Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.06 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ LÊ NA

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM KIẾN TẠO VÀO DẠY HỌC
GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 4

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc Tiểu học)
Mã số: 60140101

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Quốc Lâm

NGHỆ AN, 2014


LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu “Vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải
toán có lời văn cho học sinh lớp 4” được hoàn thành với mục đích góp phần
nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở Tiểu học.
Trước hết, tác giả luận văn xin trân trọng bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới
Tiến sĩ Phan Quốc Lâm, người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hình thành đề cương, triển
khai ý tưởng và hoàn thiện đề tài.
Tác giả trân trọng gửi lời cảm ơn tới các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ,
giảng viên Khoa Giáo dục, trường Đại học Vinh, đã nhiệt tình giảng dạy và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu các chuyên đề Cao
học.
Trân trọng cảm ơn tập thể lãnh đạo trường Tiểu học Xuân An và Trường
Tiểu học Xuân Hồng,... đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình thực


nghiệm tại cơ sở.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi thiếu sót
cần bổ sung, sửa chữa. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các
Thầy, Cô, đồng nghiệp và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 8 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Lê Na


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

TĐHT

Trình độ hiện tại


VPTGN

Vùng phát triển gần nhất

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

TH

Tiểu học

TN

Thực nghiệm

ĐC

Đối chứng

GQVĐ

Giải quyết vấn đề


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã xác định việc đầu tư cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu tư
cho sự phát triển bền vững, là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng cao
nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, công
tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức
giữ một vị trí rất quan trọng. Đây chính là yếu tố then chốt, mang tính quyết
định đưa đất nước đi lên như cha ông ta đã từng nói: “Hiền tài là nguyên khí
quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy’’.
Chương trình môn Toán ở Tiểu học về cơ bản được xây dựng trên cơ sở
các hoạt động của người học và người dạy, thể hiện quan điểm kiến tạo. Mỗi
kiến thức toán trong chương trình được thiết kế dưới dạng cung cấp thông tin
và chỉ dẫn các hoạt động học tập, nhằm làm cho người học, bằng hoạt động
của mình, dưới sự điểu khiển của giáo viên, tự xây dựng nên kiến thức cho
bản thân. Tuy nhiên, có rất nhiều giáo viên, đặc biệt là giáo viên vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở các trường Tiểu học, vì nhiều lý do, chưa
có sự nhận thức đúng đắn về quan điểm kiến tạo trong nội dung và chương
trình môn Toán, dẫn đến việc đổi mới chậm được thực hiện, trong đó có đổi
mới về phương pháp dạy - học. Hoạt động dạy - học toán của một số không ít
giáo viên còn mang tính cung cấp kiến thức, ứng dụng vào các tình huống
hơn là việc tổ chức hình thành kiến thức một cách tự nhiên, khoa học cho học
sinh, trên cơ sở đó để phát triển kiến thức cho người học. Dạy học theo lý
thuyết kiến tạo đã đáp ứng được những nhu cầu mục tiêu, mà chúng ta đưa ra.
Khi người giáo viên vận dụng lý thuyết kiến tạo và dạy học học sinh sẽ tích
cực hơn trong học tập và tư duy, học sinh tự mình chiếm lĩnh lấy kiến thức.
Phương pháp dạy thay đổi, từ chỗ lấy người dạy là trung tâm sang lấy người
học làm trung tâm của quá trình dạy - học, đòi hỏi người giáo viên phải phấn
6



đấu, rèn luyện để bước lên một tầm cao mới tiến kịp với thời đại. Phương
pháp này đòi hỏi người thấy không chỉ có kiến thức trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt về lĩnh vực mình đảm trách mà còn phải có phương pháp tổ chức việc
học cho học sinh.Người thầy phải trở thành người đạo diễn, kích thích hoạt
động cho học sinh, là “trọng tài khoa học” kết luận vấn đề do học viên trình
bày.Phải hướng dẫn cho học sinh cách tự học, tự tìm kiếm kiến thức bằng suy
nghĩ, hành động. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người thầy, học sinh sẽ tự
tìm cách chiếm lĩnh tri thức khoa học, tự giác rèn luyện, phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo. Qua phương pháp này, học sinh không chỉ tiếp
thu tri thức với chất lượng và hiệu quả cao mà còn trau dồi được cách phát
hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phương pháp khám phá chân lý, kiến thức một
cách chủ động.
Ở bậc tiểu học, học Toán thực chất là học làm toán, trong đó giải toán có
lời văn có vị trí hết sức quan trọng: Nó thể hiện rõ nét năng lực vận dụng tri
thức toán học và mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ; là một trong 6 mạch
kiến thức cần đạt được: yếu tố đại số, yếu tố số học, yếu tố đại lượng, yếu tố
hình học, yếu tố thống kê, yếu tố giải toán. Mạch kiến thức giải toán có khả
năng củng cố, hệ thống kiến thức - kỹ năng của các mạch kiến thức khác.
Từ thực tế trên cho thấy để nâng cao chất lượng đào tạo, việc đổi mới
phương pháp giảng dạy đối với các cấp đào tạo tại Việt Nam là việc làm cấp
thiết và cần tiến hành một cách đồng bộ.Đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ
cung cấp những cơ hội đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực
chất trong cuộc sống.Điều đó làm tăng khả năng mà thực ra là yêu cầu giáo
viên không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Vì vậy, vai trò mới của người
giáo viên trở thành nhân tố kích thích trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm
năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả năng tổ chức, sử dụng kiến thức
và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi
phải có những tài liệu dạy-học mới. Những tài liệu này phải gắn với các


7


phương pháp kiểm tra mới nhằm khuyến khích không chỉ khả năng nhớ mà cả
khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng tạo của học sinh.
Vì vậy chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Vận dụng quan điểm kiến
tạo vào dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4 ’’
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề xuất một số biện pháp vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải
toán có lời văn cho học sinh lớp 4, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
toán ở trường tiểu học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3. 1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học giải toán có lời văn ở lớp 4
3. 2 Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 4.
3. 3 Phạm vi nghiên cứu
Nội dung dạy học giải toán có lời văn lớp 4 tại một số trường Tiểu học ở
huyện Nghi Xuân – Tỉnh Hà Tĩnh
4. Giả thuyết khoa học.
Nếu đề xuất được các biện pháp vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy
học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4 một cách khoa học và có tính khả
thi sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở lớp 4 nói riêng và ở tiểu
học nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc vận dụng quan điểm kiến tạo vào
dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4.
5. 2. Làm rõ cơ sở thực trạng của việc vận dụng quan điểm kiến tạo vào
dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4.

5. 3. Đề xuất một số biện pháp vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học
giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4.
8


5. 4. Tiến hành thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả
của các biện pháp được đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu.
6. 1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
6. 1. 1. Phương pháp phân tích- tổng hợp lý thuyết: Thông qua các tài
liệu sách, báo, tạp chí và các tài liệu khác để phân tích và tổng hợp lý thuyết
liên quan đến đề tài nhằm thu thập thông tin cần thiết.
6. 1. 2. Phương pháp phân loại - hệ thống hóa lý thuyết: Trên cơ sở phân
tích, tập hợp hệ thống hóa lý thuyết cần thiết để làm rõ cơ sở lý luận của vấn
đề nghiên cứu.
6. 2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài nghiên cứu và kiểm chứng tính
khả thi của các biện pháp được đề xuất.
6. 2. 1. Phương pháp quan sát:
- Quan sát các tiết dạy giải toán có lời văn ở lớp 4, các trường tiểu học tại
huyện Nghi Xuân – Tỉnh Hà Tĩnh
6. 2. 2. Phương pháp điều tra:
- Nghiên cứu thực trạng dạy và học giải toán có lời văn của học sinh lớp
4 ở các trường tiểu học tại huyện Nghi Xuân – Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải
toán có lời văn cho học sinh lớp 4.
6. 2. 3. Thực nghiệm sư phạm:
Tiến hành thực nghiệm một số bài dạy theo hướng vận dụng quan điểm
kiến tạo vào dạy học giải toán có lời văn.
Nhằm kiểm tra tính hiệu quả của một số biện pháp được đề xuất

6. 3. Phương pháp thống kê toán học:
Nhằm xử lý các số liệu thu được về mặt định lượng .
7. Đóng góp mới của luận văn .

9


Đã làm rõ hơn cơ sở lí luận về quan điểm kiến tạo trong dạy học giải
toán có lời văn
Đề xuất được một số biện pháp nhằm vận dụng quan điểm kiến tạo vào
dạy học giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4
8. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận tài liệu tham khảo phụ lục luận văn có 3
chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thực trạng vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học giải
toán có lời văn cho học sinh lớp 4.
Chương 3: Một số biện pháp vận dụng quan điểm kiến tạo vào dạy học
giải toán có lời văn cho học sinh lớp

10


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1. 1. 1 Các nghiên cứu ở nước ngoài.
Có rất nhiền nghiên cứu về kiến tạo, như nghiên cứu của Piaget về cấu
trúc tâm lí của trẻ em. Lý thuyết kiến tạo là lý thuyết nền tảng được các nhà
khoa học sư phạm quan tâm nghiên cứu và được ứng dụng khá nhiều trong

giáo dục, nhằm xây dựng những phương pháp dạy học tích cực hướng vào
người học
Theo Mebrien và Brandt (1997) đã chỉ ra “Kiến tạo là một cách tiếp cận
“dạy” dựa trên nghiên cứu về việc “học” với niềm tin rằng: “Tri thức được tạo
nên bởi mỗi cá nhân người học sẽ trở nên vững chắc hơn nhiều so với việc nó
được nhận từ người khác”. Muốn nói rằng kiến tạo không phải là tự nhiên
được người ta mang đến và mình tiếp nhận tri thức đó mà mình cần phải tự
xây dựng nên tri thức của riêng mình .
Còn theo M. Bruner (1999) thì “Người học tạo nên những kiến thức của
bản than bằng cách điều khiển những ý tưởng và tiếp cận dựa trên những kiến
thức và kinh nghiệm đã có, áp dụng chúng vào những tình huống mới, hợp
thành tổng thế thống nhất giữa những kiến thức mới thu được với những kiến
thức đang tồn tại trong trí óc”
Với Brooks (1993) ông lại cho rằng “Quan điểm kiến tạo trong dạy học
khẳng định rằng học sinh phải kiến tạo nên những hiểu biết về thế giới bằng
cách tổng hợp những kinh nghiệm mới vào cái mà họ đã có trước đó". Mặc dù
cách diễn đạt có khác nhau về quan điểm kiến tạo trong dạy học nhưng cách
nhà nghiên cứu đều khẳng định rõ tầm quan trọng, vai trò chủ động, vị trí của
người học và cách thức thu nhận những tri thức cho bản than. Theo cách diễn
đạt trên ta có thể nói rằng người học không phải thu nhận kiến thức thụ động
do người khác truyền cho một cách áp đặt mà bằng cách đặt mình vào môi
trường tích cực phát hiện ra vấn đề giải quyết vấn đề bằng những kinh nghiệm
11


đã có sao cho thích ứng với những tình huống mới và xây dựng nên cách giải
quyết của bản thân sao cho hợp lý.
Cơ sở tâm lý học của lý thuyết kiến tạo là Tâm lý học phát triển của
Piaget và lý luận về “vùng phát triển gần nhất" của Vugôtxki . Hai khái niệm
quan trọng của Piaget được sử dụng trong Lý thuyết kiến tạo là “Đồng hóa

(assimi – lation ) và điều ứng (accommo – dation) .
Đồng hóa là quá trình nếu gặp một tình huống mới nhưng tương tự tri
thức đã biết thì tri thức mới này có thể được kết hợp trực tiếp vào sơ đồ nhận
thức đang tồn tại. Hay nói một cách khác, học sinh có thể dựa vào kiến thức
cũ để giải quyết tình huống mới. “Điều ứng" là quá trình khi gặp một tri thức
mới có thể hoàn toàn khác biệt với những sơ đồ nhận thức đang có thì sơ đồ
hiện có được thay đổi phù hợp với tri thức mới.
Theo Vugotski mỗi cá nhân đều có vùng phát triển gần nhất của riêng
mình thể hiện tiềm năng phát triền của cá nhân đó. Nếu các hoạt động dạy học
được tổ chức trong “Vùng phát triển gần nhất" thì sẽ đạt được hiệu quả cao .
Vugotski còn nhấn mạnh rằng, ngôn ngữ và các tương tác xã hội cũng tác
động đến việc kiến tạo nên tri thức của mỗi cá nhân.
Vậy ta có thể nói: “Lý thuyết kiến tạo của Piaget (1896 – 1980) là cơ sở
tâm lý học của nhiều hệ thống dạy học, đặc biệt là dạy học ở Tiểu học, bởi
giai đoạn đầu của sự phát triển của trẻ em nó là một điểm cơ bản để hình
thành nhân cách khi mà đứa trẻ đã lớn, nên giai đoạn đầu hình thành nhân
cách cho trẻ là một trong những việc quan trọng nhất để định hướng sự phát
triển tâm lý cho trẻ em. Nên ta có thể nêu vắn tắt các quan điểm chủ đạo
chính của lý thuyết kiến tạo như sau:
Học tập là quá trình hình thành tri thức cho mình. Có hai loại tri thức về
thuộc tính vật lý, thu được bằng các hoạt động trức tiếp với các sự vât và tri
thức về thuộc tính vật lý, thu được bằng, các hoạt động trực tiếp với các sự
vật và tri thức về tư duy, tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể
nhận thức, không phải thu được một cách thụ động từ môi trường bên ngoài.
12


Người học cần có nhu cầu và muốn tìm tòi, khám phá tri thức và tự mình
chiếm lĩnh và lĩnh hội kiến thức khám phá thế giới bên ngoài và cấu tạo lại
chúng dưới dạng các sơ đồ nhận thức, sơ đồ bao gồm các lớp các thao tác

giống nhau theo một trình tự nhất định, sơ đồ nhận thức được hình thành từ
các hành động bên ngoài và được nhập tâm. Sự phát triển nhận thức là sự phát
triển các hệ thống sơ đồ.
1.1.2 Các nghiên cứu ở trong nước.
Những nghiên cứu về quan điểm kiến tạo kiến thức trong dạy học nói
chung, dạy học Toán nói riêng được phản ánh trong các công trình của các tác
giả tiêu biểu như: Nguyễn Bá Kim; Trần Thúc Trình; Phan Trọng Ngọ,
Nguyễn Đức Hưởng, Nguyễn Hữu Châu, Trần Bá Hoành, Đỗ Tiến Đạt, Trần
Vui, Cao Thị Hà. ..
Theo tác giả Đào Tam: Động từ kiến tạo chỉ hoạt động của con người
tác động lên một đối tượng, hiện tượng, quan hệ nhằm mục đích hiểu chúng
và sử dụng chúng như những công cụ ký hiêu để xây dựng nên các đối tượng,
các hiên tượng, các quan hê mới hơn. Có nhiều quan niệm khác nhau vê dạy
học theo quan điểm kiến tạo, tuy nhiên, đứng trên quan điểm dạy học Toán
cần nhấn mạnh hai khái niêm: dạy và học.
- Học theo quan điểm kiến tạo là hoạt động của học sinh, sinh viên dựa

vào những kinh nghiêm của bản thân, huy động chúng vào quá trình tương tác
với các tình huống, tiêu hoá chúng và rút ra được điều cần hình thành. Theo
quan điểm của thuyết kiến tạo các tri thức nhất thiết là một sản phẩm của một
hoạt động nhận thức của chính con người. Bằng cách xây dựng trên các kiến
thức đã có học sinh, sinh viên có thể nắm bắt tốt hơn các khái niệm, các quy
luật đi từ nhận biết sự vật sang hiểu nó và phát hiên kiến thức mới. Kiến thức
kiến tạo được khuyến khích tư duy phê phán, nó cho phép học sinh, sinh viên
tích hợp được các khái niệm, các quy luật theo nhiều cách khác nhau. Khi đó
họ có thể trình bày khái niêm, quan hê, kiểm chứng chúng, bảo vệ và phê
phán về các khái niêm, các quan hệ được xây dựng.
13



- Dạy theo quan điểm kiến tạo là thầy không đọc bài giảng, giải thích

hoặc nỗ lực chuyển tải kiến thức toán học mà là người tạo tình huống cho học
sinh thiết lập các tình huống cho học sinh, sinh viên thiết lập các cấu trúc cần
thiết; thầy là người xác nhận kiến thức, là người thể chế hoá kiến thức cho
học sinh và sinh viên.
Theo tác giả Cao Thị Hà xác định 5 luận điểm cơ bản là nền tảng của lý
thuyết kiến tạo trong dạy học toán ở bậc THPT như sau:
- Tri thức được học sinh chủ động sáng tạo và phát hiện, chứ không phải
thụ động tiếp nhận từ môi trường bên ngoài;
- Nhận thức là một quá trình thích nghi và tổ chức lại thế giới quan của
chính mỗi người.
- Học là một quá trình mang tính xã hội trong đó học sinh dần tự hòa
mình vào hoạt động trí tuệ của những người xung quanh;
- Những tri thức mới của cá nhân nhận được từ việc điều chỉnh lại thế
giới quan của họ cần phải đáp ứng được những yêu cầu mà tự nhiên và thực
trạng xã hội đặt ra;
- Học sinh đạt được tri thức mới do chu trình:
Tri thức đã có → Dự đoán → Kiểm nghiệm (Thất bại) → Thích nghi
→Kiến thức mới.
Cùng với mạch nghiên cứu trên, tác giả Trần Anh Tuấn xác định những
điểm sau đây là nền tảng của dạy học toán theo quan điểm kiến tạo:
- Hoạt động là nguồn gốc nẩy sinh và phát triển tri thức;
- Nhận thức là quá trình thích nghi và sắp xếp lại thế giới quan của chính
người học;
- Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển. Con người nhận thức thế giới
bằng các thao tác trí tuệ để giải quyết sự mất cân bằng giữa kiến thức kỹ năng
của họ với yêu cầu mới của môi trường sống. Các thao tác trí tuệ này ở mức
độ nào cũng thực hiện sự đồng hóa và điều tiết để tạo ra một sự cân bằng;


14


- Vai trò của cá nhân và vai trò của môi trường được coi trọng trong quá
trình kiến tạo tri thức của mỗi cá nhân;
- Lý thuyết kiến tạo dựa trên cơ sở tất cả các tri thức đều phải là sản
phẩm của hoạt động nhận thức, bằng cách xây dựng tri thức mới trên những
tri thức đã được kiến tạo;
Kiến thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức, quá
trình phát triển nhận thức trước hết phụ thuộc vào sự trưởng thành chin muồi
các chức năng sinh lý của học sinh, vào sự học hỏi, tò mò tìm tòi thông qua
các tác động của môi trường bên ngoài và chính bản thân chủ thể làm cho các
yếu tố trên không tác động riêng rẽ, rời rạc mà được kết hợp với nhau trong
một thể thốn nhất trong quá trình phát triển của học sinh.
1. 2. Một số khái niệm cơ bản.
1. 2. 1 Dạy học và quan điểm dạy học giải toán có lời văn.
Quá trình dạy học là quá trình tác động của giáo viên và học sinh đến
một đối tượng chung là tri thức khoa học, chính vì điều đó người giáo viên
cần lựa chọn tri thức và cách thức tác động đến tri thức phải phù hợp với lứa
tuổi, tâm sinh lý… của các em. Việc lựa chọn tri thức cần dựa vào sách giáo
khoa làm chuẩn và dựa vào trình độ học sinh, việc lựa chọn tri thức rất quan
trọng vì nó còn liên quan đến mục tiêu và phương pháp dạy học. Còn cách
thức tác động tri thức thì người giáo viên cần truyền tải kiến thức cho học
sinh thông qua tạo tình huống có vấn đề, nêu cho học sinh những câu hỏi để
các e tư duy, tìm cách phát hiện và giải quyết vấn đề từ đó người học sinh sẽ
xây dựng kiến thức mới cho bản thân, và củng cố kiến thức cũ đã có sắn
Trong môn Toán ở tiểu học thì việc giải các bài toán có lời văn chiếm
một vị trí hết sức quan trọng . Một phần lớn thời gian học toán của học sinh
đều giành cho việc giải các bài toán. Ngoài ra kết quả học toán của học sinh
cũng đánh giá trước hết là qua các kỹ năng giải toán. Nếu bản thân các em

biết giải thành thạo các bài toán thì đó chính là cơ sở để đánh giá trình độ của
các em. Bởi vì việc giải toán giúp học sinh củng cố kiến thức tổng thể của
15


toán học và thông qua nội dung thực tế và đa dạng của toán, học sinh sẽ tiếp
nhận được kiến thức phong phú về cuộc sống, có điều kiện để rèn khả năng áp
dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống, làm tốt theo lời Bác Hồ đã dạy
“Học đi đôi với hành”
Những bài toán được giải theo yêu cầu riêng của đề bài, tạo điều kiện
cho học sinh suy nghĩ để giải đúng. Thông qua việc giải toán có lời văn sẽ
giúp các em phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và làm việc một cách khoa
học. Bởi vì khi giải toán học sinh phải tập trung chú ý vào bản chất của đề
toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, biết phân biệt cái đã cho và cái phải
tìm, phải biết phân tích đề, đặt câu hỏi cho đề bài và câu trả lời cho đề, để học
sinh tự đặt câu hỏi : bài toán cho ta biết điều gì? bài toán hỏi chúng ta điều gì?
những câu hỏi đó phải có sự gắn kết với nhau. Chính vì điều đó mà đầu óc các
em sáng suốt hơn, tính tế hơn, tư duy của các em linh hoạt hơn, các em tự
xem xét vấn đề và cố gắng tìm ra cách giải .
1. 2. 2 Quan điểm dạy học kiến tạo
Theo từ điển Tiếng Việt, “kiến tạo” là xây dựng nên. Như vậy kiến tạo là
một động từ chỉ hoạt động của con người tác động lên một đối tượng nhằm
tạo nên một đối tượng mới theo nhu cầu bản thân.
Trong tất cả các xu hướng dạy học hiện nay, dạy học theo LTKT có tiếng
nói mạnh mẽ trong giáo dục đặc biệt là trong dạy học Toán. LTKT đã và đang
là một vấn đề mang tính xã hội, được chấp nhận như là một ngôn ngữ của xã
hội. Tuy nhiên việc áp dụng LTKT trong dạy học là rất khó. Bất kỳ người GV
nào muốn dùng LTKT để “Chuyển tải kiến thức” đều có thể thất bại. Muốn
thành công trong việc sử dụng LTKT thì phải dạy theo quan điểm học sinh tự
xây dựng kiến thức cho chính mình. Việc dạy học theo LTKT, là lôi cuốn,

hấp dẫn HS, nhưng nó đòi hỏi sự nổ lực cố gắng của cả giáo viên và học sinh.
Theo nhà nghiên cứu Cobb và Steef (1983) thì giáo viên cần phải “Liên tục cố
gắng để nhìn nhận cả hành động của chính mình và của cả học sinh từ quan
điểm của học sinh”. Nếu ta thực hiện việc dạy học theo LTKT tốt thì hiệu quả
16


của việc dạy học là rất cao. [Trần Vui (2001); Using Mathematics
Investigation to Enhance Students Citical And Creative Thing king,
SEAMEO. RECSAM – Penang, Malaysia].
LTKT là lý thuyết về việc học nhằm phát huy tối đa vai trò tích cực và
chủ động của người học trong quá trình học tập.LTKT quan niệm quá trình
học toán là học trong hoạt động; học là vượt qua chướng ngại, học thông qua
sự tương tác xã hội; học thông qua hoạt động giải quyết vấn đề. Tương thích
với quan điểm này về quá trình học tập, LTKT quan niệm quá trình dạy học là
quá trình: GV chủ động tạo ra các tình huống học tập giúp HS thiết lập các tri
thức cần thiết; GV kiến tạo bầu không khí tri thức và xã hội tích cực giúp
người học tự tin vào bản thân và tích cực học tập; GV phải luôn giao cho HS
những bài tập giúp họ tái tạo cấu trúc tri thức một cách thích hợp và GV giúp
đỡ HS xác nhận tính đúng đắn của các tri thức vừa kiến tạo.
Như vậy, LTKT là một lý thuyết mang tính định hướng mà dựa vào đó
giáo viên lựa chọn và sử dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học
mang tính kiến tạo đó là: Phương pháp khám phá có hướng dẫn, học hợp tác,
phát hiện và giải quyết vấn đề. Trong quá trình dạy học, GV phải là người
biết phối hợp và sử dụng các phương pháp dạy học mang tính kiến tạo và các
phương pháp dạy học khác một cách hợp lý sao cho quá trình dạy học toán
vừa đáp ứng được yêu cầu của xã hội về phát triển toàn diện con người.
LTKT chú trọng đến vai trò nhận thức của những quá trình nhận thức nội
tại và “Cài đặt dữ liệu” của riêng từng cá nhân HS trong việc học của chính
mình. HS học tốt nhất khi các em được đặt trong một môi trường xã hội tích

cực, ở đó các em có khả năng kiến tạo cách hiểu biết riêng của chính
mình.Học hợp tác được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho HS trao đổi thảo luận
cách hiểu và cách tiếp cận vấn đề của mình.
Theo quan điểm của LTKT thì học Toán không phải là một quá trình tiếp
thu một cách kỹ lưỡng những kiến thức được đóng gói, được giáo viên truyền
đạt một cách áp đặt, mà phải được tiếp thu một cách chủ động. Nghĩa là, HS
17


phải cố gắng tự tìm tri thức cho mình thông qua việc tái tổ chức các hoạt động
của GV.Các hoạt động này được hiểu một cách rộng rãi là bao gồm những
hoạt động về nhận thức hoặc về ý tưởng.
1. 3. Một số luận điểm về dạy học theo quan điểm kiến tạo
Xuất phát từ quan điểm của J. Piaget về bản chất của quá trình nhận thức,
các vấn đề về kiến tạo trong dạy học đã thu hút ngày càng nhiều các công
trình của các nhà nghiên cứu Jean Piaget tiến hành các nghiên cứu với trẻ em
trong các thập niên 1920 và 1930 để tìm hiểu xem chúng nghĩ thế nào về thế
giới. Ông kết luận rằng trẻ em hình thành kiến thức từ kinh nghiệm, chứ
không phải từ việc thu thập kiến thức được giới thiệu cho chúng. Luận điểm
của ông cho rằng trẻ em hình thành niềm tin và hiểu biết về thế giới từ kinh
nghiệm đã đặt cơ sở cho lí thuyết học tập theo thuyết kiến tạo.
Như Piaget đã mô tả, trẻ em sắp xếp các ý nghĩ hoặc hành động thành
các cấu trúc nhận thức từ những gì chúng làm và quan sát được trong các tình
huống cụ thể ngoài môi trường. Ông gọi các cấu trúc nhận thức này là "các sơ
đồ", hoặc việc nhóm các ý nghĩ hoặc hành động tương tự.Khi trẻ em lớn lên
và trưởng thành ý nghĩa và hành động của chúng được mở rộng, điều chỉnh và
hoàn thiện. Ông sử dụng thuật ngữ " thích nghi" để chỉ quá trình trẻ em hoàn
thiện và điều chỉnh kinh nghiệm. Thích nghi có nghĩa tương tự như thuật ngữ
"học" của chúng ta, và bao gồm các quá trình "đồng hóa", "điều tiết" bổ sung
cho nhau. Thuật ngữ "đồng hóa" được Piaget mô tả là một quá trình quản lí

thông tin bao gồm cả thông tin mới, trong một sơ đồ hiện thời, trong thuật
ngữ "điều tiết": hàm ý hình thành một số sơ đồ hoàn toàn mới hoặc sửa đổi
một sơ đồ hiện thời để phù hợp với một tình huống hoặc tập hợp một số kiến
thức mới và lạ lẫm. Piaget sử dụng thuật ngữ "trạng thái cân bằng" để giải
thích rằng trẻ em cố gắng tạo cân bằng để giải thích rằng trẻ em cố gắng tạo
cân bằng giữa đồng hóa thông tin và điều tiết vào những sơ đồ hoặc cấu trúc
trí tuệ của chúng. Sử dụng kiến thức có sẵn (đồng hóa) để giúp hiểu kiến thức

18


mới tốt hơn (điều tiết), trẻ em có thể xây dựng được kiến thức và biết cách tác
động để đạt được kiến thức (chẳng hạn giải quyết vấn đề).
Như vậy trạng thái cân bằng giải thích rằng con người tích cực thiết lập
cân bằng giữa những cấu trúc nhận thức và những trải nghiệm trong môi
trường.
Ví dụ sau đây có thể giải thích rõ những gì mà ông muốn nói :
Hãy nghĩ về một em bé biết cách cầm quả dâu tây đưa vào miệng, đứa trẻ
này đã phát triển một sơ đồ mà chúng ta có thể gọi là "cầm và đưa lên miệng".
Khi đứa trẻ dạo qua một số đồ vật khác nhau nào đó, giả sử như một quả anh
đào, đứa trẻ dễ dàng học được cách áp dụng sơ đồ "cầm và đưa vào miệng"
đối với đồ vật mới này. Đây là quá trình đồng hóa – cụ thể là đồng hóa vật thể
mới và sơ đồ cũ .
Giờ đây, hãy hình dung đứa trẻ dạo qua một đồ vật khác, ví dụ như một
quả bóng dùng để chơi trên bãi biển . Sơ đồ " cầm và đưa lên miệng" đã thiết
lập lại được thử nhưng lần này nó tỏ ra không thích hợp nữa và sẽ phải được
điều chỉnh cho phù hợp với đồ vật mới .
Quan điểm quan trọng của Piaget là :
- Tương tác xã hội là quan trọng để phát triển nhận thức, do con người
bắt đầu học từ người khác rằng có những quan điểm khác nhau về cách thức

thực hiện một công việc hoặc nghĩ về cách vấn đề khác nhau trên thế giới.
- Trạng thái cân bằng trong đó các sự kiện có thể được hiểu rõ từ những
sơ đồ hiện tại là không đủ khi con người giải thích một điều mới mẻ. Một
phương pháp xây dựng mới, một kĩ thuật âm nhạc mới, một thí nghiệm khoa
học xa lạ hoặc một phương pháp giải toán mới có thể tạo ra sự rối loạn về tâm
trí đòi hỏi phải sắp xếp lại tư duy và mở rộng sơ đồ của họ (thông qua điều
tiết) để giúp hiểu rõ cái mới đó. Quá trình phá vỡ trạng thái cân bằng là cần
thiết cho việc học, song tiến bộ trong quá trình này có thể đạt được để dễ dàng
hơn thông qua sự can thiệp được lên kế hoạch kĩ lưỡng của giáo viên.

19


- Phát triển nhận thức ở trẻ em khác nhau không diễn ra theo cùng một
tốc độ. Một số trẻ em có khả năng tư duy trừu tượng và giả định từ tương đối
sớm, trong khi những trẻ khác thì lâu hơn. Giáo viên có thể hỗ trợ quá trình
phát triển nhận thức thông qua một loạt các hoạt động dạy bao gồm thảo luận,
sử dụng ví dụ cụ thể, các chiến lược giải quyết vấn đề, kinh nghiệm thực tiễn
với các đối tượng vật chất, phản hồi của giáo viên để sửa lại các điểm hiểu
sai, sử dụng tình huống thực, sự kiện có thể quan sát và kinh nghiệm để giúp
giải thích các khái niệm trừu tượng và tình huống giả định.
1. 3. 1. Lý thuyết kiến tạo về hoạt động học tập
Quá trình nhận thức của con người kể từ lúc sơ sinh đến khi tuổi già là
một quá trình học tập dưới những hình thức khác nhau. Học tập ở ngoài nhà
trường là hình thức học tập chủ yếu có tính chất tự phát, còn học tập ở trong
nhà trường là hình thức học tập tự giác, có tổ chức chặt chẽ theo một chương
trình có tính khoa học cao. Quá trình hoạt động của con người là một quá
trình hoạt động tâm sinh lý. Trong quá trình đó, hàng loạt thao tác hoạt động
liên tiếp được thực hiện, trước hết bởi các cơ quan thụ cảm (thị giác, thính
giác, xúc giác, khứu giác và vị giác)sau đó bởi các cơ quan của hệ thần kinh

trung ương (tủy sống, hệ thống dây thần kinh và bộ não). Đồng thời nhờ có
ngôn ngữ và các kí hiệu trước tiên là lời nói sau đó là chữ viết, công thức, kí
hiệu, hình vẽ mà quá trình hoạt động kiến tạo đó được kiến tạo thành hệ thống
tri thức của con người nhằm phản ánh thế giới hiện thực khách quan
Bên cạnh lý thuyết kiến tạo của Piaget ta không thể không nhắc tới lý
thuyết hoạt động. Theo Lêônchiep, hoạt động là phương thức tồn tại của cuộc
sống chủ thể. Cuộc sống là :"tổ hợp, hay nói một cách chính xác hơn là các
hoạt động thay thế nhau".
Những thành phần tâm lý cơ bản của hoạt động, bao gồm động cơ, thao
tác, nội dung và kết quả
- Động cơ là lý do thực hiện một hoạt động nào đó: Việc học tập tự giác,
tích cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức về mục tiêu đặt
20


ra và tạo được động lực bên trong thúc đẩy bản thân họ hoạt động để đạt được
những mục tiêu đó. Điều này được thực hiện trong dạy học không chỉ đơn
giản bằng việc nêu rõ mục tiêu mà quan trọng hơ còn là gợi động cơ.
- Gợi động cơ: là làm cho HS có ý thức về ý nghĩa của hoạt động và của
đối tượng hoạt động. Gợi động cơ nhằm làm cho những mục tiêu của cá nhận
HS, chứ không phải vào bài, đặt vấn đề một cách hình thức.Gợi động cơ phải
xuyên suốt quá trình dạy học. Có các loại gợi động cơ là: Gợi động cơ mở
đầu, gợi động cơ trung gian, và gợi động cơ kết thúc .
Gợi động cơ mở đầu xuất phát từ thực tế hoặc nội bộ Toán học.Nó đáp
ứng nhu cầu xóa bỏ một sự hạn chế, chính xác hóa một khái niệm, lật ngược
vấn đề, xét tương tự và khái quát hóa vấn đề.
Gợi động cơ trung gian: là gợi động cơ cho những bước trung gian hoặc
cho những hoạt động tiến hành trong những bước đó để đạt được mục tiêu.
Gợi động cơ trung gian có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển năng lực độc
lập giải quyết vấn đề. Theo những cách thông thường sau: Hướng đích là

hướng cho học sinh vào những mục tiêu đặt ra, vào hiệu quả dự kiến của
những hoạt động của họ nhằm đạt được những mục tiêu đó, trong tiết học,
GV phát biểu mục tiêu bài học một cách đễ hiểu để học sinh có thể nắm bắt
được kiến thức, quy lạ thành quen .
Gợi động cơ kết thúc: Nhiều khi, ngay từ đầu hoặc trong khi GQVĐ ta
chưa thể rõ tại sao lại học nội dung này, tiến hành hoạt động kia.Nhưng mãi
đến cuối vấn đề mới được giải đáp.Như vậy là người ta gợi động cơ kết thúc,
nhấn mạnh hiệu quả của nội dung hoặc hoạt động đó với việc GQVĐ đặt
ra.Gợi động cơ kết thúc cũng có tác dụng nâng cao tính tự giác trong hoạt
động học tập. Mặc dù nó không có tác dụng kích thích đối với nội dung đã
qua hoặc những hoạt động đã thực hiện, nhưng nó góp phần gợi động cơ thúc
đẩy hoạt động học tập nói chung và nhiều khi việc gợi động cơ kết thúc ở
trường hợp này lại là sự chuẩn bị gợi động cơ mở đầu cho trường hợp tương
tự sau này.
21


Dạy học trong hoạt động và bằng hoạt động góp phần phát huy tính tích
cực chủ động của người học.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trính nhận thức của học sinh, đó
chính là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức của học sinh.Đi
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về
thực tiến". Tuy nhiên, quá trình nhận thức của học sinh luôn có tính độc đáo
so với quá trình nhận thức của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, bởi quá
trình nhận thức của học sinh là tìm tòi, và hiểu biết trong một môi trường nhỏ
và kiến thức mà các em lĩnh hội được là do sự hiểu biết còn hạn hẹp của các
em. Người học sinh cần có nhu cầu và muốn tìm tòi thì sẽ tự chiếm lĩnh và
lĩnh hội kiến thức, nếu người giáo viên mà ép buộc và rập khuôn mang kiến
thức cho các em thì kiến thức đó tức thời học sinh biết nhưng sẽ nhanh quên,
bởi học sinh tiểu học tư duy đơn giản và nhanh nhớ chóng quên, chính vì đặc

điểm tâm sinh lý như vậy nên nếu người giáo viên không kiến tạo kiến thức
cho các em thì kiến thức mà các em nhận được sẽ nhanh bị quên, và không
thể sử dụng được lâu bền.
Người dạy cần đánh giá đúng tri thức của sách giáo khoa xác lập mối
quan hệ giữa yêu cầu của chương trình và trình độ của người học, bên cạnh đó
người giáo viên cần chế biến gia công làm sao cho nó hợp lý và phù hợp với
nhận thức và trình độ của học sinh.
Người giáo viên cần tạo ra những mâu thuẫn để từ đó gây ra được trạng
thái mất cân bằng trong ý thức người học do mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái
chưa biết để tự do nảy sinh trong đầu óc non nớt của các em sự ham muốn
tìm tòi muốn hiểu biết và nắm bắt kiến thức song điều đó có thể khiến các em
bỏ cuộc và chán nản và hiểu sai vấn đề điều đó càng nói lên vai trò quan trọng
của người giáo viên đối với quá trình tiếp nhận kiến thức của học sinh.
Muốn lĩnh hội tri thức không phải theo một cách rập khuôn và từ tác
động bên ngoài mà tri thức được tạo nên một cách tích cực của chủ thể nhận
thức.
22


Quan điểm này phù hợp với thực tiễn trong nhận thức dạy học, điều này
thể hiện rất rõ ràng. Chẳng hạn ý tưởng về quan điểm về "lớn hơn" và "nhỏ
hơn" trẻ em muốn lĩnh hội nó, và hiểu rõ cần phải nắm bắt trên các vật thật,
còn nếu là kiến thức rập khuôn thì khi có một kiểu dạng khác trẻ lại không thể
làm được và hiểu được.
Nhận thức là quá trình thích nghi và tổ chức lại thế giới quan của mỗi
người, Nhận thức không phải là khám phá một thế giới độc lập đang tồn tại
bên ngoài ý thức của chủ thể.
Theo quan điểm này nhận thức không phải là quá trình nhận thức không
phải là quá trình người học thụ động thu nhận những kiến thức chân lí do
người khác áp đặt lên, bản thân người học được đặt trong một môi trường xã

hội tích cực, thì ở đó người học có thể được vận dụng những tri thức và kỹ
năng đã có để thích nghi với môi trường mới và từ đó xây dựng nên tri thức
mới. Đây chính là quá trình nhận thức của học sinh theo quan điểm kiến tạo.
Kiến tạo và kinh nghiệm mà bản thân người học sinh nhận thức được
phải phù hợp với yêu cầu của xã hội đặt ra.
Điều nay thể hiện rằng cần định hướng cho việc dạy học theo quan điểm
kiến tạo, tránh việc để người học phát triển một cách tự do dẫn đến tình trạng
có thể kiến thức mà người học thu được đã lạc hậu hoặc là kiến thực mà
người học thu nhận được xa vời tri thức khoa học phổ thông .
Các luận điểm cơ bản của LTKT trong quá trình dạy học:
Luận điểm 1: Tri thức được tạo nên một cách tích cực bởi chủ thể nhận
thức chứ không phải tiếpthu một cách thụ động từ bên ngoài. Luận điểm này
khẳng định vai trò quyết định của chủ thể trong quá trình học tập, nó hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn trong nhận thức. Trong dạy học điều này cũng
khẳng định rất rõ ràng
Ví dụ: Khi so sánh: “ lớn – bé ”, “nhiều – ít ”, “nhanh – chậm ”, “ sáng –
tối ”, “nóng – lạnh ” được học sinh tự xây dựng từ trải nghiệm không phải nhà
trường dạy chúng làm thế nào để phân biệt, so sánh .
23


Luận điểm 2: Nhận thức là quá trình thích nghi và tổ chức lại thế giới
quan của chính mỗi người .Nhận thức không phải chỉ là khám phá một thế
giới độc lập đang tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể mà còn là sự tương tác
giữa các kinh nghiệm đã có với môi trường. Với luận điểm này nhằm trả lơì
câu hỏi “nhận thức là gì ?” – Theo đó nhận thức không phải là quá trình học
sinh thụ động nhận những chân lý do người khác áp đặt mà học sinh được đặt
trong hoàn cảnh có vấn đề, trong môi trường đó học sinh được khuyến khích
vận dụng những kĩ năng để thích nghi với những đòi hỏi của môi trường mới,
từ đó hình thành nên tri thức mới .

Luận điểm 3:Kiến thức được học sinh kiến tạo thông qua con đường
được mô tả theo sơ đổ sau:

Kiến thức và kinh nghiệm đã có là nền tảng làm nảy sinh kiến thức mới.
Quan điểm này dựa trên ý tưởng tư duy phù hợp với kiến thức đã có. Trên cơ
sở kiến thức kinh nghiệm đã có học sinh thực hiện các phán đoán nêu các giả
thuyết tiến hành hoạt đông kiểm nghiệm kết quả bằng con đường suy diễn
logic. Nếu giả thuyết, phán đoán không đúng thì phải tiến hành điều chỉnh lại
phán đoán và giả thuyết sau đó kiểm nghiệm lại để đi đến kết quả mong
muốn, dẫn đến sự thích nghi với tình huống và tạo ra kiến thức mới, thực chất
là tạo ra sơ đổ nhận thức mới cho bản thân. Theo sơ đổ này thì việc kiến tạo
kiến thức là hoạt đông đôc lập sáng tạo của học sinh.
Luận điểm 4 Kiến thức và kinh nghiệm mà cá nhân thu nhận được phải
phù hợp với yêu cầu tự nhiên và thực trạng xã hội đã đặt ra. Luận điểm này
định hướng cho việc dạy học theo quan điểm kiến tạo không bị chênh lệch
khỏi mục tiêu của giáo dục tiểu học, tránh tình trạng học sinh phát triển một
24


cách tự do dẫn đến tri thức thu được có thể sai lệch, lạc hậu hoặc xa rời
chuẩn kiến thức, không phù hợp với lứa tuổi, không phù hợp với yêu cầu của
xã hội.
- Luận điểm 5 Song song với việc hình thành kiến thức là sự hình thành

các hành đông trí tuệ. Mỗi môt kiến thức được hình thành đổng thời với việc
học sinh, sinh viên chiếm lĩnh được cách thức tạo ra kiến thức đó (tri thức về
phương pháp); nghĩa là hình thành các thao tác trí tuệ tương ứng. Điều đó nói
lên rằng mỗi khái niệm toán học, mỗi quy luật toán học cần được lý giải
tường minh trước khi tiến hành tổ chức ở học sinh, sinh viên để họ hành đông
với từng nhiệm vụ cụ thể, giải quyết từng nhiệm vụ cho tới khi hoàn thành

nhiệm vụ.
Các lí thuyết dạy và học đã thay đổi mạnh mẽ trong vòng ba hoặc bốn
thập kỉ trở lại đây để đáp ứng nhu cầu phát sinh từ một “xã hội tri thức”
Những thay đổi này được sản phẩm của khoa học hỗ trợ như khoa học nhận
thức, những nghiên cứu về bộ não và tâm trí tuệ của con người. Trong đó,
kiến tạo kiến tạo được xem là lý thuyết thành công nhất về cách thức học tập
của con người, nhờ có lý thuyết kiến tạo đã giúp cho con người xây dựng
những hiểu biết và kiến thức của mình về thế giới thông qua việc trải nghiệm
và phản ảnh những kinh nghiệm mà con người học được cũng như nhận thức
được, khi mà con người bắt gặp một sự kiện mới, chúng ta phải hòa hợp
những kinh nghiệm mới này với những ý tưởng và kinh nghiệm trước đó, có
thể thay đổi những điều mà chúng ta đã tin tưởng, hoặc có thể loại bỏ những
thông tin mới mà không phù hợp. Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta vẫn
luôn là những người chủ động tạo ra kiến thức của chính mình.
1. 3. 2 Các loại kiến tạo trong dạy học
Kiến tạo cơ bản ( Radical Constructivism )
Kiến tạo cơ bản là một quan điểm nhận thức nhấn mạng tới cách cá nhân
xây dựng tri thức cho bản thân trong quá trình học tập .

25


×