Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Bài tiểu luận hai mươi năm quan hệ ngoại giao việt mĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.21 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG

KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ

GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHÓM: 1

Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - KĨ THUẬT BÌNH DƯƠNG

KHOA KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
HAI MƯƠI NĂM QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ

GIẢNG VIÊN: DOÃN THỊ HUỆ
LỚP: D14DO3A
NHÓM: 1




Bình Dương, ngày 13 tháng 10 năm 2015

MỞ ĐẦU

Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không
khởi đầu từ 20 năm trước, khi hai
nhà nước thiết lập quan hệ ngoại
giao, mà đã bắt nguồn từ trước
đó rất lâu.
Tổng thống Thomas Jefferson là
người Mỹ đầu tiên quan tâm đến
Tàu Peacock từng đến Việt Nam vào thế kỷ 19

nước Việt Nam. Sau đó hơn
thế kỷ rưỡi, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã mở đầu bài diễn văn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng một
câu nổi tiếng: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...", đó cũng là lời mở
đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, và tác giả không phải ai
khác ngoài Thomas Jefferson. Bắt đầu từ số báo này, chúng ta sẽ điểm lại một số
cột mốc đáng nhớ trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ..............................................

1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954....................................................
1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong............................................
1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang....................................................................
1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện..............................................................
1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954)........................................................
1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ
( 1954 – 1975).......................................................................................................................
1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995)............................................

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM 1995 ĐẾN
NAY ....................................................................................................................................
2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC 13
2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm............................................................
2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng
quan hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.............................
2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế
giới. .............................................................................................................................
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do
quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới........................................
2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO.......................................


2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với
Việt Nam......................................................................................................................
2.2.2. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ..........................................................
2.3. QUÁ TRÌNH BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ ...........................
2.4. NHỮNG NỖI BẬT SAU KHI BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ.....
2.4.1. Về chính trị - ngoại giao

25


2.4.2. Kinh tế và Thương mại........................................................................................
2.4.2.1 Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai đoạn
(1995 – 2000)......................................................................................................
2.4.2.2. Tình hình Kinh tế thương mại song phương Việt – Mĩ giai đoạn 2000
đến nay...............................................................................................................
2.4.3. Quốc phòng và An ninh......................................................................................
2.4.4.Văn hóa – xã hội ................................................................................................
2.4.4.1 Giáo dục..................................................................................................
2.4.4.2. Y tế.........................................................................................................
2.4.4.3. Du lịch và Thể thao................................................................................
2.4.5. Khoa học – Công nghệ .......................................................................................
2.5. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG TƯƠNG LAI.......
KẾT LUẬN


CHƯƠNG 1: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT-MĨ TRONG LỊCH SỬ

1.1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRƯỚC NĂM 1954
1.1.1 "Cha đẻ" của nước Mĩ tìm giống lúa xứ Đàng Trong
Trong cuốn US - Vietnam 1787 - 1941, tác giả Hopkins Miller viết rằng sau khi
tuyên bố độc lập (1776), Chính phủ Hoa Kỳ lần đầu tiên đã biết đến xứ
"Cochinchina" tức là "Đàng Trong". Tháng 7.1787, Công sứ Hoa Kỳ tại Pháp lúc bấy
giờ là Thomas Jefferson đang ở Paris tham gia các cuộc đàm phán thương mại đã
ngỏ ý muốn mua giống gạo của xứ Đàng Trong. Ông đã viết một lá thư cho bạn ở
Mỹ: "Ông Poivre người thầu thuế vùng Ile-de - France, đang đi thăm nhiều nước
châu Á, Ông cho biết là ở Đàng Trong trồng nhiều giống lúa, có ba giống cần nước,
có ba giống mọc ở vùng cao". Ý định của Jefferson lúc đó rất rõ ràng: "Lúa cạn Đàng
Trong nổi tiếng là trắng thơm và phát triển tốt, tôi sẽ cố cho đem về ít lúa Đàng
Trong". Và vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ lúc đó đã liên hệ với con trai của

Nguyễn Ánh là Hoàng tử Cảnh để tìm giống lúa. 8Do không đi tới kết quả nên 4
tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ (1789) Jefferson tiếp tục viết thư cho
Malesherbes - chính khách Pháp và cũng là nhà nghiên cứu thực vật học - với nội
dung: "Nếu ngài có thể bận tâm kiếm cho tôi ít giống lúa Đàng Trong thì thật quả là
ông có công lớn đối với đồng hương của tôi". Nhưng cuối cùng Malesherbes đã
không giúp được Jefferson.
1.1.2. Bản hiệp định thương mại dở dang
Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson lên nhậm chức, một phái bộ do
Edmund Roberts được đích thân tổng thống cử sang đem theo dự thảo hiệp định
thương mại để có thể thay mặt Chính phủ Mỹ ký với triều đình nhà Nguyễn. Đầu
tháng 1.1832 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Khánh Hòa)
vì cách xa thủ đô Huế. Vua Minh Mạng lệnh cho Viện ngoại lang Nguyễn Tri Phương
6


và Tư vụ Lý Văn Phức mở tiệc khoan đãi long trọng. Vua chuẩn bị cho lần sau đậu
thuyền tại vịnh Trà Sơn (tức Cửa Hàn).
Năm 1836 lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Roberts làm trưởng đoàn,
cập bến vịnh Trà Sơn để xin được yết kiến trình quốc thư. Ngay trong bức thư đầu
tiên này, Tổng thống Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo của Chính phủ Hoa Kỳ
"thư này sẽ được trình Bệ hạ bởi ngài Edmund Roberts, một công dân khả kính của
Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang trọng trách chuyển tới Bệ hạ những việc hệ
trọng của bản quốc. Tôi xin Bệ hạ bảo hộ cho ông ta trong khi phụng mệnh và đối
đãi với ông ta một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hoàn toàn tin tưởng vào
những gì mà ông ta nhân danh nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện chí
đối với Bệ hạ". Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này tiếc thay lại chỉ dừng lại ở một
bữa tiệc chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề cụ thể. Nguyên nhân là do
Edmund Roberts bị bệnh và mất đột ngột tại Ma Cao, không hoàn thành được nhiệm
vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước.
1.1.3 "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện

Có thể xem nhà cải cách Bùi Viện như là một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền"
đầu tiên của Việt Nam đi sang Mỹ. Một vị đại sứ đặc mệnh mà điểm đặc biệt là ra đi
chỉ một mình, không quốc thư, không có tùy tùng chính thức. Một vị đại sứ được
quyền tùy ý lựa chọn nước mình đến, và toàn quyền quyết định vấn đề trao đổi thảo
luận.
Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản
tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam ngày càng có nguy
cơ mất nốt Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng xâm
lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cách tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà
cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn muốn nắm tình hình phương Tây để liệu
điều chỉnh chính sách nên Vua Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng
động, đi ra nước ngoài.
7


Tháng 7.1873 Bùi Viện vượt biển ra đi, sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển
ông đến được Hồng Kông. Đầu tiên Bùi Viện đến Lãnh sự Mỹ tại Hồng Kông. Tại đây
ông kết giao với một sứ giả Mỹ và được ông này giúp đỡ để tiếp kiến Tổng thống Mỹ.
Sau đó ông rời Hồng Kông sang Nhật Bản và đến cảng Yokohamaxuống tàu đi Mỹ. Bùi
Viện đến San Francisco rồi đến thủ đô Washington. Ở đây ông được Tổng thống Mỹ
Ulysses Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước. Nhưng Bùi Viện không
có quốc thư ủy nhiệm nào để có ký kết hiệp ước liên kết. Thất vọng, Bùi Viện đành
xuống tàu quay về nước.
Chuyến đi Mỹ lần thứ hai của Bùi Viện là vào năm 1875. Có trong mình quốc
thư của Vua Tự Đức, ông hy vọng sẽ đạt những điều mong muốn. Tuy nhiên, bối
cảnh trên thế giới lúc này các nước đế quốc đã thỏa thuận xong việc phân chia phạm
vi thế lực lần thứ nhất. Pháp cũng đã đứng vững ở Việt Nam. Còn Mỹ thì có bao
nhiêu việc cần ổn định trong nước sau nội chiến, tình hình quốc tế cũng chưa có lợi
cho họ. Bùi Viện lại ôm mối thất vọng trở về.
Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự không thành thì

Bùi Viện cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước vẫn chưa thiết lập
được quan hệ ngoại giao. Khi nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt
lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội trong lúc đó họ cai trị Philippin sau khi đánh bại
Tây Ban Nha.
1.1.4 Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954)
Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái Bình Dương
đứng nhìn quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho tới khi
nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp trong chiến tranh thế giới
thứ II.
Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã
không ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng Tháng 8 - 1945
thắnglợi hoàn toàn, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80
8


năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành được độc lập, theo qui định của
Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2 khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực
phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân
Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt
Nam đại diện cho lực lượng đồng minh giải giáp quân Nhật.
Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ bang giao
thông qua hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ
hai, khi nước Mỹ tham gia đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn
thế giới chống phe trục: Đức - Ý - Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan
hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng
Giới Thạch trả tự do (1943-1944), Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ
đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý Mỹ Charles Fenn
gặp Hồ Chí Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được Việt
Minh giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói không có phương tiện thông tin. Do
sự sắp xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh quân đoàn

không quân 14 của Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá
Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức OSS tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc).
Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan, gốc Hoa và Maxim.
Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng Kimlung
và được bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm việc liên lạc với cơ
quan Mỹ ở Côn Minh và huấn luyện kỹ thuật cho một số cán bộ quân sự của quân
giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men
bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc)
để Việt Minh chuyển về nước. Đến tháng 8 thì nhóm Thomas theo quân du kích của
Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần
kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập.

9


Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách
công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao
trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên
thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ,
Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân dân Chính
phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng thống
Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh
vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại
của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ
thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược
tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại
Đông Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không
đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ

mình đối với vai trò của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ
trong các buổi lễ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các văn bản mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng
quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình
thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ.
Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Chúng
ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng
ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong
cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và
độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập

10


và dân chủ của quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng
hiện nay và trong công cuọc kiến thiết xây dựng sau này".
Trong chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Mỹ đã giúp Pháp trong cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối chiến tranh,
80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5 tỷ USD. Trong trận Điện
Biên Phủ, Mỹ trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ
không quân cho quân đội Pháp. Nhờ điều đó mà thực dân Pháp mới có thể duy trì
được cuộc chiến.
1.2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ TRONG CHIẾN TRANH CHỐNG MĨ ( 1954 –
1975)
Trong Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân
Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm
đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho
Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông
ta. chính phủ Mỹ hậu thuẫn Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa rồi cả Mặt trận Giải phóng miền Nam.
Mỹ có tham gia Hội nghị Geneve năm 1954 với một phái đoàn do Bedell Smith
làm trưởng đoàn nhưng cũng như phái đoàn Quốc gia Việt Nam, không ký bản hiệp
định. Khi chính phủ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm từ
chối tổng tuyển cử, Hoa Kỳ cũng ủng hộ lập trường đó. Dựa trên thuyết
Domino trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ tăng viện trợ cho Việt Nam Cộng
Hòa. Đến năm 1963 có hơn 16.000 cố vấn quân sự Hoa Kỳ và đến đầu
năm 1965 thì Tổng thống Lyndon B. Johnson cho đổ bộ lực lượng Thủy quân lục
chiến, chính thức tham chiến. Đến năm 1973, đã có trên 600.000 binh lính Mỹ và
đồng minh chiến đấu trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận
chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc cùng các
11


nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt trận nhân dân Đông Dương,
đoàn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ
nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh.
Mục đích của nhân dân Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập tự do, đem lại hạnh
phúc cho dân tộc và chung sống hoà bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình
đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán với điều
kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ
trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi
tết Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa
đánh vừa đàm, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi
sau này.
Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp
định Paris, với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy ra khỏi chiến

trường miền Nam Việt Nam.
Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra nhiều tội ác đối với dân thường
Việt Nam, mà nghiêm trọng nhất là chất độc màu da cam (chất độc DIOSIN) gây ra
hậu quả đến ngày nay.
1.3. QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – MĨ GIAI ĐOẠN (1976-1995)
Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một
thông điệp không chính thức: "Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có
quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt
Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản
trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi
sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù
12


địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ".
Tiếp theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: "Việt Nam mời gọi
Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa".
Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ
tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại
giữa hai nước. Ngày 8 tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger gửi
công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận
vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước
Ngày 6 tháng 1 năm 1977, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lộ trình ba bước bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và phía Hoa Kỳ cũng đưa ra điều kiện để nối lại
bang giao là Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trao trả hài
cốt lính Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh, trong khi
đó Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến
khoản tiền bồi thường.
Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp
Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu

Á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo
điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên.
Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã nỗ lực đẩy mạnh
việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1977, Carter gửi một
phái đoàn sang Hà nội do ông L.Woodcook dẫn đầu để bàn về việc nối lại bang giao.
Ngày 17 tháng 3 năm 1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp
Leonard Woodcock. Ngày 4 tháng 5 năm 1977, chính quyền Carter đồng ý để Việt
Nam vào Liên Hiệp Quốc.
Ngày 3 tháng 5 năm 1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt
Nam - Hoa Kỳ đã diễn ra tại Paris. Phía Việt Nam khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,25 tỷ
13


đô-la bồi thường chiến tranh. Phía Hoa Kỳ đề nghị bình thường hóa trước, viện trợ
sau. Trưởng đoàn đàm phán Phan Hiền báo cáo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông
Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được.
Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến
chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Khi Biên giới Tây Nam được đặt
trong tình trạng chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là kẻ thù, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò quan
trọng của việc bình thường hóa với Hoa Kỳ, một siêu cường trên thế giới. Đầu năm
1978, tại Tokyo, ông Phan Hiền thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Việt Nam
sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ". Nhưng lúc này Mỹ và Trung
Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với
Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả
việc phối hợp để chống Liên Xô. Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để
bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định
xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một
lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ.
Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các

nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối
khéo: "Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam,
nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: sự thù địch của Việt Nam với
Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam". Tuy
nhiên theo ông Trần Quang Cơ viết trong hồi ký "Hồi ức và suy nghĩ" thì: "Tôi nghĩ,
thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ
với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký
hiệp ước với Liên Xô". Sau đó thì việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ bị gián
đoạn bởi các cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới Việt Trung.
14


Trong thập niên tám mươi chính quyền của Tổng thống Reagan (1980-1988)
phản đối việc bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết quân
ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam trong việc tìm kiếm những người
Mỹ mất tích.
Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp
cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi
Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở
tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo.
Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với
Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng.
Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia.
Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó
trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ.
Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ
trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc.
Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối
với Việt Nam.

Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng
MIA tại Hà Nội.
Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt
Nam về lĩnh vực chân tay giả.
Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại
giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia.

15


Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần
thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ
Việt - Mỹ.
Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ
Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ
trao đổi về quan hệ giữa hai nước.
Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới
bình thướng hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt
Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích,
những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng.
Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế
thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình
bình thường hoá quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị
tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai
đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công
bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải
thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch
trình này. Ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là:
Một là tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh
với Hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam

ra khỏi Camuchia.
Hai là Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên
thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực
với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong
khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994,
mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại
16


Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng
các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam.
Ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai
đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành
chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ.
Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo
mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước.
Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá
quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế,
đồng thời góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam
Á.

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT MĨ TỪ NĂM 1995 ĐẾN
NAY
17


2.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến thay đổi
với những nét nổi bật là :

Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa
cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới
một Trật tự mới. Có người dự đoán thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều năm,
có thể từ 30 đến 50 năm, bởi sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này mang đặc điểm
mới, quan trọng nhất là không trải qua chiến tranh như các cục diện trước kia. Thế
giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước
Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc.
Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực duy
nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ
thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng tình hình thế giới lại
không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của
Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không
muốn sự phát triển của thế giới theo chiều hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính
sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới
mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ.
Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ
rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân
sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh
thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt.
Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải
quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng.
18


Từ những thay đổi của tình hình thế giới, tuy Trật tự quốc tế mới chưa hình
thành, nhưng trong gần một thập kỷ sau chiến tranh lạnh, có thể thấy những xu thế
mới phát triển nổi bật trên thế giới là :
2.1.1. Xu thế phát triển lấy kinh tế trọng điểm
Bài học của thời kỳ chiến tranh lạnh đã chứng tỏ phương pháp quan hệ quốc tế
lấy đối đầu chính trị - quân sự là chủ yếu không còn phù hợp, phải chịu nhiều tổn

thất hoặc thất bại như hai nước Mỹ - Xô và "một bị thương một bị mất". Trong khi
đó, phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh về kinh tế - chính trị là chính lại thu được
nhiều tiến bộ, kết quả như các nước Đức, Nhật và NIC. Sự hưng thịnh hay suy vong
của một quốc gia được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp của quốc gia đó, mà chủ
yếu là thực lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật.
Vì vậy, sau chiến tranh lạnh, tất cả các quốc gia đều đang ra sức điều chỉnh
chiến lược phát triển và tập trung mọi sức lực vào ưu tiên phát triển kinh tế. Trong
thời điểm hiện nay, kinh tế trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế, cạnh tranh
sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức
chủ yếu trong đọ sức giữa các cường quốc. Những cân nhắc về địa - kinh tế trên mức
độ nào đó đã vượt quá tính toán về địa - chính trị.
Các nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một
nền sản xuất phồn vinh, một nền tài chính lành mạnh và một nền công nghệ có trình
độ cao và đó mới là cơ sở để xây dựng sức mạnh thật sự của mỗi quốc gia.
Trong tác phẩm "Sự hưng thịnh và suy vong của các cường quốc" xuất bản
năm 1988, Paul Kennedy nhà sử học Mỹ đã nghiên cứu nguyên nhân quy luật hưng
thịnh và suy vong của các nước lớn trên thế giới trong 500 năm gần đây. Tác giả nhấn
mạnh, các nguồn lực kinh tế, sự phát triển khoa học - kỹ thuật, sức mạnh quân sự
tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, quyết định vị trí quyền lực của đất nước
19


trong cục diện thế giới. Sự phát triển hay suy thoái của các yếu tố này tạo nên sự
hưng thịnh và suy vong không chỉ của các cường quốc mà cả các quốc gia khác trong
một thế giới phức tạp đan xen và phụ thuộc nhau.
2.1.2. Các nước lớn điều chỉnh quan hệ với nhau theo chiều hướng xây dựng quan
hệ bạn bè chiến lược ổn định và cân bằng hướng về lâu dài.
Đây là đặc điểm chủ yếu và nổi bật của quan hệ giữa các nước lớn trong thời kỳ
sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh ấy là to lớn và sâu sắc. Xuất phát từ lợi ích chiến
lược căn bản của mình, các cường quốc tiến hành điều chỉnh lại chính sách đối ngoại

để tìm chỗ đứng tốt nhất, xây dựng khuôn khổ quan hệ mới ổn định lâu dài, xác lập
các điều kiện quốc tế có lợi hơn, mở rộng hệ thống an ninh quốc gia, tạo ra không
khí quốc tế để xây dựng kinh tế nước mình như mục tiêu chủ yếu trong quá trình
điều chỉnh
Tháng 7/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đề ra ba nguyên tắc đối với Nga
là "Tin cậy lẫn nhau, cùng có lợi, hướng về lâu dài". Với quan hệ Nhật - Trung, ông
đưa ra bốn nguyên tắc : "Hiểu biết lẫn nhau, tăng cường đối thoại, mở rộng hợp
tác, hình thành trật tự chung" (9/1997). Về phía Trung Quốc, đầu tháng 11/1997,
khi sang thăm Nhật Bản, Thủ tướng Lý Bằng lại đưa ra năm nguyên tắc trong quan hệ
với nước này là :"Tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; tìm kiếm điểm chung, gác lại bất đồng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề
bất đồng; tăng cường đối thoại, tăng thêm hiểu biết lẫn nhau; tạo thuận lợi và
cùng có lợi, phát triển sự hợp tác kinh tế; hướng tới tương lai, đời đời hữu nghị".
Cuối tháng 10/1997, khi sang thăm Mỹ, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Giang Trạch
Dân đã đổi bốn câu trong cuộc gặp cấp cao đầu tiên vào năm 1993 "Tăng thêm tín
nhiệm, giảm bớt phiền phức, phát triển hợp tác, không đối đầu" thành "Tăng
cường hiểu biết, mở rộng nhận thức chung, phát triển hợp tác, cùng tạo ra tương
lai". Giữa hai nước Liên bang Nga và Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp gỡ cao cấp.
20


Trong bản tuyên bố thứ 5, hai nước chủ trương xây dựng quan hệ đối tác chiến lược,
thực hiện chính sách láng giềng hữu nghị. Tổng thống Pháp Jacques Chirac chủ
trương xây dựng "Quan hệ đối tác toàn diện" giữa Pháp và Trung Quốc. Ông cũng
kiến nghị với châu Âu thiết lập "Quan hệ đối tác đặc biệt với Nga...".
2.1.3. Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới.
Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng
10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự
tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ phát
triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế giới từ

1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các
nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền
kinh tế thế giới tăng lên.
Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các
nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền
kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng
sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60%
tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn thông,
sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ thống liên lạc toàn
cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được tăng lên hàng triệu lần. Không có hệ thống này
thì không thể ra đời những công ty xuyên quốc gia và không thể có cuộc cách mạng
về tài chính trên thế giới.
2.1.4. Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá
trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới.
21


Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập
nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa
Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên minh kinh
tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là Thị trường chung
châu Âu hình thành từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên
minh châu Âu (EU), thành lập liên minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ
và phát hành đồng tiền chung EURO vào tháng 1/1999. 24 nước công nghiệp phát
triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD vào tháng 12/1960 và nay
bao gồm 29 nước. ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do thương mại Bắc
Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do.

Trước đó, năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La
tinh (SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều
kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở Đông Nam
Á, tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở thành ASEAN - 10 và hình thành
một khu vực thương mại tự do (ASEAN-AFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy
nước ở Nam Á và Ấn Độ, Pakixtan, Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa
Manđivơ thành lập Hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) với mục tiêu là góp phần
phát triển kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam Á thông qua sự hợp tác nhiều
bên
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có
khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển
không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh
tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao
sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế mà với khả năng của
mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có
nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách

22


thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu
mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã
khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực
này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà
nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự
thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu Á
vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,...
Năm 1989, ở châu Á - Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác
kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Thái Bình

Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và châu Á (ASEM) gồm 25
nước ở châu Âu và châu Á cộng thêm Uỷ viên Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm
họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn trên thế giới .
Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền
kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai
trò của Châu Á - Thái Bình Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong
việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới.

2.2. LỢI ÍCH CỦA HAI BÊN KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO
Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so
với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần
cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ
23


kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong
những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa
hai nước được khai thông.
2.2.1. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới"
thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình
hình thế giới.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có
tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho
chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân
chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội
đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe

doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở
rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó".
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là
còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ
đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái
Bình Dương là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế
giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu Á,
khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu Á - Thái
Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng
quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao
gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản,
Trung Quốc.
Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng
tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga
24


thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn
là điều mà Mỹ đáng quan tâm.
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu
thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân
đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại
và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là
con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành
một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ
về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh
lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là
vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến
đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung
Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều

đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố
vị trí của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường
quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà
bình" với các nước XHCN còn lại.
Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng,
chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc
gia ở khu vực này.
Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục
tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến
lược toàn cầu hay chính sách với Đông Nam Á của siêu cường này. Một trong những
mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là
muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác
truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong

25


×