Tải bản đầy đủ (.doc) (199 trang)

Tuyển chọn xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hỗ trợ việc tự học cho học sinh phần dẫn xuất hiđrocacbon hóa học 11 nâng cao trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 199 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

TUYỂN CHỌN - XÂY DỰNG
VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP HỖ TRỢ
VIỆC TỰ HỌC CHO HỌC SINH PHẦN DẪN XUẤT
HIĐROCACBON HÓA HỌC 11 NÂNG CAO
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Chuyên ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Hóa học
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN XUÂN TRƯỜNG

NGHỆ AN - 2013


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Xuân Trường đã giao đề tài, tận tình hướng
dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
- Thầy giáo PGS.TS. Cao Cự Giác và Cô giáo TS Nguyễn Thị Bích Hiền
đã dành nhiều thời gian đọc và viết nhận xét cho luận văn.


- Phòng Đào tạo Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Hoá học cùng các thầy
giáo, cô giáo thuộc Bộ môn Lí luận và phương pháp dạy học hoá học khoa Hoá học
trường ĐH Vinh đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn tất cả những người thân trong gia đình, Ban giám hiệu
các trường THPT Nghi Lộc 2, Nghi Lộc 5, Nghi Lộc 1, Nghi Lộc 3 và Phan Đăng
Lưu, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận văn này.

Nghệ An, tháng 10 năm 2013

Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 6
6. Phạm vi nghiên cứu 7
7. Giả thuyết khoa học 7
8. Những đóng góp của đề tài 7
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỰ HỌC VÀ BÀI TẬP HÓA HỌC 8
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
1.2. BÀI TẬP HÓA HỌC 12
1.3. TỰ HỌC 16
1.4. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP VÀ VIỆC TỰ HỌC

CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 26
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 38
Chương 2 TUYỂN CHỌN - XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP HỖ
TRỢ VIỆC TỰ HỌC PHẦN DẪN XUẤT HIĐROCACBON HÓA HỌC 11 NÂNG CAO
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 39
2.1. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG 39
2.2. QUY TRÌNH XÂY DỰNG 41
2.3. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG BÀI TẬP 42
2.4. CÁC DẠNG BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI 43
2.5. HỆ THỐNG BÀI TẬP 97
2.6. SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP HỖ TRỢ TỰ HỌC PHẦN DẪN XUẤT
HIĐROCACBON HÓA HỌC 11 NÂNG CAO 139
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 141
Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 142
3.1. MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM 142
3.2. ĐỐI TƯỢNG THỰC NGHIỆM 142
3.3. TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM 143
3.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÍ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 144
3.4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 146
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 158
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 159
1. Kết luận 159
2. Kiến nghị 160
3. Hướng phát triển của đề tài 161
TÀI LIỆU THAM KHẢO 162
PHỤ LỤC 165


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thế kỉ XX đã trôi qua, nhân loại đang bước vào thế kỉ mới. Một trong những
đặc điểm cơ bản của thế kỉ này là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang phát triển
như vũ bão, thời đại của nền “kinh tế tri thức” đã và đang dẫn đến sự bùng nổ thông
tin.
Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới, của
thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra với nền giáo dục nước ta là phải
liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy học. Mục đích cuối
cùng là để từng cá nhân, mỗi cá thể, mỗi công dân tự mình có ý thức tạo được một
cuộc cách mạng học tập trong bản thân mỗi người.
Nhà trường phải giúp cho từng HS thay đổi triệt để quan niệm và phương
pháp học tập phù hợp với yêu cầu của thời đại - thời đại mà mỗi người phải học tập
suốt đời. Để học tập không ngừng, học tập suốt đời, mỗi người phải biết cách tự
học, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, tự học là một vấn đề cốt
lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với
cộng đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền
giáo dục là trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là con người. Công cuộc đổi mới
này đòi hỏi nhà trường phải tạo ra những con người có năng lực, đầy tự tin, có tính
độc lập, sáng tạo, những người có khả năng tự học, tự đánh giá, có khả năng hòa
nhập và thích nghi với cuộc sống luôn biến đổi. Nghị quyết trung ương Đảng lần
thứ 4 (khóa VII) đã xác định: “Phải khuyến khích tự học, phải áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề”.
Hiện nay, ở nước ta đang tiến hành việc đổi mới phương pháp dạy học theo
định hướng phát huy tính tích cực nhận thức của HS và bồi dưỡng phương pháp học
tập mà cốt lõi là tự học để họ tự học suốt đời. Có thể nói, dạy học chủ yếu là dạy
cách học, dạy cách tư duy. Dạy cách học chủ yếu là dạy phương pháp tự học.
Một trong những phương pháp hỗ trợ HS tự học môn hóa học ở trường
4



THPT là sử dụng HTBT. BTHH đóng vai trò vừa là nội dung vừa là phương tiện để
chuyển tải kiến thức, phát triển tư duy và kỹ năng thực hành bộ môn một cách hiệu
quả nhất. BTHH không chỉ củng cố nâng cao kiến thức, vận dụng kiến thức mà còn
là phương tiện để tìm tòi, hình thành kiến thức mới.
Bên cạnh đó, do thời gian dạy học môn hoá học trên lớp còn hạn hẹp, thời
gian ôn tập, hệ thống hoá lý thuyết về phần dẫn xuất hiđrocacbon Hóa học 11 nâng
cao và giải bài tập chưa được nhiều, không phải HS nào cũng đủ thời gian để thấu
hiểu, ghi nhớ và vận dụng những kiến thức mà GV truyền thụ ở trên lớp. Vì vậy
việc tự học ở nhà của HS là rất quan trọng và cần thiết.
Với những lí do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài: “TUYỂN CHỌN - XÂY
DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP HỖ TRỢ VIỆC TỰ HỌC CHO HỌC
SINH PHẦN DẪN XUẤT HIĐROCACBON HÓA HỌC 11 NÂNG CAO TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.

2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng HTBT hỗ trợ HS tự học phần dẫn xuất hiđrocacbon (hợp chất hữu
cơ có nhóm chức) hóa học 11 nâng cao trường THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
3.2. Xây dựng HTBT hỗ trợ HS tự học phần dẫn xuất hiđrocacbon hóa học
11 nâng cao trường THPT.
3.3. Hướng dẫn HS sử dụng HTBT đã xây dựng một cách hợp lí, hiệu quả.
3.4. TN sư phạm để đánh giá hiệu quả của HTBT đã xây dựng và các biện
pháp đã đề xuất từ đó rút ra kết luận về khả năng áp dụng đối với HTBT đã đề xuất.
3.5. Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng hệ thống BTHH hỗ trợ việc tự học cho
HS trong quá trình dạy học.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc xây dựng HTBT hỗ trợ HS tự học phần dẫn

xuất hiđrocacbon hóa học 11 nâng cao trường THPT.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu lí luận về việc hỗ trợ HS tự học.
5


- Nghiên cứu về tác dụng và cách sử dụng bài tập trong dạy học hoá học.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra bằng các phiếu câu hỏi
- Phỏng vấn.
- TN sư phạm đánh giá hiệu quả, tính khả thi của HTBT và các biện pháp hỗ
trợ HS tự học đã đề xuất.
5.3. Xử lí kết quả TN sư phạm bằng các phương pháp thống kê toán học.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung kiến thức được giới hạn trong 2 chương: “Dẫn xuất halogenAncol-Phenol” và “Anđehit-Xeton-Axit cacboxylic ” hóa học lớp 11 chương trình
nâng cao ở trường THPT.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng hợp lí, có hiệu quả HTBT hỗ trợ HS tự học phần
dẫn xuất hiđrocacbon hóa học 11 nâng cao thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy học
hóa học hiện nay ở trường THPT.
8. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa, tác dụng của BTHH trong quá trình tự học
của HS.
- Đề tài đã đề cập đến nội dung và phương pháp hỗ trợ việc tự học của HS.
- Tuyển chọn, xây dựng và sử dụng hệ thống phần dẫn xuất hiđrocacbon Hóa
học 11 nâng cao để hỗ trợ HS tự học.
- Đề xuất cách lựa chọn các dạng BTHH để hỗ trợ việc tự học của HS.
- Giúp HS rèn luyện các kĩ năng giải BTHH góp phần nâng cao chất lượng

dạy học hóa học ở trường THPT.
- Là tài liệu tham khảo cho GV và HS trong quá trình học hóa học ở trường THPT.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỰ HỌC
VÀ BÀI TẬP HÓA HỌC
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề tự học của HS - SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm ở
nhiều góc độ khác nhau.
1.1.1. Quan điểm và tư tưởng về tự học trên thế giới
Vấn đề tự học đã được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử giáo dục ở trên
thế giới. Nó vẫn còn là vấn đề nóng bỏng cho các nhà nghiên cứu giáo dục hiện tại
và tương lai bởi vì tự học có vai trò rất quan trọng, quyết định mọi sự thành công
trong học tập, là điều kiện đảm bảo cho hiệu quả, chất lượng của mọi quá trình giáo
dục, đào tạo.
• John Dewey (1859 - 1952) phát biểu "HS là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi
phương tiện giáo dục". Một loạt các phương pháp dạy học theo quan điểm, tư
tưởng này đã được đưa vào TN: "Phương pháp tích cực", "Phương pháp hợp
tác", "Phương pháp cá thể hoá" … Nói chung đây là các phương pháp mà người
học không chỉ lĩnh hội kiến thức bằng nghe thầy giảng, học thuộc mà còn từ
hoạt động tự học, tự tìm tòi lĩnh hội tri thức. GV là người trọng tài, đạo diễn
thiết kế tổ chức giúp HS biết cách làm, cách học.
• T. Makiguchi, nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật Bản, trong những năm 30 của
thế kỷ XX đã cho rằng " Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học tập
và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi HS. Giáo dục xét như là một quá trình
hướng dẫn HS tự học".
• “Tự học như thế nào” của Rubakin, dịch giả là Nguyễn Đình Côi, xuất bản 1982

đã giúp bạn đọc biết tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện của mình.
Gần đây, khá nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự học.


Cuốn “Phương pháp dạy và học hiệu quả” – Cark Rogers – một nhà giáo dục
học, nhà tâm lý học người Mỹ do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho HS câu
hỏi học cái gì và học như thế nào ? Câu hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng
được giải đáp.
7




“Hiểu biết là sức mạnh của thành công” do Klas Mellander chủ biên, các tác giả
đã đề cập đến bí ẩn của việc học, trong đó nhấn mạnh vai trò của tự học, hướng
dẫn 5 bước cần thực hiện để giúp chúng ta dễ dàng hơn trong quá trình học hỏi.

• Năm 2007, cuốn “Để luôn đạt điểm 10” của GordonW. Green Jr. do Trần Vũ
Thạch dịch đã được tái bản lần thứ 25. Với cuốn sách này, tác giả đã chỉ ra cách
kết hợp phương pháp đọc một quyển sách, phương pháp làm bài kiểm tra,
phương pháp trở thành sinh viên giỏi hơn,... với nhau thành một hệ thống để trở
thành sinh viên đạt toàn điểm 10.
• Năm 2008, cuốn “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế !” của Adam Khoo do Trần Đăng
Khoa và Uông Xuân Vy dịch đã được Nhà xuất bản Phụ nữ tái bản. Với cuốn
sách này, tác giả đã chứng tỏ được khả năng trí tuệ tiềm ẩn và sự thông minh
sáng tạo của con người vượt xa hơn những gì chúng ta nghĩ và thường được
nghe tới.
1.1.2. Quan điểm và tư tưởng về tự học trong lịch sử giáo dục Việt Nam
Ở nước ta, tự học đã có từ thời phong kiến. Truyền thống tự học là một bộ
phận trong truyền thống hiếu học của nhân dân tA. Vấn đề tự học được phát động,

nghiên cứu nghiêm túc và rộng rãi từ năm 1945, mà chủ tịch Hồ chí Minh vừa là
người khởi xướng vừa là tấm gương để mọi người noi theo. Người từng nói “còn
sống thì còn học” và “về cách học phải lấy tự học làm cốt”. Sau đó, truyền thống tự
học vẫn tiếp tục phát huy nhưng vẫn là khả năng tự học tự phát vì hồi đó chưa có
chủ trương, chính sách chăm lo việc tự học, thầy giáo cũng không có trách nhiệm
khơi dậy và phát triển năng lực tự học của HS. Nhưng thực tiễn chứng minh rằng
khả năng tự học tiềm tàng là rất dồi dào và nội lực cố gắng tìm học, tự học là nội
lực quyết định đối với sự nghiệp giáo dục.
GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về tự học ở nước tA.
Từ một GV trung học (1947), chỉ bằng con đường tự học, tự nghiên cứu ông đã trở
thành nhà toán học nổi tiếng. Không chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản, ông còn có
nhiều công trình, bài viết về khoa học giáo dục, về vấn đề tự học. Ông cho rằng
“học bao giờ cũng gắn liền với tự học, tự rèn luyện, coi trọng việc tự học, nêu cao
những tấm gương tự học thành tài”.
Trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết về tự học.
8


• Trần Anh Tuấn có bài viết: “Vấn đề tự học của HS từ góc độ đánh giá chất
lượng kỹ năng nghề nghiệp” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 5
năm 1996.
• PGS.TSKH. Thái Duy Tuyên và Trần Thị Trúc có bài viết: “Tổ chức dạy học
trên lớp để giúp sinh viên tự học” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 123 năm 2005.
• Tác giả Võ Thành Phước có bài viết: “Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tự học
của của HS THCS” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 201 năm 2008.
• PGS.TS. Đỗ Xuân Thảo và Lê Hải Yến có bài viết: “Đọc sách hiệu quả-Một
kỹ năng quan trọng để tự học thành công” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 198
năm 2008.
• Tác giả Võ Thành Phước có bài viết: “Quan niệm về tự học môn toán của HS
THCS” đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục số 32 năm 2008.

• TS. Ngô Quang Sơn có bài viết: “Thiết kế và sử dụng hiệu quả tài liệu tự học
điện tử ở các trường Cao đẳng và Đại học: Thực trạng và các biện pháp quản
lí” đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục số 43 năm 2009.
• PGS.TS. Nguyễn Văn Bản có bài viết: “Dạy phương pháp học cho HS” đăng
trên Tạp chí Khoa học giáo dục số 50 năm 2009.
• TS. Nguyễn Gia Cầu có bài viết: “Bồi dưỡng cho HS tính tích cực, chủ động
trong quá trình tự học văn” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 237 năm 2009.
Bên cạnh đó, một số cuốn sách về tự học cũng được xuất bản như:
• “Tôi tự học” –Thu Giang và Nguyễn Duy Cần đã đúc kết những kinh nghiệm
quý báu trong quá trình tự học và đưa ra 8 nguyên tắc để làm việc.


“Biển học vô bờ” – GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) và các tác giả
đưa ra những lời khuyên chung về phương pháp học tập một số môn ở
trường THPT và giúp HS trả lời câu hỏi “Học như thế nào là tốt nhất ? ”.

• Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. TSKH Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên,
NXB ĐHSP, xuất bản năm 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở
Việt Nam viết một cách có hệ thống về việc “học” và “dạy cách học”.
• Sau đó, năm 2009, NXB tổng hợp Tp.HCM xuất bản cuốn “Tự học thế nào
cho tốt” đã rút ra những kinh nghiệm, những nguyên tắc, những quy luật
giúp người học thấy được các bước đi rỏ ràng để tiến nhanh đến đích, biết
9


cách giải quyết nhiều loại khó khăn trong quá trình tự học. Hai cuốn sách
này đã thực sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và
học ở Việt Nam, đặc biệt là quá trình dạy tự học.
Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất
cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện pháp cụ thể đối với từng môn học.

1.1.3. Quan điểm và tư tưởng về tự học đối với môn hóa
Hóa học là một môn học có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi người học
phải có tư duy thích hợp, đó là năng lực quan sát, phân tích các hiện tượng TN,
năng lực khái quát, tổng hợp thành quy luật và phải có phong cách học tập độc lập
sáng tạo.
Theo PGS.TS.Trịnh Văn Biều, học không chỉ là quá trình ghi nhận, thu thập
thông tin. Học là hiểu, ghi nhớ, liên hệ và vận dụng. Nhờ liên hệ và vận dụng HS sẽ
hiểu bài sâu sắc hơn, nhớ bài lâu hơn. Trong thực tế một người có thể học theo
nhiều kiểu khác nhau nhưng dưới hình thức nào thì tự học cũng là cốt lõi của quá
trình học. Tự học đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tiếp thu tri thức và
hoàn thiện nhân cách của con người.
Theo PGS.TS. Nguyễn Xuân Trường: Để việc học đáp ứng 4 trụ cột mà
Unesco đề ra: Học để học cách học, học để làm, học để sáng tạo và học để chung
sống với người khác thì người học phải tuân theo công thức 4H: Học- Hỏi- HiểuHành và học 6 mọi: Học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi người, học trong mọi hoàn
cảnh, học bằng mọi cách, học qua mọi nội dung theo như tinh thần GS.TSKH
Nguyễn Cảnh Toàn đã nêu trong cuốn “học và dạy cách học”. “Sáu mọi” quan hệ
chặt chẽ với nhau, cái này tận dụng cái kia và là tiền đề cho cái kiA. Nói đến cái
này thì trong đó lại thấp thoáng cái kia nên dễ có cảm tưởng “trùng lặp” nhưng nếu
chỉ bớt đi một cái thì lại thấy thiếu. Mới nghe tưởng chừng như cách học “sáu mọi”
rất căng thẳng, rất nhồi nhét. Thực tế, nó rất nhẹ nhàng giống như cách học trong
câu: “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Người học chỉ cần có ý thức “học”và
phải kiên trì, bền bỉ. Vì vậy, luyện dần cách học “sáu mọi” càng sớm càng tốt và dù
muộn vẫn hơn không.
Cách học tích cực rất đa dạng, nhưng có chung một đặc trưng là khám phá và
khai phá. Nếu xét tổng quát, có 4 cách học mang lại cho ta sự khám phá và sự khai
phá tối đA. Nói một cách nôm na, dễ hiểu, đó là “4 bất kỳ”:
10


(1) Học bất kỳ lúc nào

Lúc đang giờ thầy dạy, đang thời gian ôn thi, học là đương nhiên. Người tích
cực học cả lúc giao tiếp, lúc dạo chơi, lúc ngắm trời, … Đó là những lúc được học
những bài học không tên, vô cùng tự nhiên và dễ dàng thấm thía.
(2) Học bất kỳ nơi nào
Tại lớp, tại nhà, trên Internet, chưa đủ và bị chật hẹp bởi nhiều không gian
“ảo”. Cần mở rộng không gian thật qua những chốn thiên nhiên và xã hội, như học
ở ngoài trời, học trong công xưởng, chỗ bán hàng, nơi triển lãm, …
(3) Học bất kỳ người nào
Không chỉ học ở người thầy chính diện, còn học ở “người thầy” phản diện.
Học ở bạn thân và cả người mình không thích, để rút tỉa kinh nghiệm sống.
(4) Học bất kỳ nguồn nào
Không chỉ trong sách vở, trên màn hình, còn có rất nhiều nguồn phong phú và
bổ ích không kém. Đó là những kênh thông tin từ báo chí, từ du khảo, từ giao lưu,
… Bốn cách học “bất kỳ” ấy cần được kết hợp liên hoàn. Chúng sẽ giúp ta phát
triển trí tuệ và mang lại hiệu quả cao, cả khi học tập mọi bộ môn và khi làm việc
trong mọi nghề.
1.2. BÀI TẬP HÓA HỌC
Thực tiễn ở trường phổ thông, bài tập giữ vai trò rất quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo. Bài tập vừa là mục đích, vừa là nội dung, vừa là phương
pháp dạy học hiệu quả. Bài tập cung cấp cho HS cả kiến thức, con đường giành lấy
kiến thức và cả niềm vui sướng của sự phát hiện - tìm ra đáp số - một trạng thái hưng
phấn - hứng thú nhận thức - một yếu tố tâm lý góp phần rất quan trọng trong việc nâng
cao tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn của con người, điều này đặc biệt được chú ý
trong nhà trường của các nước phát triển.
1.2.1. Hoạt động của HS trong quá trình tìm kiếm lời giải cho BTHH
1.2.1.1. Các giai đoạn của quá trình giải BTHH
Bao gồm 4 giai đoạn cơ bản như sau:
a) Nghiên cứu đầu bài
+ Đọc kỹ đầu bài.
+ Phân tích các điều kiện và yêu cầu của đề bài (nên tóm tắt dưới dạng sơ đồ

cho dễ sử dụng).
11


+ Chuyển các giả thiết đã cho về các giả thiết cơ bản.
+ Viết PTHH của các pư có thể xảy ra.
b) Xây dựng tiến trình luận giải
Thực chất là đi tìm con đường đi tư cái cần tìm đến cái đã cho. Bằng cách xét
một vài các bài toán phụ liên quan. Tính logic của bài toán có chặt chẽ hay không là
ở giai đoạn này. Nếu GV biết rèn luyện cho HS tự xây dựng cho mình một tiến trình
luận giải tốt, tức là GV đã dạy cho HS bằng bài tập. Thông qua đó HS không chỉ
nắm vững kiến thức, biết cách giải mà còn có được một cách thức suy luận, lập luận
để giải bất kỳ một bài tập nào khác. Điều này được thông qua một số dạng câu hỏi
như sau (GV gợi ý sau đó tập dần cho HS tự đặt câu hỏi).
c) Thực hiện tiến trình giải
Quá trình này ngược với quá trình giải, mà thực chất là trình bày lời giải một
cách tường minh từ giả thiết đến cái cần tìm. Với các bài tập định lượng, phần lớn là
đặt ẩn số, dựa vào mối tương quan giữa các ẩn số để lập phương trình, giải phương
trình hay hệ phương trình và biện luận kết quả (nếu cần).
d) Đánh giá việc giải
Bằng cách khảo sát lời giải, kiểm tra lại toàn bộ quá trình giải. Có thể đi
đến kết quả bằng cách khác không? tối ưu hơn không ? tính đặc biệt của bài toán
là gì ?,... Trên thực tế ngay cả với những HS giỏi, sau khi tìm ra cách giải và trình
bày lập luận của mình một cách sáng sủa, cũng xem như việc giải đã kết thúc. Như
vậy chúng ta đã bỏ mất một giai đoạn quan trọng và rất bổ ích cho việc học hỏi.
Việc nhìn lại cách giải, khảo sát, phân tích kết quả và con đường đã đi, HS có thể
củng cố kiến thức và phát triển khả năng giải bài tập của mình. Người GV phải
hiểu và làm cho HS hiểu: không có một bài tập nào hoàn toàn kết thúc, bao giờ
cũng còn lại một cái gì để suy nghĩ. Nếu có đầy đủ kiên nhẫn và chịu khó suy nghĩ
thì có thể hoàn thiện cách giải và trong mọi trường hợp, bao giờ cũng hiểu được

cách giải sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, việc vận dụng các giai đoạn trên vào hướng dẫn HS giải một
BTHH sao cho hiệu quả còn phụ thuộc nhiều vào sự khéo léo, linh hoạt của người
GV. Việc đặt câu hỏi như thế nào, sử dụng phương pháp dạy học nào và tổ chức các
hoạt động của HS như thế nào để HS thực hiện tốt quá trình giải (đặc biệt là giai
12


đoạn luận giải) đồng thời nắm chắc cách giải của bài tập để có thể vận dụng vào các
bài tập tiếp theo thì chưa được đề cập.
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa nắm vững kiến thức và giải BTHH
- Theo lý luận dạy học, kiến thức được hiểu là kết quả quá trình nhận thức
bao gồm “một tập hợp nhiều mặt về chất lượng và số lượng của các biểu tượng và
khái niệm lĩnh hội được, giữ lại trong trí nhớ và được tái tạo lại khi có những đòi
hỏi tương ứng”.
- Những kiến thức được nắm một cách tự giác, sâu sắc do có tích luỹ thêm
kỹ năng sẽ trở thành công cụ tư duy của HS.
- Theo M.A Đanilôp “ Kỹ năng là khả năng của con người biết sử dụng có
mục đích và sáng tạo những kiến thức và kỹ xảo của mình trong quá trình hoạt động
lý thuyết cũng như thực tiễn. Kỹ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức, dựa trên
kiến thức. Kỹ năng chính là kiến thức trong hành động. Còn kỹ xảo là hành động
mà những hợp thành của nó do luyện tập mà trở thành tự động hoá. Kỹ xảo là mức
độ cao của sự nắm vững kỹ năng. Nếu như kỹ năng đòi hỏi ở mức độ nhiều, ít sự tự
kiểm tra, sự tự giác, tỉ mỉ thì kỹ xảo là hành động đã được tự động hoá, trong đó sự
tự kiểm tra, tự giác xảy ra chớp nhoáng và các thao tác được thực hiện rất nhanh,
như một tổng thể, dễ dàng và nhanh chóng.
- Sự nắm vững kiến thức có thể được phân biệt ở 3 mức độ: Biết, hiểu và vận
dụng được.
+ Biết một kiến thức nào đó nghĩa là nhận ra nó, phân biệt nó với các kiến
thức khác, kể lại một nội hàm của nó một cách chính xác. Đây là mức độ tối thiểu

mà HS cần đạt được trong giờ học tập.
+ Hiểu một kiến thức là gắn kiến thức ấy vào một kiến thức đã biết đưa được
nó vào trong hệ thống kinh nghiệm của bản thân. Nói cách khác, hiểu một kiến thức
là nêu đúng ngoại hàm và nội diên của nó, xác lập được những quan hệ giữa nó và
hệ thống kiến thức và vận dụng được trực tiếp kiến thức ấy vào những tình huống
quen thuộc dẫn đến có khả năng vận dụng nó một cách linh hoạt và sáng tạo.
+ Vận dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn, tức là phải tìm
được kiến thức thích hợp trong vốn kiến thức đã có để giải quyết một nhiệm vụ
mới. Thông qua vận dụng kiến thức đã được nắm vững một cách thực sự, sâu sắc
13


hơn càng làm cho quá trình nắm vững kiến thức một cách tự giác, sáng tạo, làm cho
mối quan hệ giữa lý thuyết và thực tiễn càng sâu sắc, gần gũi. Mặt khác, trong khi
vận dụng kiến thức, các thao tác tư duy được trau dồi, một số kỹ năng kỹ xảo được
hình thành và củng cố, hứng thú học tập của HS được nâng cao.
- Để đảm bảo cho HS nắm vững được kiến thức hoá học một cách chắc chắn
cần phải hình thành cho họ kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức thông qua nhiều
hình thức tập luyện khác nhau. Trong đó, việc giải bài tập một cách có hệ thống từ
dễ đến khó là một hình thức rèn luyện phổ biến được tiến hành nhiều nhất. Theo
nghĩa rộng, quá trình học tập là quá trình liên tiếp giải các bài tập. Vì vậy, kiến thức
sẽ được nắm vững hoàn toàn nếu như họ tự lực, tích cực vận dụng linh hoạt, dùng
kiến thức ấy để giải quyết các bài toán khác nhau. Ở đây, chúng ta thấy rõ quan hệ
biện chứng giữa nắm vững và vận dụng kiến thức trong quá trình nhận thức của HS:
Nắm vững kiến thức

Vận dụng kiến thức

1.2.2. Xu hướng phát triển của BTHH
Thực tế giáo dục hiện nay cho thấy có rất nhiều BTHH còn quá nặng về cách

giải, về thuật toán trong khi đó các kiến thức về hóa học thì ít và không gắn với thực
tế. Khi giải những bài toán này thì mất rất nhiều thời gian, trong khi đó kiến thức về
hóa học lĩnh hội được từ bài toán đó thì không được bao nhiêu, còn hạn chế khả
năng vận dụng các kiến thức hóa học mà HS được học vào đó. Những bài tập này
nhiều khi làm cho các HS học trung bình dễ chán nản, thậm chí là cả những HS khá,
giỏi nhiều khi cũng như vậy. Vì bài tập này đòi hỏi quá nhiều thời gian, đôi khi nó
quá khó so với trình độ hiện có của HS.
Theo định hướng xây dựng SGK mới của Bộ giáo dục và đào tạo (2002),
quan điểm thực tiễn và đặc thù của bộ môn hóa học cần được hiểu như sau:
- Nội dung hóa học phải có tính chất gắn liền với thực tiễn đời sống, sản
xuất, xã hội.
- Nội dung hóa học gắn với thực hành thí nghiệm hóa học.
- BTHH phải có nội dung phù hợp.
Theo quan điểm đó thì xu hướng phát triển chung của BTHH hiện nay là:
- Nội dung bài tập phải ngắn gọn, súc tích không nặng về tính toán mà tập
trung vào rèn luyện và phát triển các kĩ năng cho HS, các năng lực tư duy của HS.
14


- BTHH phải chú ý tới việc rèn luyện các kĩ năng, thao tác làm thí nghiệm.
- BTHH phải chú ý tới việc mở rộng kiến thức và có sự liên hệ với thực tiễn,
có sự ứng dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Các BTHH định lượng được xây dựng trên cơ sở không phức tạp hóa bởi
các thuật toán mà chú trọng tới các phép tính được sử dụng nhiều trong hóa học.
- Cần sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan, chuyển các bài tập tự luận,
tính toán sang bài tập trắc nghiệm khách quan.
- Xây dựng các bài tập về bảo vệ môi trường.
- Đa dang hoá các loại bài tập như: Bài tập bằng hình vẽ, bài tập vẽ đồ thị, sơ
đồ, lắp dụng cụ thí nghiệm.
Như vậy xu hướng phát triển của BTHH hiện nay là tăng cường khả năng tư

duy của HS ở cả 3 phương diện: lí thuyết, thực hành và ứng dụng. Những câu hỏi có
tính chất lí thuyết học thuộc sẽ giảm dần thay vào đó là những bài tập có tính chất
rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy của HS, phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo, độc
lập của HS.
1.3. TỰ HỌC
1.3.1. Khái niệm tự học
- Theo GS. TSKH Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,...) và có
khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động
cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có
chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu
biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Từ quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như
sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh
tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình
nhằm đạt được mục đích nhất định.
1.3.2. Các hình thức tự học
Theo Lí luận dạy học, tự học có 3 hình thức:
- Tự học không có hướng dẫn: Người học tự tìm lấy tài liệu để đọc, hiểu, vận
dụng các kiến thức trong đó.
15


- Tự học có hướng dẫn: Có GV ở xa hướng dẫn người học bằng tài liệu hoặc
bằng các phương tiện thông tin khác.
- Tự học có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết
trong ngày, trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học.
Theo tài liệu của Khoa y sinh học - Trường Đại học TDTT Bắc Ninh, hoạt
động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:

- Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không
có sách và sự hướng dẫn của GV
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của quá
trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây
thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này phải được dựa trên nền
tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một
vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới trình độ tự học này người học không thầy,
không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động
của mình.
- Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có GV bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách
qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người
phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa
thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại dưới dạng
phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
- Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau
đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của GV
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất
xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ
thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá
trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa nội lực và
16


Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy nội
lực phát triển.

Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng
dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để
hoàn những yêu cầu do GV đề rA. Tự học của người học theo hình thức này liên
quan trực tiếp với yêu cầu của GV, được GV định hướng về nội dung, phương pháp
tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự
học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của GV và
quá trình tự học của sinh viên.
Theo GS. TSKH Nguyễn Cảnh Toàn, khi đã có hệ thống SGK thì việc tự học
có thể diễn ra theo 3 cách sau
- Có SGK rồi người học tự đọc lấy mà hiểu, mà thấm các kiến thức trong sách,
qua việc hiểu mà tự rút ra kinh nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách (như thiếu
kiên trì, thiếu tư tưởng tiến công, dễ thỏa mãn,...). đó là tự học ở mức cao.
- Có SGK và có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn tự học bằng tài liệu
hoặc các phương tiện thông tin viễn thông khác. Hướng dẫn tự học chủ yếu là
hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn tự phê bình về tính
cách trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Đó là tự học có hướng dẫn.
- Có sách và có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, trong tuần. Bằng những
hình thức thông tin trực tiếp không qua máy móc hoặc ít nhiều có sự hỗ trợ của máy
móc đặt ngay tại lớp. Thầy làm việc hướng dẫn như ở trường hợp 2. Đó là học giáp
mặt trên lớp và về nhà tự học có hướng dẫn.
Khách quan mà xét thì thuận lợi đối với người học tăng dần lên từ cách 1 đến
cách 3. Nhưng sự vật rất biện chứng, khó khăn và thuận lợi có thể chuyển hóa lẫn
nhau. Theo cách 1 thì người học gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi gặp chỗ không
hiểu không biết hỏi ai, phải lúng túng loay hoay mất nhiều thì giờ. Nhưng những
lúng túng, những loay hoay đó thật đáng quý xét về phương diện chúng đòi hỏi
người học phải phát huy nội lực cao và do đó nội lực phát triển mạnh. Cách thứ 3 có
nhiều thuận lợi nhất nhưng thuận lợi đó có thể biến thành khó khăn nếu thầy không
17



cảnh giác với việc làm thay trò (những việc mà trò tự làm được) và trò không cảnh
giác với việc ỷ lại vào thầy (gặp khó khăn 1 chút là hỏi thầy ngay).
Theo , tự học có các hình thức sau:
- Tự học hoàn toàn (không có GV): thông qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế,
học kinh nghiệm của người khác. HS gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến
thức, HS khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không tự đánh giá được kết quả tự
học của mình... Từ đó HS dễ chán nản và không tiếp tục tự học.
- Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: thí dụ như học bài hay
làm bài tập ở nhà (khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của HS phổ
thông. Để giúp HS có thể tự học ở nhà, GV cần tăng cường kiểm tra, đánh giá kết
quả học bài, làm bài tập ở nhà của họ.
- Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): HS được nghe GV giảng
giải minh họa, nhưng không được tiếp xúc với GV, không được hỏi han, không
nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Với hình thức tự học này, HS cũng không
đánh giá được kết quả học tập của mình.
- Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách
xây dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn
cách tra cứu, bổ sung, làm lại cho đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần mềm
trên máy tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học HS cũng có thể gặp khó khăn và
không biết hỏi ai.
- Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của GV
ở lớp: Với hình thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu HS vẫn sử dụng
SGK hóa học như hiện nay thì họ cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự học vì thiếu
sự hướng dẫn về phương pháp học.
- Tự học theo tài liệu hướng dẫn và có sự giúp đỡ trực tiếp một phần của GV
gọi tắt là "tự học có hướng dẫn".
Ngoài ra, theo quan điểm của Nguyễn Văn Khải, Phan Thị Xuyến thì việc
hướng dẫn người học làm việc với SGK để hình thành năng lực tự học có 3 giai

đoạn cơ bản sau:
- Hướng dẫn HS làm việc với SGK và trả lời câu hỏi ở nhà trước khi học bài.
- Hướng dẫn HS làm việc với SGK trong giờ học trên lớp.
18


- Làm việc với SGK sau giờ học [tự học của sinh viên, tr.100].
Từ những quan điểm về các hình thức tự học nêu trên, chúng tôi đi đến phân
loại các hình thức tự học như sau: tự học hoàn toàn (không có thầy hướng dẫn), tự
học có hướng dẫn thì chia thành 2 dạng:
- Có hướng dẫn nhưng không giáp mặt: Có GV ở xa hướng dẫn người học
bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin khác.
- Có hướng dẫn trực tiếp: Có tài liệu và giáp mặt với GV một số tiết trong
ngày, trong tuần, được thầy hướng dẫn giảng giải sau đó về nhà tự học.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì việc tự học có thể diễn ra theo 2 cách sau:
* Tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV
- Tự học hoàn toàn (không có GV): thông qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế,
học kinh nghiệm của người khác. HS gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến
thức, HS khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không tự đánh giá được kết quả tự
học của mình,... Từ đó HS dễ chán nản và không tiếp tục tự học.
- Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: thí dụ như học bài hay
làm bài tập ở nhà (khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của HS phổ
thông. Để giúp HS có thể tự học ở nhà, GV cần tăng cường kiểm tra, đánh giá kết
quả học bài, làm bài tập ở nhà của họ.
- Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): HS được nghe GV giảng
giải minh họa, nhưng không được tiếp xúc với GV, không được hỏi han, không
nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Với hình thức tự học này, HS cũng không
đánh giá được kết quả học tập của mình.
- Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách
xây dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn

cách tra cứu, bổ sung, làm lại cho đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần mềm
trên máy tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học HS cũng có thể gặp khó khăn và
không biết hỏi ai.
- Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của GV
ở lớp: Với hình thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu HS vẫn sử dụng
SGK hóa học như hiện nay thì họ cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự học vì thiếu
sự hướng dẫn về phương pháp học.
19


* Tự học có hướng dẫn
Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục đích,
nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học có hướng dẫn vừa phải đảm
bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận
thức của HS.
Cần hiểu mối quan hệ giữa dạy và tự học là quan hệ giữa tác động bên
ngoài và hoạt động bên trong. Tác động dạy của GV là bên ngoài hỗ trợ cho HS tự
phát triển, chỉ có tự học của HS mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân HS. Hình thức tự học có hướng dẫn là hướng dẫn để HS tự học. Trong tự học
có hướng dẫn, HS nhận được sự hướng dẫn từ hai nguồn: từ tài liệu hướng dẫn và
trực tiếp từ GV.
Nguồn hướng dẫn qua tài liệu: Tài liệu SGK Hóa học thường chỉ trình bày
kiến thức mà không có những chỉ dẫn về phương pháp hoạt động để dẫn đến kiến
thức, để hình thành kĩ năng. Bởi vậy HS rất bị động, đọc đến dòng nào trong SGK
thì biết đến dòng ấy không hiểu phương hướng bước đi kế hoạch như thế nào và sau
khi học xong cũng không thể tự rút ra được điều gì về phương pháp làm việc để vận
dụng cho các bài sau. Để khắc phục tình trạng đó tài liệu hướng dẫn tự học ngoài
việc trình bày nội dung kiến thức, còn hướng dẫn cả cách thức hoạt động để phát
hiện vấn đề, thu thập thông tin, xử lí thông tin, rút ra kết luận, kiểm tra và đánh giá
kết quả...

Nguồn hướng dẫn trực tiếp của GV qua các giờ lên lớp: Hiện nay theo quy
đinh của Bộ Giáo dục đào tạo, môn Hoá học trong các trường THPT có thời gian từ
2,5- 3 tiết/ tuần, thời gian đó nếu để giảng giải kiến thức thì quá ít và sẽ phiến diện
nếu để HS hoàn toàn tự học thì cũng không được. Chúng tôi cho rằng có thể tận
dụng thời gian tiếp xúc giữa GV và HS để GV tổ chức, hướng dẫn và rèn luyện cho
HS những kĩ năng tự học cụ thể. Rất nhiều HS từ trước đến nay vẫn học tập một
cách thụ động, ghi chép học thuộc, áp dụng máy móc, chỉ dựa vào lời giảng của
GV, hầu như không có thói quen tự học, thậm chí đọc xong một đoạn trong SGK,
không thể tự tóm tắt được nội dung chính, đặc biệt là không thể rút ra phương pháp
chung để thực hiện một loại hoạt động nào đó. Rèn luyện kĩ năng tự học cho HS là
một quá trình lâu dài phức tạp và luôn luôn được củng cố, nâng cao và bổ sung
20


thêm, bởi vậy tốt nhất là nên dành thời gian tiếp xúc giữa GV và HS ở trên lớp để
thực hiện công việc đó.
Hoạt động tự học của HS có nhiều khâu, nhiều bước, được tiến hành thông
qua các hoạt động học tập của chính bản thân họ. Đây là quá trình tự giác, tích cực,
tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính mình hướng tới
những mục đích nhất định. Vì vậy, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt
động học của HS chuyển từ trạng thái bị động sang chủ động. HS biết tự sắp xếp,
bố trí các công việc sẽ tiến hành trong thời gian tự học, biết huy động các điều kiện,
phương tiện cần thiết để hoàn thành từng công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết
quả hoạt động tự học của chính mình.
Như vậy khái niệm tự học ở đây được hiểu là hoạt động tự lực của HS để chiếm
lĩnh tri thức khoa học đã được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình và
SGK với sự hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của GV thông qua các phương tiện học
tập như tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu tra cứu, giáo án điện tử,...
HS không dùng SGK phổ thông mà sử dụng tài liệu viết riêng cho họ tự học.
Tài liệu tự học có hướng dẫn cung cấp cho HS nội dung kiến thức và phương pháp

học nội dung kiến thức đó.
1.3.3. Chu trình tự học của HS
Chu trình tự học của HS là một chu trình 3 thời:
(1)
Tự nghiên cứu

- Tự nghiên cứu
- Tự thể hiện
- Tự kiểm tra, tự điều chỉnh

(3)
Tự kiểm tra,
Tự điểu chỉnh

Tự học

(2)
Tự thể hiện

Chu trình tự học

Thời (1): Tự nghiên cứu

Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định
hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ mới đối với người học) và tạo
ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân.
Thời (2): Tự thể hiện
Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự sắm vai trong các
tình huống, vấn đề, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu
21



của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao đổi, đối thoại, giao tiếp với các bạn và
thầy, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học.
Thời (3): Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác, trao đổi với các bạn và thầy, sau khi
thầy kết luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa
sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học (tri thức).
1.3.4. Vai trò của tự học
Theo PGS.TS. Trịnh Văn Biều, tự học có các vai trò sau:
- Tự học có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự thành đạt của mỗi người.
“Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền
cho, một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tìm lấy’- Gibbon
Chính vì vậy ông thầy hay nhất là ông thầy không lo nhồi nhét kiến thức mà
lo truyền dạy phương pháp tự học cho HS.
- Tự học là con đường tự khẳng định của mỗi người.
- Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người.
- Tự học khắc phục nghịch lí: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì giới hạn.
- Tự học góp phần dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục một cách hiệu quả nhằm
phát huy, tận dụng tiềm năng to lớn của mỗi thành viên trong cộng đồng.
Theo GS. TSKH Nguyễn Cảnh Toàn:
- Cốt lõi của việc học cũng chính là tự học. Như vậy tự học chính là con
đường quan trọng nhất giúp người học chiếm lĩnh được tri thức, thành đạt trong
học vấn.
- “Tự học không có nghĩa là hạ thấp vai trò của người thầy: “Không thầy đố
mày làm nên”. Nhưng “mày” chỉ làm nên nếu “thầy” biết cách giúp “mày” phát
triển khả năng tự học. Tự học không chỉ là vấn đề trí dục mà còn là vấn đề đức dục
và thể dục. Chỉ có tự học thì mới học được suốt đời, học một cách chủ động, giảm
đến mức thấp nhất giá thành đào tạo.
PGS.TS Hoàng Anh, PGS.TS. Nguyễn Thị Châu đã nêu vai trò của tự học

thành mấy điểm như sau [tự học của SV, tr.125-126]:
- Tự học là phương thức tạo ra chất lượng thực sự lâu bền, là điều kiện quyết
định trực tiếp đến chất lượng học tập của người học.
22


- Chỉ có tự học mới giúp người học thông hiểu, bổ sung, hoàn thiện vào vốn
tri thức và vốn kinh nghiệm của mình, giúp họ vững vàng hơn trong học tập và công
tác sau này.
- Tự học còn là cơ sở cho tính tích cực nhận thức của người học. Tự học sẽ
rèn luyện cho người học đức kiên trì, lòng dũng cảm vượt khó, tính tự lực, chủ động
trong công việc.
- Tự học còn giúp người học khắc phực được những nét tính cách không phù
hợp, giúp họ tiến hành được hoạt động học tập ở mức độ khó khăn cao hơn.
Theo tài liệu của Khoa y sinh học - Trường Đại học TDTT Bắc Ninh, trong
quá trình dạy học nói chung, dạy học ở đại học nói riêng, GV luôn giữ một vai trò
quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ
đạo hoạt động học tập của HS. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù GV có kiến thức
uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng HS không chịu đầu
tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức,
không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý,
không tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập không đạt kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất
quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
- Thứ nhất, tự học giúp HS nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề
nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học HS đã từng bước biến vốn kinh
nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã
tạo điều kiện cho HS hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững
chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.

- Thứ hai, tự học không những giúp HS không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú
thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện
thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi
không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
- Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp HS
mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp HS hình thành được những phẩm chất trí
23


tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học,
rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng
say mê nghiên cứu khoa học.
- Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí
và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở HS tiềm năng to lớn vốn có của
họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở
ngại bên ngoài. Khả năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất
lượng đào tạo.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của GV và tập thể
HS trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn trong việc động viên
khuyến khích hướng dẫn HS tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.
Trong xã hội phát triển vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là động
lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ trẻ
năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích ứng với đời sống
xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt đó là
khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn thiện và những khả năng này phải được hình
thành từ cấp tiểu học. Có như vậy mới rèn luyện cho họ được kỹ năng tự học, tự
nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu biết về văn hoá, khoa học kỹ thuật và
hiện đại hoá vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động với
đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.

Theo tôi tự học có vai trò như sau:
- Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối
lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. Nó giúp khắc phục
nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà tuổi học đường thì có hạn.
- Tự học là giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của
sự hứng thú, sự tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. Có phương pháp tự học tốt sẽ đem lại
kết quả học tập cao hơn. Khi HS biết cách tự học, HS sẽ “có ý thức và xây dựng thời
gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
- Tự học là con đường thử thách rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của
mỗi con người trên con đường lập nghiệp.
24


- Tự học của HS THPT còn có vai trò quan trọng đối với yêu cầu đổi mới
giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. Đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học sẽ phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Vì
vậy, tự học chính là con đường phát triển phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân
loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường phổ thông.
- Theo phương châm học suốt đời thì việc “tự học” lại càng có ý nghĩa đặc
biệt đối với HS THPT. Vì nếu không có khả năng và phương pháp tự học, tự nghiên
cứu thì khi lên đến các bậc học cao hơn như đại học, cao đẳng… HS sẽ khó thích
ứng do đó khó có thể thu được một kết quả học tập tốt.
- Tự học đang trở thành chìa khóa vàng trong thời đại bùng nổ thông tin
ngày nay.
1.4. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP VÀ VIỆC
TỰ HỌC CỦA HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.4.1. Mục đích điều tra
1.4.1.1. Về phía HS

- Tìm hiểu thái độ, tình cảm, nhận thức của HS về BTHH.
- Việc chuẩn bị cho tiết bài tập và giải bài tập của HS.
- Tìm hiểu những khó khăn mà các em gặp phải khi giải bài tập và các yếu tố
giúp HS giải thành thạo một dạng bài tập.
- Tìm hiểu nhận thức của HS về tự học và vai trò của tự học.
- Tìm hiểu về vấn đề sử dụng thời gian và cách thức tự học.
- Tìm hiểu những khó khăn mà các em gặp phải khi tự học và các yếu tố tác
động đến hiệu quả của việc tự học.
1.4.1.2. Về phía GV
- Tìm hiểu về tình hình xây dựng HTBT của GV.
- Tìm hiểu cách nhìn nhận và suy nghĩ của GV về vai trò của BTHH trong
dạy học hóa học.
- Tìm hiểu tình hình dạy BTHH ở trường THPT: mức độ thành công, những
khó khăn gặp phải khi dạy BTHH.
- Tìm hiểu về biện pháp xây dựng và sử dụng hệ thống BTHH hỗ trợ HS tự
học, tự làm bài tập.
25


×