giai
đoạn cuộc đời, nhưng chắc chắn tác phẩm đã được hoàn thiện trong thời
gian ông cáo quan về phụng dưỡng mẹ già, sau thời điểm Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê (1572) và sau khi đã tiếp xúc với tập truyền kỳ của nhà
văn Trung Quốc Cù Hựu (1347-1433).
Chỉ trong vòng 30 năm kể từ khi Lê Thánh Tông mất (1497) cho đến
khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527) đã trải qua sự trị vì của 6 vị
vua. Lê Hiền Tông lên ngôi từ 1498 đến 1504, thọ 44 tuổi; Lê Túc Tông


16
lên ngôi chỉ gần 1 năm (1504) thọ 17 tuổi. Lê Uy Mục làm vua 5 năm
(1505 - 1509) thọ 22 tuổi; Lê Tương Dực làm vua 7 năm (1510 – 1516),
thọ 24 tuổi; Lê Chiêu Tông làm vua 7 năm (1516 - 1522) thọ 26 tuổi; Lê
Cung Hoàng làm vua 6 năm (1522 - 1527) thọ 21 tuổi. Đây là thời kỳ mà
sử gọi là “vua quỷ” và “vua lợn”, là những triều đại lịch sử rối ren, thối nát,
tàn bạo và đi ngược lại quyền lợi của con người. Những cảnh chém giết,
đọa đày nhân dân thường xuyên đập vào mắt Nguyễn Dữ, khiến ông càng
thêm cô đơn bất bình, cảm thấy mình như kẻ bất tài vô dụng. Nguyễn Dữ
đã bỏ lại sau lưng mình một xã hội đầy rẫy những mục rỗng ở chốn quan
trường, đời sống dân chúng thảm hại và tìm đến một thế giới khác sáng tác
để ký thác tâm sự thời thế và tìm tri âm. Đây chính là hoàn cảnh xã hội
khiến ông cầm bút. Đúng như cổ nhân đã nói: “Vạn bất bình mà kêu”. Nhà
nghiên cứu Xô viết Mirian Tkatsov khi giới thiệu tác phẩm này ở Liên Xô
đã viết: “Nguyễn Dữ đã suy nghĩ có tính chất phạm trù về thời đại mình”.
Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển. Truyện được viết
bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn. Hầu hết các
truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra
Bắc. Trừ truyện 19 Kim Hoa thi thoại ký (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa)

còn lại cuối mỗi truyện đều có lời bình thể hiện chính kiến của tác giả, chủ
yếu bàn về nội dung, ý nghĩa đạo đức của truyện. Hiện nay, bản sớm nhất
còn lại trong tác phẩm là Cựu biên Truyền kỳ mạn lục in năm Vĩnh Thịnh
thứ 8 (1712) trong đó có lời “Tựa” của Hà Thiện Hán (viết năm 1547). Văn
bản này hiện được lưu giữ tại Đông Dương văn khố Nhật Bản, được in lại
và phổ biến trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục
xuất bản năm 1987.
Ngay từ khi mới ra đời, Truyền kỳ mạn lục đã được đón nhận. Hà
Thiện Hán đã viết lời tựa, Nguyễn Thế Nghi đã dịch ra văn Nôm tác phẩm
này. Càng về sau, tác phẩm càng được nhiều học giả tên tuổi chú ý và đánh
giá cao. Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Qúy Đôn ca ngợi Truyền kỳ mạn lục


17
có “văn từ thanh lệ”. Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp ký mệnh danh đó
là “thiên cổ kỳ bút”. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí
coi thực sự là “áng văn hay của bậc đại gia”.
Có thể nói, với sự ra đời của Truyền kỳ mạn lục, lần đầu tiên trong lịch
sử văn học Việt Nam, Nguyễn Dữ đã dựng lên trong tác phẩm của mình
một bức tranh hiện thực đa dạng, sinh động và sâu sắc đến vậy. “Trong
Truyền kỳ mạn lục có loại truyện vạch trần chế độ đen tối của giai cấp
thống trị phong kiến lúc suy thoái, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan
nhũng lại, đồi phong bại tục, đồng tình với cảnh ngộ của người dân lương
thiện bị chà đạp, hà hiếp, gián tiếp phản ánh sự phẫn nộ của quần chúng
trước những tệ lậu của xã hội phong kiến. Có loại truyện nói đến tình yêu
trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng; lại có truyện viết về đời
sống lý tưởng của kẻ sĩ, nổi bật trong đó là đời sống của tầng lớp nho sĩ ẩn
dật…” [33, 506]. Đằng sau những yếu tố hoang đường, kỳ ảo là cả một
hiện thực đời sống đa dạng được tái hiện qua ngòi bút đậm đà tư tưởng
nhân văn.

Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác
phẩm một mặt vạch trần những tệ nạn của chế độ phong kiến, mặt khác đề
cao phẩm giá của con người, đồng tình với những khát vọng chân chính
cũng như bày tỏ niềm cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau khổ của nhân dân.
Đặc biệt là của những người phụ nữ phải chịu nhiều bất công, thiệt thòi
trong xã hội phong kiến.
PGS. TS. Trần Thị Băng Thanh khi giới thiệu sơ lược về giá trị nội
dung của Truyền kỳ mạn lục trong Lời tựa như sau: “Thông qua các nhân
vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ… tác phẩm muốn gửi gắm ý
tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa
hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ
quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí
đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren


18
như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ
hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học
trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục” [66, 6].
Bên cạnh đó, Truyền kỳ mạn lục còn là tác phẩm có nhiều đặc sắc
nghệ thuật. Trong tác phẩm có một số truyện phóng tác nhưng phần tưởng
tượng, hư cấu, sáng tạo của tác giả rất đáng kể. Hình tượng nhân vật trong
tác phẩm của ông đã trở thành những con người có số phận, tính cách riêng
và hết sức đa dạng, phong phú.
Trong lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục (được Trúc Khê Ngô Văn Triện
dịch ra quốc ngữ in năm 1941), Bùi Kỷ viết: “Nguyễn Dữ học rất rộng, lại
có tài viết văn dùng nhiều điển tích. Lối viết nào cũng hay, về phần uyên
bác có thể ngang với Bồ Tùng Linh, về phần vận dụng các văn thể vượt hơn
Đặng Trần Côn…”.
Bùi Duy Tân khi đánh giá về nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục đã

khẳng định: “…đặc biệt về nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt
xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống
riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào
nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những
phương thức tự sự, trữ tình và ca kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ
tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích,
chặt chẽ, hài hòa và sinh động” [25, 1125]. Và “Do cách đặt vấn đề có sức
thuyết phục, do lập luận hùng hồn, tranh luận sắc sảo, đối thoại sinh động,
lại khéo sử dụng yếu tố thần kỳ, những truyện này vừa tránh được vẻ khô
khan, nặng nề thường thấy ở những bài văn thuyết lý, vừa có sức hấp dẫn
của loại văn chính luận hình tượng, một loại văn có truyền thống trong văn
học chữ Hán và đã đạt đến đỉnh cao trong các hịch, chiếu, cáo thời trước”
[25, 1126].
Với những giá trị về nội dung và nghệ thuật như trên, Truyền kỳ mạn
lục đã chứng tỏ được sức sống kì diệu của mình. Tác phẩm được chào đón


19
nồng nhiệt ngay từ khi mới ra đời và sẽ còn tiếp tục có chỗ đứng vững chắc
trong lòng bao độc giả ở các thế hệ, bất chấp quy luật nghiệt ngã của thời
gian.
1.6. Tiễn đăng tân thoại
Cù Hựu tự Tông Cát (1347- 1433), quê ở Sơn Dương (Hoài An, Giang
Tô). Ông sinh ra giữa buổi binh lửa loạn ly, từng lưu lạc ở nhiều nơi như
Tứ Minh, Cô Tô. Từ nhỏ ông đã thông tuệ, tài hoa rất mực.
Cù Hựu viết Tiễn đăng tân thoại trong thời gian nào cho đến nay vẫn
chưa biết đích xác. Có nhiều thuyết khác nhau về thời gian ra đời và hoàn
cảnh ra đời cũng như động cơ sáng tác của tác phẩm. Giáo trình Lịch sử
văn học Trung Quốc do viện Khoa học Xã hội Trung Quốc soạn có viết:
“Tiễn đăng tân thoại, văn viết mới, tình tiết khúc triết, có sức hấp dẫn nghệ

thuật nhất định, đặc biệt là mấy thiên viết về tình yêu như Thúy Thúy
truyện, Ái Khanh truyện đã phản ánh được nỗi bất hạnh, nhà cửa tan nát, vợ
con chia lìa của nhân dân trong cuộc đại loạn cuối triều Nguyên. Bằng ngòi
bút đầy cảm thông ông đã viết bi kịch sinh ly tử biệt của hai cặp vợ chồng
son trẻ là Kim Định và Lưu Thúy Thúy, Triệu Lục và La Ái Ái, những đau
khổ triền miên thê thảm, làm xúc động lòng người nhất là Thúy Thúy
truyện lại càng xuất sắc. Nhưng do ông xuất phát từ mục đích khuyến thiện
phạt ác cho nên có đến ba phần tư tác phẩm viết toàn những truyện thần
tiên ma quái, đầy màu sắc hoang đường, nhân quả báo ứng. Đồng thời phần
nhiều những thơ từ văn phú ông đưa vào để khoe tài đã làm hỏng cái hoàn
chỉnh kết cấu tác phẩm”. Trong Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục của nhà nghiên cứu Trần Ích Nguyên có dẫn lời giới
thiệu của Chu Thanh Nguyên viết về tài năng và động cơ sáng tác của Cù
Hựu: “Nhưng tuy như vậy, mà “hữu tài vô mệnh”, dưới ngòi bút đã viết cả
ngàn bài thi phú mà tìm trong túi không có được một hai đồng thông bảo.
Thật là thời vậy! Vận vậy! Mệnh vậy! Cho nên trong lòng ông dậy lên
niềm cảm khái mà trước hết thể hiện ở một bài thơ:


20
Tự cổ văn chương ách mệnh cùng,
Thông minh vị tất thắng ngu mông.
Bút đoan hoa dữ hung trung gấm,
Khiểm đắc Tương Như tứ bích không.
(Tự cổ văn chương hãm mệnh cùng,
Hơn thua chưa hẳn bởi ngu, thông.
Gấm, hoa đầu bút cùng trong dạ,
Kiếm được Tương Như bốn vách không.)
Bèn viết một bộ sách đặt tên là Tiễn đăng tân thoại, bỡn cợt bút mực,
trào phúng một để khuyên răn một trăm, mượn việc đó để bộc lộ ý chí và

khí khái trong lòng…” [49, 42].
Tiễn đăng tân thoại được viết xong năm thứ mười một niên hiệu Hồng
Vũ đời Minh (1378) và ba năm sau mới in ra (1381). Sau khi được xuất
bản, tác phẩm mặc dù chưa có vị thế xứng đáng ở đất nước mình nhưng lại
nhanh chóng có được ảnh hưởng ở các nước trong khu vực như Triều Tiên,
Nhật Bản, Việt Nam…
Tiễn đăng tân thoại gồm 4 quyển, mỗi quyển 5 truyện, phụ lục thêm
Thu hương đình ký, cộng là 21 đoản thiên tiểu thuyết văn xuôi, chừng hơn
35000 từ.
Ngay khi vừa mới ra đời ở đầu triều Minh, Tiễn đăng tân thoại được
tìm đọc và phỏng tác. Mặc dù Cù Hựu sống trong một thời đại chính quyền
được lập lại ổn định nhưng trong thời kỳ quá độ của vương triều thay đổi
cho nhau thì chính sự thối nát, xã hội chao đảo, kinh tế tiêu điều, đời sống
nhân dân cực khổ. Bởi vậy trong ông vẫn không nguôi nỗi ám ảnh về
những ngày tháng loạn ly dưới ách chiếm cứ của Trương Sĩ Thành. Trong
bài viết Chuyện cưới dưới âm phủ trong Tiễn đăng tân thoại đăng trên
Nhật Bản văn học luận cứu, số 30, Nham Điền Bách Lang đã viết: “Tiễn
đăng tân thoại chẳng những là một tập tiểu thuyết truyền kỳ mà còn bao
hàm tính chất của văn học thời loạn”. Trong tác phẩm của mình, Cù Hựu đã


21
miêu tả những cảnh tượng loạn ly chính ông từng trải qua và tận mắt trông
thấy. Tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Tiễn đăng tân thoại “dùng phép truyền kỳ để ghi chuyện quái lạ”, lại
dùng tư liệu hiện có trong thơ, văn, bút ký. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì
tác phẩm chưa thể có được một vị thế xứng đáng. Đúng như ông Triệu
Cảnh Thâm đã nói: “Giá trị… của Tiễn đăng tân thoại nếu chỉ ở chỗ mô
phỏng truyền kỳ đời Đường thì cũng chỉ trở thành một thứ đồ cổ làm giả
mà thôi. Điểm quan trọng của sách không phải ở chỗ noi theo người đi

trước mà là ở chỗ gợi mở cho người đi sau” [49, 226].
Về giá trị nghệ thuật, Tiễn đăng tân thoại thể hiện tài năng của Cù
Hựu trong việc vận dụng một cách tài tình thơ từ, cách dùng chữ nghĩa của
lối văn biền ngẫu, lời đẹp, kể chuyện và miêu tả uyển chuyển xen lẫn với
nhiều bài thơ, có ảnh hưởng rất lớn đối với sáng tác tiểu thuyết văn ngôn
(cổ văn) đời Minh và đời Thanh. Trong lịch sử tiểu thuyết văn ngôn, Tiễn
đăng tân thoại là khâu nối tiếp giữa tiểu thuyết đời Đường và Liêu Trai chí
dị đời Thanh.


22
Chương 2
NHỮNG TRUYỆN TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC VÀ TRONG
TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI TƯƠNG ĐỒNG CƠ BẢN VỀ CÁI “KỲ”
2.1. Tóm tắt và phân tích từng cặp truyện có sự tương đồng về cái “kỳ”
Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kỳ mạn lục đã ảnh hưởng ở Cù Hựu
nhiều yếu tố như tình tiết, điển tích, môtíp… Ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất
đó là bút pháp thể loại. Bởi vậy, ở đây chúng tôi lấy tiêu điểm là yếu tố
“kỳ”, một thuộc tính của thể loại truyền kỳ để so sánh. Phương pháp so
sánh là theo phương pháp phân loại truyện truyền kỳ đời Đường, chia theo
loại hình chung là loại diễm tình, loại kỳ quái và loại biệt truyện. Từ đó
phân tích so sánh để tìm ra được những điểm giống nhau giữa hai tác phẩm
như sau:
2.1.1. Loại diễm tình
Trên cơ sở tham khảo phương pháp phân loại truyền kỳ đời
Đường, trước hết chúng tôi so sánh số lượng truyện loại diễm tình viết
về tình yêu ly - hợp của các nam nữ nhân vật chính. Tiễn đăng tân
thoại có 7 truyện loại diễm tình (trong tổng số 20 truyện, gồm Vị
Đường kỳ ngộ ký, Liên Phương lâu ký, Thúy Thúy truyện, Ái Khanh
truyện, Kim phượng thoa ký, Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên ký, Lục y

nhân truyện). Truyền kỳ mạn lục tổng cộng có 5 truyện (trong 20
truyện gồm Thúy Tiêu truyện, Lệ Nương truyện, Tây viên kỳ ngộ ký,
Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Nam Xương nữ tử lục). Đối chiếu yếu
tố “kỳ” (Ranh giới giữa bối cảnh hiện thực và phi hiện thực, nguyên
nhân biến thành nữ hồn ma, môtíp người và hồn ma giao hoan), ta có
thể rút ra được các cặp truyện có sự tương đồng về cái “kỳ” theo bảng
so sánh sau:


23
Tác
phẩm
-Diện
mạo
-cuộc
gặp

Tiễn đăng tân thoại

Truyền kỳ mạn lục

Ái Khanh truyện

Lệ Nương truyện

(Nàng Ái Khanh)
(Chuyện Lệ Nương)
Ở Gia Hưng có nàng ca kỹ La Ái Nguyễn Lệ Nương và Lý Phật
Ái, nhan sắc tài mạo một thời Sinh được hứa hôn từ trong
không ai sánh kịp, người ta gọi bụng mẹ. Khi lớn lên, họ thường

là Ái Khanh. Từ sau khi được gả cùng ngâm vịnh, cả hai đều yêu
cho chàng họ Triệu cùng làng, mến nhau. Không ngờ Lệ
chuyện phấn son rũ bỏ, nàng Nương gặp họa ở Khát Chân
trông coi việc nhà, lại hiếu thuận phải vào cung làm nữ tỳ, mấy
với mẹ chồng. Không bao lâu năm sau lại bị tướng nhà Minh là
chồng đi làm quan xa, mẹ chồng Lã Nghị bắt đi. Nàng không chịu
cũng qua đời. Ái Khanh côi cút nhục đã tự vẫn.
đau khổ. Có một viên vạn hộ họ
Lưu ham mê nhan sắc nàng, ép
nàng lấy hắn. Ái Khanh giữ lòng
trinh lấy khăn thắt cổ tử tự.
Chàng Triệu về nghe hết mọi Phật Sinh tìm Lệ Nương nhưng
chuyện đau xót không cùng, Ái không gặp, chỉ thấy mộ nàng.
Khanh hiện về dương thế cùng Chàng kể lại sự tình trước mộ,
chồng nối lại niềm loan ái cũ.

đêm ấy Lệ Nương lững thững đi
đến. Hai người âu yếm chuyện

trò rồi giao hoan.
Đằng Mục túy du Tụ Cảnh viên
Tây viên kỳ ngộ ký

(Đằng Mục rượu say chơi vườn
Tụ Cảnh)

( Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây)



×