Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.82 KB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

CHẾ THỊ THANH AN

XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LÒ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: LLVÀ PPDH BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THÁI SƠN

Nghệ An, 2013


2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo Khoa Giáo dục
Chính trị, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh đã dành nhiều tâm huyết
truyền đạt những tri thức quý báu, giúp tôi hoàn thành khoá học và luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo
TS. Nguyễn Thái Sơn đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và đã hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn
thành luận văn này.


Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Tổ Sử - Địa - GDCD
Trường THPT Nghi Lộc 4 cùng các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã động
viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình theo học chương trình Cao học tại
Trường Đại học Vinh cũng như sự giúp đỡ của Ban giám hiệu các Trường
THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò để Tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Nghệ An, tháng 7 năm 2013
Tác giả
Chế Thị Thanh An


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TS
CNXH
CNCS
CNH, HĐH
GDCD
GD - ĐT
XHCN
PGS
GDTX
CNDVLS
THCS
THPT

Tiến sỹ
Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa cộng sản
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

Giáo dục công dân
Giáo dục đào tạo
Xã hội chủ nghĩa
Phó giáo sư
Giáo dục thường xuyên
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông


4
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................7
B. NỘI DUNG..................................................................................................13
Chương 1........................................................................................................13
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG..................................................................13
1.1. Khái niệm lối sống và lối sống văn hóa........................................................13
1.1.1.Khái niệm lối sống................................................................................13
1.1.2. Khái niệm lối sống văn hóa.................................................................21
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của lối sống văn hóa...................................24
1.2. Tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT.......39
Chương 2..........................................................................................................45
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LỐI SỐNG CỦA HỌC SINH THPT VÀ45
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CỦA HỌC SINH THPT
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LÒ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...........45
2.1. Vài nét về hoàn cảnh địa lý và điều kiện Kinh tế - Văn hóa - Xã hội của thị xã
Cửa Lò..............................................................................................................45
2.1.1. Về hoàn cảnh địa lý.............................................................................45
2.1.2. Về điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội..............................................46

2.1.3. Về giáo dục – đào tạo..........................................................................47
2.2. Các yếu tố tác động tới việc xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT...48
2.2.1. Yếu tố tâm sinh lý................................................................................49
2.2.2. Yếu tố gia đình.....................................................................................51
2.2.3. Yếu tố nhà trường...............................................................................52
2.2.4. Yếu tố kinh tế - xã hội.........................................................................53
2.3. Thực trạng lối sống của học sinh THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò................55


5
2.3.1. Thực trạng về nhận thức lối sống văn hóa và các nội dung, hình
thức, phương pháp xây dựng lối sống văn hóa trên địa bàn thị xã Cửa Lò
55
2.3.2. Đánh giá kết quả về xây dựng lối sống văn hóa của học sinh THPT
trên địa bàn thị xã Cửa Lò............................................................................62
Chương 3..........................................................................................................69
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY DỰNG LỐI
SỐNG VĂN HÓA CHO HỌC SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ CỬA LÒ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY....................................................................69
3.1. Quan điểm xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã
Cửa Lò..............................................................................................................69
3.1.1. Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã
Cửa Lò là một bộ phận thống nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển thị xã trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội..................69
3.1.2. Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã
Cửa Lò nhằm hình thành lớp thanh niên có các đức tính phù hợp với giai
đoạn cách mạng mới......................................................................................70
3.1.3. Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã
Cửa Lò phải kế thừa phát huy những giá trị tốt đẹp trong lối sống truyền
thống dân tộc, đồng thời tiếp thu những yếu tố tiến bộ, nhân văn trong lối

sống của các dân tộc khác.............................................................................71
3.2. Các giải pháp xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã
Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay.........................................................................72
3.2.1. Đổi mới nhận thức của toàn xã hội về quá trình xây dựng lối sống
văn hóa cho học sinh và nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
ở các Trường THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò........................................72
3.2.2. Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh luôn gắn liền và thông qua
tất cả các môn học, đặc biệt là môn GDCD.................................................81


6
3.2.3. Nâng cao vai trò của người giáo viên trong quá trình xây dựng lối
sống văn hóa cho học sinh.............................................................................89
3.2.4. Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá, thể thao, tham quan thực tế,
phong trào tình nguyện, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”.92
3.2.5. Tăng cường công tác quản lý học sinh, ngăn chặn và xử lý kịp thời
các hiện tượng tiêu cực trong học sinh, xây dựng môi trường giáo dục
đạo đức, lối sống lành mạnh.........................................................................96
C. KẾT LUẬN................................................................................................101
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................103
E. PHỤ LỤC...................................................................................................106


7
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, “nhân tố con người” đang được quan tâm đặc biệt. Chiến lược
phát triển nguồn nhân lực con người – với tư cách là nguồn lực để phát triển
xã hội – ngày càng trở nên quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của

Đảng và Nhà nước ta. Để xây dựng và phát triển con người Việt Nam toàn
diện, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản khẳng định: “Mọi hoạt động
văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lòng nhân ái khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”[12; 114].
Định hướng trên của Đảng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
mọi hoạt động văn hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, vấn đề
xây dựng lối sống có văn hóa đang trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Lối
sống có văn hóa, con người văn hóa, không còn là khẩu hiệu chung chung
nữa, mà đang trở thành hành động thực tiễn trên khắp đất nước chúng ta.
Lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Lối sống có văn hóa
(hay lối sống văn hóa) là một đặc trưng quan trọng của con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xây dựng con người Việt Nam không
thể coi nhẹ việc xây dựng lối sống có văn hóa.
Xác định dược vai trò quan trọng của việc xây dựng lối sống văn hóa
cho học sinh, sinh viên, Bộ GD-ĐT đã ban hành các văn bản yêu cầu trường
học quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
Hướng dẫn số 6744/BGD và ĐT ngày 4/8/2005 chỉ rõ “Đẩy mạnh giáo dục
toàn diện, tăng cường giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh…”. Đại hội X
của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định một trong những định hướng lớn


8
trong GDĐT, là: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
cho học sinh, sinh viên”.
Mặt khác, có thể thấy những năm gần đây vấn đề về lối sống của học
sinh, sinh viên ở nước ta đã và đang trở thành vấn đề nóng không chỉ của
ngành giáo dục mà còn của toàn xã hội. Trong thời kỳ hội nhập nhiều học

sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập, có hoài bão, khát vọng lớn.
Tuy nhiên, cũng chính tác động của nền kinh tế mở và do nhiều nguyên nhân
khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên nước ta có xu hướng ngày càng
tăng. Vì vậy, xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh hiện nay đang trở thành
nhiệm vụ cấp bách.
Cửa Lò là một thị xã thuộc tỉnh Nghệ An. Trong những năm qua cùng
với sự phát triển của một đô thị du lịch biển, bên cạnh nền kinh tế, dân trí và
đời sống của người dân ngày càng được nâng cao thì một bộ phận thanh niên
(trong đó có học sinh THPT) chưa thực sự có lối sống tốt đẹp, vi phạm đạo
đức, lối sống có xu hướng tăng cao. Một số hành vi vi phạm pháp luật của học
sinh khiến gia đình và xã hội lo lắng, như: vi phạm luật giao thông, đua xe trái
phép, bạo lực học đường, quay cóp, mua điểm, cờ bạc, rượu chè. Trong gia
đình các em thiếu kính trên nhường dưới, không vâng lời cha mẹ. Một số
hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức, như: lối sống hưởng thụ, thực dụng,
chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập, thiếu ý thức
rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai, ích kỷ, thờ ơ, vô cảm. Nhiều học
sinh sa vào các tệ nạn xã hội. Ý thức học tập, hiểu biết và chấp hành kỷ
cương, phép nước của một bộ phận học sinh còn rất kém. Những năm qua,
dưới sự chỉ đạo của tỉnh, của huyện và của sở GD – ĐT, các trường THPT đã
triển khai nhiều biện pháp để giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống cho học
sinh. Tuy nhiên, kết quả vẫn chưa cao, đạo đức, lối sống của học sinh vẫn còn
nhiều bất cập.


9
Cùng với tỉnh Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung, thị xã Cửa Lò
đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng
con người với lối sống văn hóa đã trở thành nhiệm vụ cấp bách, đặc biệt đối
với thế hệ trẻ - học sinh THPT.
Xuất phát từ vấn đề lý luận và thực tiễn trên, để góp phần cùng các

trường THPT ở thị xã Cửa Lò giải quyết tốt vấn đề xây dựng lối sống văn hóa
cho học sinh, tác giả chọn đề tài “Xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh
THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục
chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng lối sống là một nhiệm vụ quan trọng. Vì thế, nó đã thu hút sự
quan tâm của nhiều tác giả ở nước ta, trong đó có cả lãnh tụ cách mạng.
Người đầu tiên đề xuất vấn đề xây dựng lối sống mới là chủ tịch Hồ Chí
Minh. Dưới bút hiệu XYZ, Bác viết quyển Sửa đổi lề lối làm việc, nhà xuất
bản Sự thật in vào năm 1950. cả hai quyển sách này mặc dù chưa nêu lên khái
niệm lối sống nhưng đều đề cập đến những tinh thần cơ bản của lối sống mới
văn hóa. Ở lời tựa của quyển Đời sống mới, chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Trong lúc kháng chiến, chúng ta đồng thời phải kiến quốc. Thực hành đời
sống mới là một điều cần kịp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc”[27; 99].
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, những công trình trên đây đã
phân tích bản chất, các giá trị và biện pháp để xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV dùng khái niệm “nếp
sống mới có văn hóa” và đề ra nhiệm vụ: “…vận động một cách kiên trì và
sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hóa trong xã hội: đưa cái đẹp vào đời
sống hàng ngày, vào lao động sản xuất”. Đến Đại hội Đảng lần thứ V khái
niệm “lối sống mới” được sử dụng, Văn kiện Đại hội viết: “…cuộc đấu tranh
giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ và


10
phản động, trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng và lối sống đang diễn ra hàng ngày
rất phức tạp”[8 ; 91 - 92].
Đại hội Đảng lần thứ VI mở ra thời kỳ đổi mới. Trong điều kiện này,
xây dựng lối sống trở thành nhiệm vụ cấp bách, từ đó việc nghiên cứu lối

sống được đặt ra khá phong phú, đa dạng cả về bề rộng, chiều sâu. Dưới đây
xin nêu một số tác giả và công trình tiêu biểu:
Trước hết là những công trình đã được in thành sách của các nhà xuất
bản: PGS.TS Lê Như Hoa (chủ biên): Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay,
Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993; PGS.TS Lê Như Hoa (chủ
biên): Lối sống đô thị miền Trung, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996; GS. Trần Văn Bính (chủ biên): Giáo
trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001; GS. Đỗ Huy: Vấn đề xây
dựng lối sống dân tộc hiện đại ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 6,
1999; Phan Huy Kỳ: Xây dựng lối sống mới trong điều kiện hiện nay, Nghiên
cứu lý luận, số 7, 1999; Nguyễn Chí Dũng: Xã hội hóa lối sống và xây dựng
lối sống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí
sinh hoạt lý luận, số 5, 2000; Cao Văn Định: Giáo dục lối sống cho thanh
niên đô thị hiện nay, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 2, 2000; Lê Lâm Ứng: Lối
sống mới của người Việt Nam, Tạp chí Quân đội nhân dân, số 26/1, 2001;
Công trình nghiên cứu về “lối sống” của GS. Vũ Khiêu đã tập trung vào giới
thuyết khái niệm, phân tích những biểu hiện cơ bản của lối sống và những đặc
trưng cơ bản của lối sống XHCN.
Vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên các trường đại học và
cao đẳng được đề cập đến trong đề tài khoa học cấp bộ của PGS.TS. Đoàn
Minh Duệ: “Tình hình tư tưởng đạo đức, lối sống của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng thuộc các tỉnh bắc miền trung”.


11
Nhìn chung, những công trình này đã phần nào đi sâu lý giải bản chất
của khái niệm “lối sống”, chỉ ra những lĩnh vực biểu hiện của nó, những đặc
điểm của lối sống mới; có công trình còn phân tích lối sống của những nhóm
xã hội cụ thể, lối sống trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy chưa bàn đến nội dung xây dựng lối sống có văn hóa của học sinh
nhưng những công trình trên đã có nhiều gợi ý cho đề tài, nhiều số liệu mà
luận văn có thể vận dụng được, làm sâu sắc thêm những vấn đề liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích
Luận văn tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống
văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay.
b. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm và đặc trưng của lối sống văn hóa.
- Điều tra, khảo sát, đánh giá, tìm hiểu thực trạng lối sống của học sinh
THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn hóa cho học sinh
THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Chủ thể của lối sống văn hóa mà đề tài nghiên cứu là học sinh THPT
trên địa bàn thị xã Cửa Lò.
- Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng lối sống văn hóa cho học
sinh THPT.
- Phạm vi của lối sống rất rộng nên đề tài chỉ giới hạn ở những lĩnh vực
cơ bản nhất, phản ánh đặc trưng lối sống của học sinh THPT gắn với đặc điểm
lứa tuổi như hoạt động xây dựng tư tưởng, hoạt động học tập, hoạt động xã hội.
5. Giả thiết khoa học
Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở giả thiết cho rằng thực trạng
lối sống văn hóa của học sinh THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò chưa cao, nếu


12
đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, hiệu quả sẽ xây dựng được lối
sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò.

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm lý luận văn hóa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về con người Xã hội
chủ nghĩa và xây dựng lối sống Xã hội chủ nghĩa.
b. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp logic – lịch sử, phân tích - tổng hợp, điều tra
xã hội học và các phương pháp nghiên cứu khác của các ngành xã hội.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Khẳng định sự cần thiết phải xây dựng đạo đức, lối sống cho học
sinh THPT.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn hóa cho học
sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác xây dựng lối
sống cho học sinh THPT.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1; Cơ sở lý luận của việc xây dựng lối sống văn hóa cho học
sinh THPT.
Chương 2: Những yếu tố tác động đến lối sống văn hóa của học sinh
THPT và thực trạng xây dựng lối sống văn hóa của học sinh THPT trên địa
bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng lối
sống văn hóa cho học sinh THPT trên địa bàn thị xã Cửa Lò trong giai đoạn
hiện nay.


13
B. NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG VĂN HÓA CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Khái niệm lối sống và lối sống văn hóa
1.1.1.Khái niệm lối sống
Từ lâu, lối sống đã trở thành đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, giáo
dục học, văn hóa học và được xem là phạm trù cơ bản của CNDVLS. Trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, để làm rõ mối quan hệ giữa con người và hoàn
cảnh, điều kiện sống của nó, C. Mác đã bổ sung vào khái niệm “phương thức
sản xuất” khái niệm “phương thức sinh sống”:
Không nên nghiên cứu phương thức ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự
tái sản xuất ra đời sống thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương
thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của
hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ [25; 30].
Luận điểm trên đây thường được các nhà nghiên cứu Mác-xít dùng làm
luận điểm xuất phát để nghiên cứu khái niệm “lối sống”. Các định nghĩa này
có thể quy về ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: xem xét lối sống như một khái niệm bao quát nhiều yếu
tố liên quan đến cuộc sống của con người và toàn xã hội: điều kiện sống, các
hình thức hoạt động, các quan hệ xã hội, các hình thức thỏa mãn nhu cầu, thế
giới quan.
Nhóm thứ hai: mô tả lối sống dựa vào các yếu tố bên trong, vốn có của
chủ thể, hoặc xem lối sống là sự phản ánh của nhu cầu con người, cách thức
thỏa mãn những nhu cầu đó, nghĩa là chất lượng của sự phồn vinh của con
người, hoặc coi lối sống là nếp nghĩ, hành vi, nếp sống nội tâm của con người.


14
Nhóm thứ ba: quan niệm lối sống như một phạm trù xã hội học chỉ sự

thống nhất hữu cơ giữa các hình thức hoạt động sống và những điều kiện sống
quan trọng nhất của cá nhân hay nhóm xã hội.
Ba nhóm định nghĩa này ít nhiều đều có sự phiến diện. Nhóm đầu tiên bị
phê phán là mở rộng quá mức khái niệm “lối sống” và do đó đã làm mất đi
những đặc trưng của nó. Nhóm thứ hai thu hẹp lối sống vào những yếu tố bên
trong của cá nhân, loại trừ khỏi khái niệm “lối sống” những mặt khách quan,
những hoạt động quan trọng của con người như hoạt động lao động, hoạt
động chính trị. Nhóm thứ ba thì lại không chú ý đến vai trò của yếu tố chủ
quan trong lối sống.
Định nghĩa tiêu biểu và phổ biến nhất của Liên Xô có lẽ là định nghĩa
gắn lối sống với hoạt động của con người. “Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa
học” định nghĩa “lối sống xã hội chủ nghĩa” là “những hình thức hoạt động
sống của con người vốn có của chủ nghĩa xã hội, được quy định bởi điều kiện
sống của họ trong phạm vi giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản ”[30; 202].
Công trình “lối sống xã hội chủ nghĩa” do G.E. Gle-dơ-man chủ biên định
nghĩa “lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên
hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, của các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”[22; 45].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
khi bàn về khái niệm “lối sống”, thường nhấn mạnh vào tính chất xã hội chủ
nghĩa và xác định các tiêu chí của nó từ sự đối lập với lối sống tư sản.
Ở Việt Nam, khái niệm “lối sống” được xem xét với một góc nhìn tổng
hợp, trong đó có nói đến quan hệ giữa mặt chủ quan và khách quan, giữa hoạt
động sống và điều kiện sống của con người, giữa hoạt động sản xuất và những
hoạt động phi sản xuất.
Nhấn mạnh vào hoạt động sống của con người, nhóm tác giả giáo trình
“Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam” định


15

nghĩa: Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của
các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện
của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của
đời sống: trong lao động và hưởng thụ; trong quan hệ giữa người và người;
trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa[3; 190].
Xem lối sống như những quan hệ xã hội, PGS.TS. Lê Như Hoa cho
rằng: “Lối sống là tổng thể các quan hệ xã hội của con người với những hình
thức và đặc trưng tiêu biểu cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã
hội trong những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa cụ thể”[17; 10].
Trong đời sống khoa học ở nước ta, nhận thấy, có ba giai đoạn tiếp cận,
nghiên cứu vấn đề lối sống, như sau: từ năm 1970 trở về trước, lối sống được
nghiên cứu dưới góc độ triết học duy vật lịch sử; trong thập niên của thế kỷ
XX, nó là đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa
học; và hiện nay xã hội học và văn hóa học là hai hướng tiếp cận khá phổ biến
trong nghiên cứu về lối sống.
Nhìn chung các khái niệm về lối sống đều gặp nhau những điểm sau: một
là, xem lối sống là một dạng hoạt động sống của con người; hai là, hoạt động
sống này phụ thuộc chặt chẽ vào phương thức sản xuất và điều kiện sống của
con người; ba là, nó thể hiện đặc trưng riêng của từng cộng đồng người.
Nổi lên trong lối sống là hoạt động của con người. Về thực chất, đó là
cách thức con người ứng xử với tự nhiên và với xã hội để bảo tồn và phát
triển đời sống của mình. Vì vậy khái niệm lối sống bao hàm cả hai mặt chủ
quan và khách quan. Mặt khách quan là điều kiện sống của con người, trong
đó bao hàm các đặc điểm của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định mà cốt
lõi là phương thức sản xuất. Mặt chủ quan chính là ý thức của con người
trong sự lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một
thái độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Vì vậy mà PGS.TS.
Lê Như Hoa cho rằng: “Thuật ngữ lối sống có sự kết hợp biện chứng giữa yếu



16
tố vật chất và yếu tố tinh thần, gắn với phương thức sản xuất của xã hội, với
chế độ chính trị xã hội, với hình thái kinh tế - xã hội” [18; 71].
Nếu hiểu lối sống, tức phương thức sinh sống, là những hình thức hoạt
động sống của con người, thì phương thức sản xuất là một mặt, và là mặt cơ
bản của lối sống. Theo cách nói của C. Mác và Ph. Ăngghen phương thức mà
con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt không chỉ đơn thuần là sự “tái
sản xuất ra sự tồn tại thể xác” của họ, mà đó còn là một “hình thức nhất định
của sự biểu hiện đời sống” của họ, một “phương thức sinh sống nhất định”
của họ. Cái cơ bản trong sự biểu hiện đời sống của con người tức trong lối
sống, là hoạt động sản xuất với hai mối quan hệ: 1- Quan hệ vật chất, thực
tiễn với tự nhiên được xác định bởi trình độ của lực lượng sản xuất; 2- Quan
hệ xã hội mà cơ sở là tính chất của quan hệ sản xuất. Vì vậy, xét đến cùng, lối
sống do phương thức sản xuất quyết định.
Lối sống do phương thức sản xuất quy định. Tuy nhiên trong cùng một
phương thức sản xuất, các giai cấp khác nhau có lối sống khác nhau. Theo
“Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học”, nguyên nhân của sự khác biệt ấy
(thậm chí đối lập), là cơ sở kinh tế. “Lối sống xã hội chủ nghĩa đối lập trực
tiếp với lối sống tư sản, điều đó là do sự khác nhau căn bản về cơ sở kinh tế”
[30; 202]. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sản sinh sự bóc lột, sự phân chia
xã hội thành những giai cấp đối kháng với những lối sống khác nhau; trong xã
hội tư sản, đó là tình trạng cạnh tranh ác liệt giữa người với người. Chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa từng bước dược thiết lập sẽ là cơ sở của lối sống hài hòa
trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội.
Ngoài phương thức sản xuất ra, điều kiện sinh hoạt cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến lối sống. Theo các tác giả của công trình “Lối sống xã hội chủ
nghĩa”, trên cơ sở tồn tại của các điều kiện vật chất nhất định mà còn người nảy
sinh các nhu cầu và những hứng thú khách quan. Trong những mức độ khác
nhau, chúng được phản ánh vào ý thức của họ như là những động cơ tinh thần



17
của hành động. Khi hành động theo những động cơ này, con người thỏa mãn
nhu cầu của mình, đồng thời thay đổi cả điều kiện sống và chính bản thân.
Tuy nhiên, điều kiện sinh hoạt, theo nghĩa rộng là toàn bộ môi trường xã
hội. Vì vậy, nếu coi lối sống bao hàm trong nó toàn bộ điều kiện sinh hoạt của
con người tức là đã đồng nhất lối sống với xã hội nói chung và loại bỏ đi tính
đặc thù của khái niệm này.
Mặt khách quan của lối sống còn thể hiện ở những chuẩn giá trị xã hội.
Chuẩn giá trị xã hội là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá, xác định và
cấu trúc theo những thang bậc nhất định như những chuẩn mực chung cho đại
đa số thành viên xã hội. Giá trị xã hội thường được xếp theo từng nhóm và
luôn mang tính lịch sử - cụ thể. Có nhiều cách phân nhóm giá trị xã hội.
UNESCO phân làm 4 nhóm: nhóm các giá trị cốt lõi (hòa bình, tự do, gia
đình), nhóm các giá trị cơ bản (sáng tạo, tình yêu, chân lý), nhóm các giá trị
có ý nghĩa (cuộc sống giàu sang và cái đẹp), nhóm các giá trị không đặc trưng
(địa vị xã hội). Những người tiếp cận theo quan điểm hệ thống – cấu trúc
phân chia thành giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị chính
trị, giá trị kinh tế. Chuẩn giá trị là nguyên tắc của khuôn mẫu ứng xử. Theo
các tác giả của “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội ”, các
chuẩn giá trị xã hội được hình thành, xác định trong quá trình cá nhân hoặc
cộng đồng gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể của các quan
hệ đó. Do đó, “các chuẩn giá trị xã hội luôn luôn đóng vai trò chuẩn mực, thái
độ bên trong của đạo đức và lối sống ở mỗi cá nhân và cộng đồng cũng như
đóng vai trò bản lề, nhất là trong quá trình chuyển hóa bảng giá trị xã hội ở
những giai đoạn biến đổi (hoặc biến động), trên những lĩnh vực cơ bản của xã
hội hay của toàn xã hội”[31; 63].
Mặt chủ quan của lối sống, như đã nói là ý thức của con người trong
việc lựa chọn cho mình một lối sống, dựa trên cơ sở của một lẽ sống, một thái
độ sống cụ thể, những mục tiêu mà con người đặt ra. Mặt chủ quan này phụ



18
thuộc rất nhiều vào nền văn hóa, vào thế giới quan, lý tưởng sống mà cá nhân
hấp thụ được. Nó làm cho lối sống trở thành tự giác, vươn đến các giá trị, làm
nên ý nghĩa của lối sống.
Chính mặt chủ quan này góp phần làm cho lối sống của cá nhân, các
tầng lớp, các giai cấp, có sự khác nhau dẫu trong cùng một phương thức sản
xuất và cùng những điều kiện sống. Từ đây mà có ý kiến cho rằng, lối sống là
cái xã hội trong cá nhân.
Lối sống được biểu hiện trong những lĩnh vực nào?
Các tác giả của công trình “Lối sống xã hội chủ nghĩa” coi những hoạt
động sau như những hoạt động chủ yếu của lối sống: 1- Lao động; 2 – Phúc
lợi; 3 - Tiêu dùng và sinh hoạt hàng ngày; 3- Sức khỏe của nhân dân; 4- Giáo
dục và văn hóa; 5 – Hoạt động chính trị xã hội.
Nếu quan điểm lối sống như một hệ thống các đặc điểm cơ bản về hoạt
động sống của con người thì rõ ràng, lao động phải là lĩnh vực đầu tiên của lối
sống. Trong bất kỳ xã hội nào, những hình thức của hoạt động sống chủ yếu
của con người đều là hoạt động lao động. Lao động như là phương thức sinh
sống. Tính chất và trình độ của lao động quy định mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên và với xã hội. Vì vậy, lối sống biểu hiện trước hết trong
lĩnh vực lao động, việc con người sử dụng thời gian lao động của mình.
Bên cạnh lao động, lối sống còn được biểu hiện ra trong những lĩnh vực
hoạt động khác của con người: sinh hoạt hàng ngày, hoạt động chính trị - xã
hội, hoạt động giáo dục, hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, trong sử
dụng thời gian rỗi, những hoạt động qua lại giữa người với người tiêu biểu
cho một xã hội nhất định, những tập quán và những quy tắc xử thế đã ăn sâu
vào đời sống hàng ngày.
Tính chất của những lĩnh vực này, từ hoạt động lao động đến hoạt động
chính trị - xã hội, quan hệ hoạt động qua lại giữa người với người, trong các

chế độ xã hội là khác nhau. Điều này góp phần làm nên sự khác nhau căn bản


19
giữa các lối sống, trong khi không loại trừ một vài nét chung, chẳng hạn trong
các hình thức tổ chức hoạt động lao động, trong các kiểu nhà ở, trong các
phương tiện thông tin liên lạc. Thật ra, những nét chung này cũng bắt đầu từ
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học kỹ thuật – những nội
dung liên quan đến cuộc cách mạng khoa học công nghệ - vốn cũng biểu hiện
khác nhau trong những xã hội khác nhau.
Như vậy, để có thể đi đến một định nghĩa về lối sống, cần phải chú ý
mấy vấn đề sau: 1 – Lối sống là một phương thức sinh sống nhất định của con
người mà mặt cơ bản của nó là phương thức sản xuất; 2- Phương thức sinh
sống ấy là kết quả của sự tác động tích cực của con người vào điều kiện sống
của mình trong mối quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh; 3 –
Lối sống là một thực thể xã hội với hệ thống những chuẩn mực xã hội của
một cộng đồng nhất định mà cá nhân phải tuân theo.
Nếu hiểu lối sống là cách thức con người bảo tồn và phát triển đời sống
trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định thì có thể thấy thực chất
của lối sống là kiểu quan hệ với nhiều cấp độ: quan hệ với tự nhiên và xã hội;
quan hệ gia đình, làng xã và tổ quốc. Tính chất của mỗi loại quan hệ trong
những điều kiện sống nhất định sẽ làm nên đặc trưng của từng lối sống: chinh
phục hay lệ thuộc, bóc lột hay bình đẳng, đóng góp hay phụ thuộc, ăn bám.
Chính những nét đặc trưng này sẽ hình thành hệ thống chuẩn mực xã hội để
lối sống vận hành theo, tạo nên sự khác biệt của lối sống của từng cộng đồng
và cá nhân.
Từ những phân tích trên, có thể đi đến một định nghĩa sau: Lối sống là
tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của cộng đồng (dân tộc, giai
cấp, nhóm xã hội) và các cá nhân, được vận hành theo những chuẩn giá trị
xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế

- xã hội nhất định.


20
Để hiểu rõ khái niệm lối sống, có thể tìm hiểu thêm mối quan hệ giữa lối
sống với các khái niệm có liên quan như: lẽ sống, nếp sống, mức sống, phong
cách sống.
“Lẽ sống” hay còn gọi là đạo lý sống, là biểu hiện quan trọng nhất của
lối sống. Đây chính là tư tưởng giải thích cho mục đích của lối sống. Lẽ sống
được xem là mặt ý thức của lối sống, phản ánh nhận thức của con người về
chính bản thân trong các mối quan hệ xã hội. Lẽ sống là mặt tự giác của lối
sống, đóng vai trò dẫn dắt, định hướng, nhằm làm cho lối sống ổn định theo
từng cá nhân, nhóm hay giai cấp, dân tộc.
“Mức” sống là một thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh giá mặt vật chất
của lối sống dựa trên chỉ số về sự đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần
của cộng đồng. Thông thường, mức sống phản ánh trình độ của nền sản xuất
vật chất trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những chỉ báo của mức
sống là hệ quả của sự phát triển của công cụ lao động, của năng suất lao động.
Xây dựng lối sống văn hóa không thể không chú ý đến việc nâng cao mức
sống cho cộng đồng. Không thể có một lối sống văn minh, lịch sử nếu nhà ở
quá chật chội, điện thiếu, nước thiếu, con người chen chúc nhau đi lại trên
những đường phố chật hẹp và dơ bẩn. Tuy nhiên, cũng không nên coi mức
sống là mặt quyết định đối với lối sống. Sống đẹp, cơ bản là không phải sống
đầy đủ mà là sống có ý nghĩa dưới sự dẫn dắt của những lẽ sống cao đẹp.
Nếp sống là mặt ổn định của lối sống. Đó là những hoạt động sống đã
trở thành thói quen, thành phong tục, tập quán, thành quy ước của cộng đồng.
Nếp sống cho thấy khả năng thích nghi và sức sáng tạo của con người trong
những điều kiện sống cụ thể. Nếp sống làm nên sự đa dạng của lối sống, giúp
duy trì những kinh nghiệm sống mà loài người đã nhận thức được. Theo GS.
Vũ Khiêu, nếp sống “là toàn bộ những thói quen được hình thành trong cuộc

sống hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất, chiến đấu,


21
trong quan hệ xã hội và trong sinh hoạt riêng tư của mỗi con người. Những
thói quen ấy còn được gọi là tập quán” [21; 135].
“Phong cách sống” là hình thức biểu hiện của lối sống thông qua hoạt
động và những quan hệ xã hội làm nên nét riêng biệt trong lối sống của các cá
nhân và các nhóm xã hội.
Như vậy, có thể thấy lối sống như một phạm trù trung tâm mà sự biểu
hiện của nó trên các mặt cụ thể đã làm thành các phạm trù khác. Mặt ý thức
của lối sống là lẽ sống, mặt ổn định của lối sống làm thành nếp sống, mặt
trình độ của lối sống làm nên mức sống, chất lượng sống, mặt riêng biệt của
lối sống làm nên phong cách sống. Từ góc nhìn này, xây dựng lối sống văn
hóa là tác động để các mặt khác nhau của lối sống đạt đến những giá trị tốt
đẹp, tạo nên hạnh phúc và khả năng phát triển của cá nhân và cộng đồng.
Cũng từ đây cho thấy, xây dựng lối sống văn hóa là phải xây dựng nhiều yếu
tố, nhiều mặt tạo nên tác động tổng hợp hình thành lối sống theo những chuẩn
mực đã định.
1.1.2. Khái niệm lối sống văn hóa
Giới nghiên cứu Xô viết trước đây sử dụng tính từ “xã hội chủ nghĩa” để
định tính cho lối sống mới, và để phân biệt chủ yếu với lối sống tư sản. Nước
ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có đầy đủ những cơ sở
của lối sống xã hội chủ nghĩa nên một thời, các nhà khoa học thường sử dụng
khái niệm “lối sống mới” hay “lối sống lành mạnh”. Khái niệm “lối sống văn
hóa” được sử dụng chính thức trong văn kiện Đại hội IX [10; 38, 114]; xây
dựng lối sống văn hóa được đề cập đến như một nhiệm vụ của mọi hoạt động
văn hóa hiện nay.
Để xác định khái niệm lối sống văn hóa cần làm rõ mối quan hệ giữa
văn hóa và lối sống.

Về một phương diện nào đó, hai khái niệm này có điểm tương đồng.
Nhà nghiên cứu Hoa Kỳ C. W. Wissler quan niệm: “Lối sống là một công xã


22
hay bộ lạc tuân thủ, gọi là văn hóa”[4; 9]. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem văn hóa
là “Sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn” [26; 431]. Như vậy, cơ sở của sáng tạo văn hóa và
cũng như của việc hình thành lối sống con người chính là lao động. Hoạt
động vốn là đặc tính của con người. Để tách khỏi giới tự nhiên, con người
phải lao động nhằm cải biến thế giới và chính bản thân. Hoạt động lao động
đã sáng tạo ra văn hóa và làm nên mặt căn bản của lối sống.
Lối sống là một biểu hiện sinh động của một nền văn hóa. Lối sống của
một dân tộc hình thành trong những điều kiện nhất định, bao gồm các điều
kiện địa lý tự nhiên, địa – văn hóa, truyền thống văn hóa, chuẩn giá trị xã hội.
Sự khác biệt của điều kiện sống đã làm nên những đặc trưng của từng lối
sống, tạo nên những sắc thái văn hóa khác nhau. Nói cách khác, những nét
đặc thù của lối sống chính là sự phản ánh môi trường vật chất, địa – văn hóa,
truyền thống dân tộc, chuẩn giá trị xã hội, đạo đức. Theo các tác giả cuốn Một
số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, lối sống có hai mặt: vật
chất và tinh thần. Mặt vật chất biểu hiện ở quan hệ lao động, trình độ và thời
gian lao động, các phương thức thỏa mãn nhu cầu vật chất, các cách thức
quản lý phúc lợi vật chất. Mặt tinh thần của lối sống dựa trên các hoạt động sản
xuất vật chất của các cá nhân và nhóm xã hội, bao gồm các kiểu nhất định của
hoạt động sáng tạo, lưu thông, trao đổi và gìn giữ các giá trị tinh thần như: các
định hướng và các thước đo giá trị, các quan hệ đạo đức và thẩm mỹ. Mặt tinh
thần của lối sống là những tiềm năng tinh thần của xã hội quy định các hoạt
động sống của con người trong các điều kiện và môi trường xã hội cụ thể.
Do quy định của điều kiện và môi trường địa – văn hóa mà có lối sống

du mục và lối sống trồng lúa nước, lối sống định cư và lối sống du canh, du
cư. Do quy định của điều kiện và môi trường kinh tế - xã hội mà có lối sống
thị dân và lối sống nông thôn, lối sống thời kinh tế thị trường và lối sống công
xã truyền thống.


23
Lối sống bao hàm cả đặc trưng nội dung lẫn hình thức. Những đặc trưng
này chính là các giá trị văn hóa của lối sống. Lối sống cố kết gia đình – làng
xã – tổ quốc, lối sống tôn trọng tình làng nghĩa xóm, lối sống nhân ái thủy
chung, đã làm nên những nét bản sắc của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa cá nhân biểu hiện ra trong lối sống. Khả năng văn hóa của cá
nhân biểu hiện ra ngay trong giao tiếp, trong hành vi ứng xử, trong các quan
hệ xã hội. Một lối sống lành mạnh, hài hòa trong các quan hệ là dấu hiệu của
một trình độ văn hóa cao. Sự lành mạnh của lối sống cộng đồng cũng là dấu
hiệu của một đời sống văn hóa tốt đẹp, nó thể hiện khả năng bảo tồn và phát
triển các giá trị văn hóa dân tộc ngay trong đời sống trước sự tấn công hàng
ngày, hàng giờ của những tác nhân ngoại lai.
Khái niệm lối sống sẽ không được tiếp cận triệt để và hệ thống nếu
không chú ý đến ý nghĩa biểu tượng từ các hành động xã hội, quá trình xã hội,
quan hệ xã hội, khuôn mẫu ứng xử. Trong khi đó, “việc biểu tượng hóa thế
giới tự nhiên và xã hội thành thế giới của những biểu trưng văn hóa trong
nhận thức, tình cảm, hành động của con người là đặc trưng của xã hội loài
người” [31; 34]. Vì vậy, có quan điểm cho rằng, lối sống xã hội nói chung đều
mang tính chất văn hóa, khái niệm lối sống theo đúng nghĩa và đầy đủ của nó
là lối sống văn hóa hay văn hóa lối sống. Thật ra, quan điểm này là quá rộng,
bởi vì trong thực tế không phải lối sống nào cũng vươn lên được tầm văn hóa.
Tóm lại, lối sống là một trong những lĩnh vực then chốt của văn hóa,nó
góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Lối sống mang những giá trị bền
vững được hình thành từ những điều kiện sống cụ thể. Mỗi một chế độ xã hội

thường có một lối sống với những đặc điểm riêng. Xây dựng các giá trị riêng
biệt của lối sống xã hội là nhằm hình thành những hình mẫu nhân cách đáp
ứng yêu cầu của thể chế chính trị. Do đó, khi chế độ xã hội chủ nghĩa được
thiết lập, yêu cầu xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng hình thành.


24
Khái niệm lối sống văn hóa ra đời là để nhấn mạnh đến yêu cầu về phẩm
chất văn hóa của việc xây dựng lối sống của cộng đồng, đặc biệt là của thế hệ
trẻ. Đó là kết quả nhận thức về thực trạng suy thoái trong lối sống, thực trạng
lối sống thiếu văn hóa của một bộ phận dân cư hiện nay. Phần nào nó cũng
nhấn mạnh đến vai trò chủ động của chủ thể trong việc tự giác xây dựng cho
mình một lối sống tốt đẹp phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Như vậy, lối sống như một phần của văn hóa nhưng trên thực tế lối sống
có văn hóa đối lập với lối sống thiếu văn hóa, kém văn hóa hay vô văn hóa.
“Văn hóa” ở đây được hiểu là giá trị, là sự hài hòa trong ứng xử để đạt đến
các chuẩn mực xã hội, đạo đức của cộng đồng. Hệ giá trị là phạm trù mang
tính dân tộc, mang nét đặc thù của những thời đại nhất định. Ở Liên Xô và các
nước Đông Âu trước đây, tính chất xã hội chủ nghĩa chính là nội dung văn
hóa của lối sống mà các quốc gia này ra sức xây dựng. Trong điều kiện hiện
nay, khi văn hóa dược nhận thức như là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, khi Đảng và
Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc thì văn hóa là giá trị mà lối sống phải đạt được.
Trong thực tế, văn hóa đã trở thành nội dung, tính chất của nhiều hoạt
động, nhiều lĩnh vực xã hội như đời sống văn hóa, khu phố văn hóa, làng văn
hóa, ứng xử có văn hóa, giao tiếp có văn hóa. Văn hóa ở đây là thước đo của
sự hài hòa, của chuẩn mực.
Có thể hiểu, lối sống văn hóa mà chúng ta xây dựng là lối sống Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được hình thành trong điều kiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như một yêu cầu về nhân cách của con
người phát triển toàn diện trong chiến lược phát huy nguồn lực con người để
xây dựng đất nước hiện nay.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của lối sống văn hóa
Với các quan niệm lối sống là một phạm trù xã hội chứ không phải về
kỹ thuật, những đặc điểm cơ bản của nó là do hệ thống các quan hệ sản xuất


25
qui định, “Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học” xác định lối sống xã hội
chủ nghĩa có những đặc điểm sau:
- Lao động thoát khỏi bóc lột và trở thành nghĩa vụ chung của mỗi
thành viên xã hội và thành phương tiện để phát triển cá nhân.
- Tuân thủ các tiêu chuẩn pháp luật.
- Chủ nghĩa tập thể (đối lập với chủ nghĩa cá nhân tư sản).
- Chủ nghĩa nhân đạo, sự quan tâm của xã hội và của tập thể đối với
con người.
- Tinh thần chủ nghĩa quốc tế.
- Tính độc đáo nhất định của lối sống của từng dân tộc.
Các tác giả công trình “Lối sống xã hội chủ nghĩa” quan niệm lối sống
xã hội chủ nghĩa có các đặc điểm như: chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa nhân đạo,
chủ nghĩa dân chủ, chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa lạc quan xã hội. Những đặc
điểm này xuyên suốt trong lao động, cuộc sống hàng ngày, văn hóa, đời sống
chính trị - xã hội và trong tất cả các hoạt động của con người trong xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Xây dựng lối sống văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay. Kết quả của sự nghiệp xây dựng nền
được biểu hiện ra ngay trong lối sống của cộng đồng. Có thể nói, xây dựng lối
sống văn hóa chính là xây dựng một lối sống Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.

Lối sống tiên tiến trước hết phải là lối sống tiến bộ, thể hiện tinh thần
yêu nước và hướng tới cộng đồng. Khái niệm lối sống tiên tiến ở đây bao hàm
hai nội dung. Một là, lối sống lành mạnh, văn minh, lịch sự, chứa đựng các
giá trị tốt đẹp mà con người đã đạt được. Hai là, lối sống được dẫn dắt bởi
một lẽ sống cao quý mà trên tất cả là lòng yêu nước, được biểu hiện thành thái
độ sống hướng tới cộng đồng, có ý thức công dân, nghiêm chỉnh chấp hành


×