Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hoàn thiện các vấn đề lý luận để xác minh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.73 KB, 22 trang )

Lời nói đầu
Mục đích của Pháp luật khởi nguồn từ chính những nhu cầu thuờng ngày của mồi
con nguời, là công cụ phục vụ, bảo vệ lợi ích mọi thành viên trong xã hội của Nhà Nuớc ,
nảy sinh từ các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu sản xuất cũng như các nhu cầu khác trong
cuộc sổng hàng ngày, Những nhu cầu ngày càng tăng đó của con người đòi hỏi phải có
những phương tiện pháp lý mới nhằm điều chỉnh và ôn định xã hội. Do vậy sự ra đời của
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với tư cách là một chế định dân sự độc lập,
đảm bảo quyền và lợi ích của người bị thiệt hại là một điều tất yếu. Việc thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục lại các quyền tài sản và các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tố chức, pháp nhân, nhà nước. Đe việc tiến
hành bồi thường thiệt hại được diễn ra thuận lợi và bảo đảm quyền lợi cho chủ thế bị thiệt
hại yêu cầu cần xác định được đúng người có trách nhiệm, có khả năng đế thực hiện nghĩa
vụ bồi. Do vậy, xác định năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là một vấn đề quan
trọng trong xác định đúng năng lực bồi thường thiệt hại của người gây ra thiệt hại và người
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đế tạo ra tính khả quan cho công tác thực thi trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và đảm bảo được nguyên tắc của bồi thường thiệt hại là phải
kịp thời và toàn bộ.
Nhận thức được tầm quan trọng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
cũng như vấn đề xác định năng lực chủ thế trong trách nhiệm bồi thường đối với sự công
bằng và phát triển của xã hội, em xin chọn đề tài: “Hoàn thiện các vấn đề lý luận để xác
minh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra” để nghiên
cứu trong bài tập lớn học kỳ lần này .
Do hạn chế về kinh nghiệm thực tế cũng như thời gian nghiên cứu, bài làm của em
còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô nhìn nhận vào yếu tố cố gắng bên cạnh yếu tố chất
lượng của bài viết mà nhẹ nhàng chỉ bảo. Em xin chân thành cám ơn !


Nội dung
I. Khái quát chung về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
1. Khái niệm và điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng :
1.1. Khái niệm :


Quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, chủ thế khác luôn được
pháp luật bảo vệ. Hệ thống pháp luật của nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm nhiều
ngành luật, mồi ngành luật có vai trò khác nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thế. Khi một chủ thế có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thế được pháp luật bảo V, chủ thế gây thiệt hại có thể phải
gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân
sự, hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho
người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật
nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS 1995 ra đời thì các quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS 2005, hoàn thiện
hơn nữ các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều 604, BLDS 2005 quy định :
“ 1. Người nào do lôi cổ ỷ hoặc lôi vô ỷ xâm phạm tính mang, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích họp pháp khác của cả nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thê khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trưòng họp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường họp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”
Như vậy, theo quy định tại điều 604, BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho
các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt nếu pháp luật
quy định người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại kế cả khi không có lỗi thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phát sinh kế cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại.


Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này
được gọi là trách nhiệm nâng cao.
Qua đó, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý

được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi chủ thế có hành vi gây
thiệt hại cho các lợi ích dược pháp luật bảo vệ.
1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy định cụ thế
về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy
nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 01/2004
NQ/- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại
là hành vi trái pháp luật, (3) có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ nhân quả
giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
1.2. ĩ. Có thiệt hại xảy ra
Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại những tổn thất
cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn đề bồi thường sẽ không được
đặt ra kế cả trong trường hợp các điều kiện khác đã đáp ứng đầy đủ. Từ đây có thế thấy
thiệt hại là điều kiện tiên quyết, bắt buộc phải có của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đế quyết định xem có phát sinh trách nhiệm bồi thưởng hay không.
Thiệt hại theo luật dân sự Việt Nam được hiểu là : ” những tổn thất thực tế được
tỉnh thành tiền do việc xâm phạm đến tỉnh mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của to
chức, cả nhân, ton thất thực tế ở đây chỉnh là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh
thần hay những chi phí bỏ ra đê ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt
hại phải gánh chịu ”
Như vậy, thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh


thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất tưong đối cụ the, rõ ràng nhưng xác định thiệt hại
về tinh thần là vấn đề hết sức khó khăn trong nhiều trường hợp . Do đó cần phải tính toán
thiệt hại một cách chi tiết dưa vào các căn cứ cụ thế , tránh việc suy diễn chủ quan , đánh
giá thiếu khách quan .
1.2.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại

Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đế phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được hiểu là những hành vi mà pháp luật cấm, không cho phép thực hiện. Co sở đế xác
định hành vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong tùng trường hợp
cụ thế .
Hành vi gây thiệt hại có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động. Đó đều là những xử sự của con người, có ý chí và được lý trí kiểm soát, gây thiệt hại
cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại hoặc có thế là tác động trực
tiếp của chủ the vào đổi tượng gây thiệt hại hoặc có thế là tác động gián tiếp của chủ thể
vào đổi tượng thông qua công cụ, phưong tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt
hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại cho khách thể bằng ciệc chủ thế không làm
một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm trong khi bản thân chủ thể có đầy đủ điều
kiện đế làm việc đó .
1.2.3. Có mối quan hệ nhân quà giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thiệt hại xảy ra là
do chính kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đây chính là mối quan hệ của
sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên tắc nguyên nhân phải xảy ra truớc kết quả trong
khoảng thời gian xác định. Theo Điều 604 của BLDS thì có thế thấy hành vi “xâm phạm”
đến tính mạng, tài sản, sức khoẻ...là nguyên nhân và “thiệt hại” là hậu quả của hành vi đó.
Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại nên hành vi đó bao
giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả là một vấn đề phức tạp bởi lẽ một
thiệt hại xảy ra có thế là do tác động của một hoặc của nhiều hành vi trái pháp luật và một
hành vi trái pháp luật cũng có thế gây ra nhiều thiệt hại. Do đó khi xem xét mối quan hệ


này cần hết sức thận trọng, phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một
cách toàn diện đối với vấn đề đang giải quyết đế có thế đưa ra một kết luận chính xác, xác
định đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.2.4.

Có loi của người gây thiệt hại

Lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của

người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Xét về bản chất, lỗi
được các ngành luật xác định khác nhau. Trong luật dân sự, lỗi được xác định là một trong
bổn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồn nói riêng và
trách nhiệm dân sự nói chung. Việc áp dụng lỗi làm căn cứ đế xác định trách nhiệm được
BLDS 2005 quy định tại điều 308 .Theo đó, lỗi được chia thành 2 loại là lồi cổ ý và lỗi vô
ý
Trong luật dân sự Việt Nam, về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi người gây thiệt hại có lỗi, bất ke đó là lỗi vô ý hay cố lý .
Bên cạnh đó, trong một số trường họp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại khôn có lồi ( khoản 3 điều 623,624 BLDS
2005).
Tuy nhiên việc đánh giá hình thức, mức độ lõi trong trách nhiệm bôi thưừng thiệt
hại ngoài hợp đồng vẫn là một công đoạn quan trọng , có ý nghĩa lớn trong việc xác định
trách nhiệm bồi thường của các bên(Khoản 2 điều 615) hay giảm mức bồi thường ( Khoản
2, điều 605) .
2. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thưòng thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1. Khái niệm cá thế hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Khi có thiệt hại xảy ra thì bên cạnh việc xác định mức độ thiệt hại, cùng các điều
kiện cấu thành trách nhiệm của người gây thiệt hại thì việc xác định rõ ai là người phải
đứng ra gánh vác trách nhiệm và thực hiện việc bồi thường đế đảm bảo quyền lợi cho
người bị hại là một vấn đề rất quan trọng. Theo cách hiểu chung và khái quát nhất thì ai là
người gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Tuy nhiên điều kiện đế trở thành một
chủ thế tham gia vào một quan hệ pháp luật thì người đó phải có đầy đủ năng lực chủ thế


theo quy định của pháp luật.
Do vậy, khi thiệt hại xảy ra cần phải xác định trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về
ai. Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nếu không xác định được người phải bồi

thường thì quyền lợi của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Chính vì vậy mà vấn đề
cá the hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đặt ra.
Vậy, cá thế hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là việc xác định
người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng tnròng họp gây thiệt hại cụ thê.
2.2. Điều kiện để cá thế hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng
Đe trở thành chủ thế của một quan hệ pháp luật dân sự thì người tham gia cần đáp
ứng điều kiện về năng lực chủ thế theo quy định của pháp luật. Quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng cũng là một quan hệ pháp luật dân sự do vậy đế trở thành chủ thế của
quan hệ này thì người tham gia cũng cần phải có đầy đủ những điều kiện về năng lực chủ
thế của quan hệ pháp luật nói chung. Bên cạnh đó, do đặc thù riêng của quan hệ pháp luật
này mà cần có thêm một số điều kiện nhất định. Cụ thể, để cá thể hóa trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng cho một chủ thế cần phải đáp ứng các điều kiện sau :
Độ tuôi ỉ Theo quy định của pháp luật thì năng lực chủ thê được câu thành bởi hai
yếu tố là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Trong đó, năng lực hành vi dân sự của cá
nhân hình thành khi đáp ứng những điều kiện nhất định đó là về độ tuổi và nhận thức. Mặt
khác, năng lực hành vi dân sự lại được chia thành các mức khác nhau, phụ thuộc vào độ
tuối của cá nhân. Điều 19 BLDS quy định : “Người thành niên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của BLDS”. Như vậy người thành
niên - người tù' đủ 18 tuối trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được phép
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự và tự' mình gánh chịu các nghĩa vụ dân sư.
Sự tương ứng giữa việc quy định độ tuổi đế xác định năng lực hành vi dân sự và
căn cứ vào độ tuối đế quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay
trong BLDS 2005 đã cho thấy việc quy định độ tuổi là một yếu tố quan trọng trong vấn đề
cá thế hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hoàn toàn hợp lý và chính


xác .
- Nhận thức
Bên cạnh độ tuối, khả năng nhận thức cũng là một yếu tố tạo nên năng lực hành vi
dân sự của chủ thể. Khi phân tích về vấn đề này ta có thế thấy giữa khả năng nhận thức và

độ tuối có mối quan hệ với nhau, cụ the, khả năng nhận thức của con người lại phụ thuộc
vào chính độ tuối. Con người chỉ có khả năng nhận thức đầy đủ khi đạt một độ tuổi nhất
định, khi chưa đạt độ tuổi này thì con người hoặc chưa có khả năng nhận thức hoặc là khả
năng nhận thức còn hạn chế. Tuy nhiên, cũng có trường họp, người không có khả năng
nhận thức nhưng không phải do chưa đạt một độ tuổi nhất định mà do bị mất khả năng
nhận thức của mình .
Như vậy, đế tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định thì chủ thế phải có đầy đủ ý
chí cũng như lý trí đế điều khiến hành vi của mình, phải nhận thức được những gì mình
đang làm cũng như hậu quả của hành vi đó. Người đứng ra chịu trách nhiệm chính trong
quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thế chính là người gây ra thiệt hại và cũng
có thế không phải là người gây ra thiệt hại. Việc thực hiện bồi thường ảnh hưởng đến
chính quyền lợi của họ do vậy họ phải nhận thức được việc mình đang làm và trách nhiệm
bồi thường sẽ không đặt ra với người không có khả năng nhận thức. Từ những nhận định
trên, có the nói, việc đánh giá khả năng nhận thức của chủ thế trong vấn đề cá thế hóa
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hết sức cần thiết.
-

Mối quan hệ pháp lỷ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường

Mối quan hệ giữa người gây thiệt hại và người phải bồi thường được đặt ra đế cá
thế hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại là để giải quyết các tình huống người gây thiệt hại
không có khả năng bồi thường. Việc xem xét mối quan hệ pháp lý giữa người gây thiệt hại
và người phải bồi thường có ý nghĩa trong việc xác định đúng người đại diện cho người
gây thiệt hại để thực hiện nghĩa vụ. Họ phải thực hiện việc bồi thường dù họ không gây ra
thiệt hại nhưng họ lại có lỗi trong việc quản lý người gây thiệt hại.
II.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thucmg thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại
ngoài hợp đồng :


1. Năng lực bồi thưòng thiệt hại của người từ đủ 18 tuổi:

Người tủ' đủ 18 tuối trở lên theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 là
người thành niên (Điều 18),có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu không rơi vào các
trường hợp bị Tòa án tuyên là mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị tuyên là hạn chế năng
lực hành vi dân sự (Điều 23). Theo những quy định này thì khi một người đủ 18 tuổi họ có
đầy đủ tư cách chủ thể đế bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự, có nghĩa là họ có toàn quyền tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể
độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện.
Như vậy người từ đủ 18 tuối nếu không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân
sự thì phải tự chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình gây ra cho người
khác . Điều này được ghi nhận tại khoản 1 điều 606: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt
hại thì phải tự bồi thường
Xét quy định trên , ta nhận thấy người từ đủ 18 tuối là người đã thành niên và có
đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn đủ năng lực đế tham
gia và trở thành chủ thế của quan hệ bồi thường thiệt hại và nếu là người gây ra thiệt hại
thì họ hoàn toàn có đủ năng lực đế thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuối này họ đã
có đầy đủ năng lực tham gia vào các quan hệ lao động nên xét trên một bình diện chung
nhất thì những người này đã có thu nhập và cũng có khả năng tạo ra thu nhập đế thực hiện
nghĩa vụ của mình. Qua đó, có thế nói việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người từ đủ 18 tuổi gây ra thuộc về chính họ là hoàn toàn hợp lý và phù họp với các quy
định hiện hành của pháp luật.
Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng quy định này, vẫn tồn đọng một sổ vấn đề đáng
lưu tâm. Cụ thế, trong vụ án dân sự sơ thẩm số 55/2008 của tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh :
Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 20/9/2006 trên đường đi
học, anh Toản (1987) điều khiển xe máy dream đi ngược chiều vào đường Nguyễn
Khuyến, do không làm chủ được tốc độ đã đâm vào ô tô camry của chị Đặng Thu Nga
đang đỗ trên lề đường. Vụ va chạm đã làm móp mui xe, hỏng đèn tai bèo, thiệt hại mà chị


Nga phải chịu là 38 triệu đồng.

11/10/2006 Anh Toản đã mang 10 triệu đồng đến bồi thường thiệt hại và trình bày
hoản cảnh khó khăn của mình. Tuy nhiên chị Nga không đồng ý và yêu cầu anh bồi
thường số tiền còn thiếu. Đen tháng 8/2007, do anh Toản vẫn chưa có khản năng bồi
thường số tiền còn thiếu, chị Nga đã đâm đơn kiện lên tòa, yêu cầu gia đình anh Toản phải
bồi thường cho mình sổ tiền còn thiếu là 28 triệu đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm sổ 55/2008/DSST ngày 31/5/2008 của tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, tòa quyết định: Buộc anh Toản phải trả cho chị
Nga số tiền còn thiếu là 28.000.000đ với hình thức mỗi tháng trả 500.000đ cho đến khi hết
số tiền nêu trên .
Bác yêu cầu của chị Nga yêu cầu gia đình anh Toản phải trả nợ thay bởi lý do, vào
thời điểm gây thiệt hại, anh Toản đã đủ 18 tuổi, có đủ năng lực đế trở thành chủ thế của
quan hệ bồi thường thiệt hại.
Nhận xét : Theo quy định của pháp luật ,người từ đủ 18 tuổi phải tự chịu trách
nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại dù tình trạng tài sản của họ có như thế nào đi nữa. Tuy
nhiên, có một thực tế là : Tại Việt Nam hiện nay, một bộ phận lón thanh niên đạt độ tuối
tù' 18 đến 22 vẫn tiếp tục theo học tại các trung tâm giáo dục khác nhau, chịu sự bao bọc,
quản lý của người thân, do đó, khả năng tài chính hay nói cách khác thu nhập của những
người này vẫn phải phụ thuộc phần nhiều vào người khác. Trong nhiều trường hợp, cụ thế
như trường hợp nêu trên, sau khi gây thiệt hại, họ không có đủ khả năng đế thực hiện
nghĩa vụ, tuy nhiên đây là trách nhiệm của họ, không thể chuyến giao cho người khác và
người khác cũng không có nghĩa vụ phải thực hiện thay cho họ (trừ trường hợp người nhà
của họ hoặc có người khác tự nguyện thay họ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại).
Do vậy trong trường họp này, tòa cần phải đưa ra một giải pháp mềm mong hơn. Cụ thế,
tòa đã buộc anh Toản phải bồi thường dần số tiền theo từng tháng, dựa trên mức thu nhập
trung bình của anh. Tuy quyết định này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị Nga, chưa
đảm bảo được các nguyên tắc bồi thường thiệt hại, nhưng đã phần nào đảm bảo được việc
thực hiện nghĩa vụ của anh Toản, cũng như thỏa mãn yêu cầu đòi bồi thường của chị Nga.


2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên

Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật thì
đây là những người chưa có năng lực hành vi dân sự (người dưới 6 tuối) hoặc chưa có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay nói cách khác là chỉ có năng lực hành vi dân sự một
phần (người từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi). Trong độ tuổi này các chủ thế chưa có khả năng
nhận thức hoặc chưa nhận thức một cách đầy đủ và chính xác vê những việc mình đã làm
cũng như chưa nhận thức được một cách sâu săc về những thiệt hại có thế xảy ra do hành
vi của mình. Do vậy, nếu những người này gây ra thiệt hại thì phải có người đứng ra đại
diện cho họ để thực hiện nghĩa vụ bồi thường.
Mặc dù cùng nằm trong nhóm tuối người chưa thành niên nhưng việc quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 18 tuổi gây ra lại không giống nhau trong
mọi trường họp. Trong nhóm tuối này việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại có sự
phân biệt giữa hai độ tuổi khác nhau là người chưa thành niên dưới 15 tuối và người chưa
thành niên từ đủ 15 tuối đến chưa đủ 18 tuổi.
2.1. Năng lực bồi thưòng thiệt hại của người dưói 15 tuổi
Người chưa thành niên dưới 15 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự
(dưới 6 tuối) hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ (tù' đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi),
về nguyên tắc thì những người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại và người chưa
thành niên đó còn cha mẹ thì cha mẹ buộc phải bồi thường toàn bộ thiệt hại và tham gia tố
tụng dân sự với tư cách là bị đơn. Trong trường hợp này thì người có trách nhiệm chính và
chủ yếu phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường chính là cha, mẹ của người đã gây ra thiệt hại
bởi lẽ, theo khoản 1 điều 20 BLDS 2005 : “Người chưa thành niên từ đủ 6 đến chưa đủ 18
tuối khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phủi dược người đại diện theo pháp luật đồng
ỷ, trừ trường hợp giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa
tuôi hoặc pháp luật có quỵ định khác”,Điều 21 BLDS : “người chưa đủ 6 tuổi không có
năng lực hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuoi phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện ”.Như vậy, những người chưa thành niên dưới 15
tuối không những không có năng lực hành vi dân sự hay chưa có năng lực hành vi dân sự


đầy đủ mà còn chưa có năng lực lao động đế tham gia vào các quan hệ lao động đế độc lập

về kinh tế ,tạo ra thu nhập và có tài sản riêng. Do đó khoản 2 điều 606 BLDS 2005 quy
định : “Người chưa thành niên dưới 15 tuối gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại Quy định này đã thế hiện được tính họp lý và chính xác của
mình trong thực tiễn xét xử của những cơ quan tòa án có thẩm quyền :
Cụ thế, trong vụ án hình sự xét xử các bị cáo Nguyễn Tuấn Anh sinh ngày
24/4/1992; Hoàng Văn Lê sinh năm 1987; Nguyễn Thế Trung sinh năm 1982; Nguyễn
Văn Việt sinh năm 1988 về tội cướp giật tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Khoảng 15 giờ ngày 05/12/2006 Hoàng Văn Lê
sinh năm 1987 ở Sóc Sơn - Hà Nội đi xe máy Dream BKS 99H2 - 7863 trở Nguyễn Tuấn
Anh sinh ngày 24/4/1992 cùng ở Sóc Sơn - Hà Nội, còn Nguyễn Thế Trung sinh năm 1982
ở Đông Anh - Hà Nội đi xe máy WAVE BKS 12F6 - 4436 trở Nguyễn Văn Việt sinh ngày
06/6/1988 ở Sóc Sơn - Hà Nội đi từ Đông Anh đến thị xã Phúc Yên với mục đích trộm cắp
xe máy. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày cả bốn tên đi trên đoạn đường 301 từ trung tâm
thị xã Phúc Yên đi phường Xuân Hòa - thị xã Phúc Yên. Quan sát thấy chiếc túi xách của
chị Hà đế trên yên xe giữa chị Hà và anh Cương, Tuấn Anh nảy sinh ra ý định cướp giật và
bảo Lê điều khiến xe máy đi chậm lại phía sau xe anh Cương . Khi đến khu vục hồ Tam
Giác phường Xuân Hòa, Tuấn Anh dùng tay giật chiếc túi xách của chị Hà, trong túi xách
có một chiếc điện thoại Nokia 6110, 2.300.000 đồng, một đăng ký xe máy ... và một số
giấy tờ tuỳ thân khác. Giật được tài sản Lê cho xe chạy với tốc độ cao vào hồ Đại Lải, còn
Trung điều khiến xe máy chạy theo. Sau đó, Tuấn Anh chia cho Nguyễn Thế Trung
500.000 đồng chia cho Việt và Lê mỗi người 300.000 đồng, còn lại Tuấn Anh tiêu hết.
Đen ngày 7/12/2006 Tuấn Anh cùng Việt đem chiếc điện thoại bán cho một cửa
hàng ở Đông Anh được 1.000.000 đồng Tuấn Anh và Việt tiêu hết. Ngày 15/6/2007 Hội
đồng giám định thị xã Phúc Yên đã xác định trị giá chiếc điện thoại của chị Hà là
2.000.000 đồng .Đối với chiếc xe máy BKS 99H2 - 7863 xác định là xe máy do Lê cùng
Tuấn Anh trộm cắp mà có. Còn chiếc xe máy BKS 12F6 - 4436 là do Việt trộm cắp mà có.


Tại bản án hình sự sơ thẩm 57/2007/HSST ngày 31/8/2007 của Tòa án sơ thẩm đã

quyết định và tuyên bố các bị cáo Tuấn Anh và Lê phạm tội “cướp tài sản” Thế Trung và
Việt phạm tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự đế quyết định hình phạt cho các bị cáo. Bên cạnh trách nhiệm hình sự
mà các bị cáo phải chịu Tòa án cũng quyết định mức bồi thường thiệt hại (ở phần bồi
thường này chì nhắc đến vấn đề bồi thường thiệt hại của Nguyễn Tuấn Anh vì khi phạm
tội Nguyễn Tuấn Anh mới chỉ có 14 tuổi, 7 tháng, 6 ngày - đang trong độ tuổi của người
chưa thành niên dưới 15 tuổi).
Hội đồng xét xử đã áp dụng khoản 1 Điều 42 của Bộ luât hình sự, điểm b khoản 2
Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 605 và khoản 2 Điều 606 của Bộ luật
Dân sự 2005 buộc ông Nguyễn Văn Lê - bố đẻ của Nguyễn Tuấn Anh, người đại diện hợp
pháp cho bị cáo Nguyễn Tuấn Anh phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho chị Đàm Thị
Thu Hà 2.200.000 đồng.
Nhận xét : Trong tình huống này, người gây thiệt hại là Tuấn Anh, tuy nhiên em
mới có 14 tuối thuộc vào độ tuối của người chưa thành niên dưới 15 tuối, do đó, cha mẹ
của Tuấn Anh là người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con
mình gây ra. Cụ thế ở đây tòa đã buộc ông Nguyễn Văn Lê - bố Tuấn Anh phải bồi thường
thiệt hại thay cho bị cáo. Mặc dù ông Nguyễn Văn Lê không phải là người trực tiếp gây ra
thiệt hại nhưng lại có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra. Lồi của ông Lê ở đây là lồi gián
tiếp, lỗi suy đoán, do ông Lê đã không làm tròn bổn phận quản lý, giáo dục con cái.
Quyết định trên của Tòa án là họp lý, đảm bảo được quyền lợi các bên cũng như cụ
thể hóa được quy định về năng lực bồi thường thiệt hại tại khoản 2 Điều 606 của Bộ luật
Dân sự.
Khi nghiên cứu về năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới 15
tuối, ngoài việc pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ thì
khoản 2 điều 606 BLDS 2005 cũng quy định: “nếu tài sản của cha, mẹ không đủ đê bồi
thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lẩy tài sản đó đế bồi thường phần còn
thiếu Việc pháp luật quy định cho phép cha, mẹ có thế dùng tài sản của con chưa thành


niên đế bồi thường phần còn thiếu là nhằm mục đích thực hiện nguyên tắc bồi thường thiệt

hại phải “toàn bộ và kịp thời” đế đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại, bởi trong nhiều
trường hợp người chưa thành niên tuy chưa tự làm được ra tài sản nhưng lại được thừa kế,
được tặng cho tài sản. Và việc cho phép cha, mẹ của người chưa thành niên dưới 15 tuối
gây thiệt hại được phép lấy tài sản của con họ đế bù vào phần bồi còn thiếu không có
nghĩa người chưa thành niên phải “liên đới” cùng cha, mẹ đế bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý không phải trong mọi trường hợp cha, mẹ của người
gây ra thiệt hại đều phải chịu trách nhiệm bồi thường . Khoản 1 điều 621 BLDS có quy
định : “người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trưÒTìg mà gây thiệt hại thì trường học
phải bồi thường thiệt hại xảy ra ). Thời gian mà người dưới 15 tuổi học tại trường học
chính là thời gian mà theo quy định của nghề nghiệp trường học phải có trách nhiệm quản
lý, giáo dục người chưa thành niên dưới 15 tuổi, do vậy trong thời gian người người dưới
15 tuổi học tại trường học mà gây ra thiệt hại thì nhà trường sẽ phải chịu trách nhiệm bồi
thường vì nhà trường đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc quản lý và giáo
dục học sinh. Tuy nhiên, nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi trong việc
quản lý và trong việc để thiệt hại xảy ra thì trường học sẽ không phải bồi thường và trong
trường hợp này thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuối đến dưới 18 tuối
Cùng thuộc độ tuối chưa thành niên, tuy nhiên khác với người dưới 15 tuổi nếu gây
thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về cha, mẹ của họ, ngược lại, người từ đủ 15
đến dưới 18 tuổi sẽ phải bồi thường bằng chính tài sản của mình; nếu không đủ tài sản đế
bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình”. Như vậy, trong trường hợp
này, trách nhiệm bồi thường chính thuộc về bản thân người gây thiệt hại chứ không phải là
cha mẹ, người thân của họ.
Sở dĩ pháp luật quy định như vây là do, dù ở trong độ tuổi chưa thành niên chưa có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng so với người dưới 15 tuổi về mặt nhận thức họ đã
phát triển hon, mặt khác, người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi theo quy định tại điều 145 bộ


luật Lao động 1994: “đã có khả năng lao động và có thế giao kết hợp đồng lao động”.

Như người thuộc độ tuổi này đã có the phát sinh thu nhập và có tài sản riêng, nên có thế
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình.
Mặc dù quy định trách nhiệm chính thuộc về người gây thiệt hại, nhưng xét về mặt
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì họ chưa có, nên họ cần phải có người đại diện cho mình
trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Do vậy, cha mẹ của người gây thiệt
hại vẫn không thể loại trừ hoàn toàn trách nhiệm của mình. Họ có nghĩa vụ phải bồi
thường thiệt hại cho con mình khi nó gây ra thiệt hại cho người khác mà không có tài sản
hoặc không đủ tài sản đế bồi thường. Khẳng định này được ghi nhận tại khoản 2 điều 606
BLDS : Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuôi gây thiệt hại thì phải bồi thường bang tài
sản của mình; nếu không đủ tài sản đê bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn
thiếu bang tài sản của mình ”.CÓ thế nói, quy định này là khá chặt chẽ và họp lý, phù hợp
với xã hội, do đó việc áp dụng trong thực tiễn của các co quan xét xử chưa xảy ra vấn đề
nào đáng tranh cãi .
3. Năng lực bồi thường thiệt hại của người được giám hộ
Điều 58 của BLDS 2005 quy định “ Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi
là người giảm hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử đế thực hiện việc chăm sóc và
bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự (sau đây gọi chung là người được giảm hộ) Như vậy, có thế nói giám hộ là một
hình thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên và người mất năng
lực hành vi dân sự. Người giám hộ có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo
luật định đế bảo vệ quyền lợi cho người được giám hộ, đồng thời họ cũng có the phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản trong khi thực hiện việc giám hộ của mình
trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người mà mình
giám hộ gây ra cho người khác.
3.1. Người được giám hộ là người chưa thành niên gây thiệt hại
Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 58 BLDS : “người chưa thành niên mà


không còn cha mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi
dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc

cha, mẹ không đủ điều kiện chăm sóc, giảo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ
có yêu cầu” thì cần có người giám hộ. Như vậy, với người chưa thành niên vẫn còn cha
mẹ không bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thì không thuộc phạm vi ảnh hưởng
của điều luật nêu trên .
Trong các trường hợp còn lại, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người chưa
thành niên gây thiệt hại sẽ thuộc về người giám hộ đương nhiên của họ. Cụ thế, trước hết
là trách nhiệm của anh cả hoặc chị cả đã thành niên đủ điều kiện đế làm người giám hộ.
Neu anh cả, chị cả không đủ điều kiện đế làm người giám hộ thì người tiếp theo đã thành
niên phải làm người giám hộ. Trong trường hợp không có anh, chị hoặc anh, chị không đủ
điều kiện đế làm người giám hộ thì ông, bà nội, ông, bà ngoại là người giám hộ. Neu
những người nêu trên không có hoặc không đủ điều kiện đế làm người giám hộ thì bác,
chú, cậu, cô, dì là người giám hộ. Trong trường hợp không có người làm giám hộ đương
nhiên thì sẽ phải cử giám hộ.
về tài sản bồi thường, khoản 3 điều 606 ghi nhận : "... người giám hộ đu-ợc dừng
tài sản của người được giám hộ đê bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản
hoặc không đủ tài sản đê bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của
mình; nền người giảm hộ chứng minh được mình không có lôi trong việc giảm hộ thì
không phủi lấy tài sản của mình đế bồi thường. ” Như vậy, trong trường hợp này, người
phải chịu trách nhiệm bồi thường chính là người gây thiệt hại chứ không phải người giám
hộ. Bên cạnh đó, người giám hộ cũng có thế miễn trù’ trách nhiệm bồi thường của mình
nếu chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ. Quy định này tưởng chừng
như hợp lý nhưng trong áp dụng thực tiễn, vẫn còn nối lên một số bất cập. Cụ thế, trong
trường hợp, người chưa thành niên không có hoặc không có đủ tài sản đế bồi thường và
người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì trách nhiệm bồi
thường sẽ thuộc về ai ? Ai sẽ phải tiếp tục bồi thường khi có tài sản ? Trong thực tế, khi
gặp tình huống này, các thẩm phán thường dựa vào nguyên tắc tưong tự đối với người


thành niên còn cha mẹ đế xét xử, cụ thế : Neu người được giám hộ là người từ đủ 15 tuối
đến chưa đủ 18 tuối thì trách nhiệm bồi thường thuộc về người được giám hộ, nếu người

được giám hộ là người dưới 15 tuối thì không ai phải bồi thường và người thiệt hại phải
chịu rủi ro.
3.2. Trường họp người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
cho người khác
Theo quy định của pháp luật: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thê nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan, tòa ủn ra quyết định tuyên bo mất năng lực hành vi dân sự
trên cơ sở kết luận của tố chức giám định” (Điều 22 BLDS 2005). Căn cứ vào điếm b
khoản 2 và khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Dân sự thì người mất năng lực hành vi dân sự là
người cần phải có người giám hộ, người giám hộ sẽ là người đại diện cho họ trong các
giao dịch dân sự. Người mất năng lực hành vi dân sự có thế là bất kỳ ai và ở bất kỳ độ tuổi
nào, do vậy mà tuỳ từng trường hợp khác nhau mà việc quy định bồi thường thiệt hại do
người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng khác nhau :
Neu người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên mà còn cha, mẹ
thì cha, mẹ chính là người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự, có trách nhiệm
quản lý người mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường họp, nếu người mất năng lực
hành vi dân sự mà đế những người này gây thiệt hại về tài sản cho người khác thì vấn đề
trách nhiệm bồi thường được tiến hành như trong trường hợp người chưa thành niên gây
thiệt hại mà con cha, mẹ.
Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ (hoặc có chồng) thì người
vợ (hoặc chồng) có đủ điều kiện sẽ phải làm người giám hộ (khoản 1 Điều 62 BLDS
2005). ớ trong trường họp này, người giám hộ được lấy tài sản của người được giám hộ đế
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Neu như tài sản của người được giám hộ không
đủ đế bồi thường thì phải phân định tài sản chung của vợ chồng sau đó mới xác định trách
nhiệm bồi thường. Sau khi phân tài sản chung rồi mà tải sản của người được giám hộ vẫn
không đủ đế bồi thường thì người giám hộ mói phải lấy tài sản của mình đế thực hiện


nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu.
Trường hợp cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự thì người con cả phải là

người giám hộ nếu người con cả không đủ điều kiện đế là giám hộ thì người con tiếp theo
có đủ điều kiện là người giám hộ. Neu cha, mẹ mà gây thiệt hại cho người khác thì người
con đang giám hộ cha, mẹ sẽ lấy chính tài sản của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho người bị tốn thất. Sau khi lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường mà
còn thiếu thì người con với tư cách là người giám hộ sẽ phải lấy tài sản của mình đế thực
hiện nốt nghĩa vụ bồi thường.
Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự là người đã thành niên và đã có vợ,
chồng, con nhưng vợ, chồng, con đều không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ
có đủ điều kiện phải làm người giám hộ cho họ. Neu họ gây thiệt hại về tài sản cho người
khác thì cha, mẹ sẽ lấy tài sản riêng của người được giám hộ để thực hiện trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và nếu tài sản đó không đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy
tài sản của mình đế bồi thường.
Cuối cùng, người mất năng lực hành vi dân sự nếu gây thiệt hại cho người khác
trong thời gian bệnh viện hay tố chức khác quản lý thì tố chức, bệnh viện phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại mà không phải là người giám hộ (Điều 621 khoản 2 BLDS
2005). Bệnh viện và tổ chức có trách nhiệm phải bồi thường vì họ đã không thực hiện tốt
chức năng quản lý của mình đã đế người mất năng lực hành vi dân sự do mình đang quản
lý gây thiệt hại.
Trong trường hợp, người bị mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ
đưong nhiên thì sẽ phải cử giám hộ và trách nhiệm của họ trong việc người được giám hộ
gây thiệt hại sẽ áp dụng tương tự’ như các trường hợp trên .
Tương tự như đối với trường hợp người được giám hộ là người chưa thành niên,
trong trường hợp người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự, một câu hỏi
được đặt ra là : Nếu người được giám hộ không có tài sản riêng đế bồi thường và người
giám hộ chứng minh được họ không có lỗi thì trách nhiệm thuộc về ai ? Mặc dù pháp luật
không quy định nhưng trong thực tế khi gặp tình huống này, các cơ quan xét xử thường coi


thiệt hại là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu .
III .GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN
Các quy định về “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” cơ bản đã
được các nhà làm luật quy định một cách khá rõ ràng và chi tiết. Tuy nhiên, song song với
việc phát triển không ngừng của xã hồi, các quy định này khó tránh khỏi việc bộc lộ các
hạn chế thiếu sót khi áp dụng trong thực tiễn .
Trong nhiều trường hợp, việc xác định mức độ lỗi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về ai đang là một vấn đề tương đối khó khăn. Cụ thế, khi người chưa thành niên
dưới 15 tuổi gây thiệt hại trong thời gian học tại trường hay khi người được giám hộ gây
thiệt hại, thì việc nhà trường, người giám hộ chứng minh không có lỗi đế giải trừ trách
nhiệm bồi thường là rất khó khăn, bởi thông thường lỗi trong các trường hợp này là lỗi suy
đoán. Do đó, việc đánh giá xét xử của cơ quan tòa án trong các trường hợp này cũng là
không dễ dàng chút nào, khó tránh khỏi các ý kiến, quan điếm trái chiều, gây ra tranh cãi.
Bên cạnh đó, một số vấn đề về năng lực bồi thường thiệt hại còn quy định chung
chung , chưa rõ ràng nên khi giải quyết các vụ việc cụ thế vẫn còn gây ra nhiều vướng mắc
. Điển hình như vấn đề trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến
18 tuổi đang được giám hộ gây thiệt hại. Mặc dù trong thực tiễn xét xử, các co quan tòa án
thường áp dụng nguyên tắc tương tự đối với trường họp người từ đủ 15 đến 18 tuối còn
cha mẹ như em đã trình bày ở trên. Điều này là hợp lý và phù hợp với các chừng mực xã
hội, tuy nhiên, ở khía cạnh pháp lý, các quyết định này khó tránh khỏi những ý kiến phản
đối do chưa có đầy đủ căn cứ pháp luật.
Ngoài ra, cũng cần nói thêm về vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại. Mặc dù đây là tình
huống dễ dàng bắt gặp trong thực tế nhưng vẫn chưa được nhắc tới trong các quy định
pháp luật.
Bắt nguồn tư những hạn chế, thiếu sót đó, theo quan điểm cá nhân của em, các cơ
quan nhà nước có thấm quyền cần phải có các quy định cụ thể hơn nữa về vấn đề xác định


năng lực bồi thường thiệt hại nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho công tác áp dụng và thực thi
pháp luật. Cụ thế :

1 . Việc quan trọng và cần thiết nhất đó là bố sung thêm các quy định về vấn đề xác
định trách nhiệm bồi thường trong trường họp người bị hạn chế năng lưc hành vi dân sự
gây thiệt hại. Mặc dù hình thức và nội dung của quy định ra sao thuộc về trách nhiệm của
các nhà làm luật, tuy nhiên em vẫn xin đưa ra quan điểm cá nhân của mình như một ý kiến
đóng góp mang tính tham khảo : Hạn chế năng lực hành vi dân sự được hiếu là người do
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác mà dẫn đên không có đủ khả năng nhận
thức và điêu khiên hành vi (điều 23 BLDS). Như vậy, có thế hiểu người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự là một người đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng
vì rơi vào trường hợp nêu trên nên bị hạn chế một phần năng lực hành vi dân sự của mình.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của BLDS 2005 thì người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự cũng cần có người đại diện theo pháp luật và các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản của người này phải được người đại diện theo pháp luật thông qua. Tuy nhiên,
xét về bản chất, việc hạn chế năng lực hành vi dân sự dẫn đến gây thiệt hại đều có ý chí
chủ thế, hay nói cách khác, đều do tự’ bản thân họ gây ra. Bởi vậy khi những người này
gây thiệt hại thì phải tự lấy tài sản của mình đế bồi thường, kế cả trong trường họp không
đủ tài sản đế bồi thường thì người đại diện theo pháp luật cũng không có nghĩa vụ phải lấy
tài sản của mình đế bồi thường thay .
2. Các cơ quan nhà nước có thâm quyền cũng cần ban hành các văn bản hướng dẫn
thi hành chi tiết cách xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi
trong quản lý.
3. Cuối cùng, dù cho chỉ là 1 chi tiết nhỏ, tuy nhiên, các nhà làm luật cũng nên bổ
sung ,quy định chi tiết hơn về vấn đề trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người chưa
thành niên, đang được giám hộ gây thiệt hại. Qua đó xác định rõ trách nhiệm của mồi bên
khi người được giám hộ gây thiệt hại mà không có lỗi của người giám hộ, tránh việc quyết
định bất công cho người bị thiệt hại.

rv.

Kết luận:



Khi xã hội ngày càng phát triển hiện đại thì song song đó nhu cầu phải hoàn thiện
bố sung những quy định của pháp luật nhằm đáp ứng tối ưu nhất đòi hỏi của xã hội cũng
cần không ngừng được cải thiện, nâng cao. Hiện nay, xét riêng trong những quy định của
pháp luật liên quan tới vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân thì còn nhiều kẽ hở. Tuy nhiên so với các bộ luật trước thì BLDS 2005
đã có những bước cải thiện đáng kế, do vậy chúng ta hoàn toàn có the tin tưởng trong
tương lai, những quy định đó sẽ ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự phát triển của xã
hội.

DANH MỤC TÁI LIỆU THAM KHAO
1.

Bộ luật Dân Sự Việt Nam 2005

2.

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam (Tập 2),

Nxb CAND, Hà Nội, 2007.
3.

Nguyễn Văn Cương - Chu Thị Hoa, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

(Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 4/2005, tr 61-66).
4.

Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức

khỏe và tỉnh mạng, Nxb Hà Nội, 2009.

5.

Phùng Trung Tập, cần hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng trong dự thảo BLDS (sửa đôi), (Tạp chí nhà nước và pháp luật số 4/2005, tr
28 - 55).
6.

Phùng Trung Tập, Yeu tổ lỗi trong trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt

hại ngoài hợp dồng, (Tạp chí luật học số 5/1997, tr 23).
7.

Phùng Trung Tập, Loi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng, (Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2004, số 10, tr 2 - 5).
8.

Nguyễn Minh Tuấn, Trách nhiệm liên đới bồi thưòĩig thiệt hại ngoài hợp

đồng do người từ đủ ỉ5 tuối đến chưa đủ 18 tuổi gây ra, (Tạp chí luật học số
3/2002, tr 53 - 59).
9.

Lê Đình Nghị, Giáo trình luật dân sự tập 2 ,Nhà xuất bản giáo dục Việt


Nam
10.




11.



12.

Nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTP ngày 08 tháng 07 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
13.

Nghị quyết số 01/2004/NQ - HĐTP ngày 28 tháng 04 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 1995
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng


22 I P a g e



×