Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn phú đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.31 KB, 20 trang )

Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới. Trong
bối cảnh đó, nước ta có những cơ hội để phát triển, đồng thời đang và sẽ gặp không ít khó
khăn, thách thức. Khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, xuất phát điểm phát triển của Việt
Nam còn quá thấp. Gần 80% dân số sống ở nông thôn và trên 70% lao động nông nghiệp,
nông thôn, trong đó đa phần có kỹ năng nghề rất thấp; sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng
tính truyền thống. Trong cơ cấu GDP, nông nghiệp vẫn chiếm 25%, trong khi đó ở các nước
phát triển, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chỉ còn 3%. Điều này cho thấy để bắt kịp trình
độ của thế giới, Việt Nam phải nỗ lực rất nhiều để tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ, trong đó quan
trọng nhất là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn. Trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2020 được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua,
một trong những giải pháp có tính đột phá thực hiện được mục tiêu đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, ngày 28-10-2008 Chính phủ đã ra Nghị
quyết số 24/2008/NQ- CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó có
mục tiêu: “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao động
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân
cư nông thôn tăng lên 2,5 lần so với hiện nay”. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong
Chương trình hành động của Chính phủ là: “Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về
đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải pháp đào tạo cho
bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp, thủ
công nghiệp và dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp tục sản xuất nông
nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất nông nghiệp hiện đại;
đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở”.
Để cụ thể hoá Chương trình hành động, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020”(gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà


nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Một trong những mục tiêu quan trọng mà Nghị quyết Trung ương 7 đề ra là: xây dựng
nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại, có cơ cấu kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp dịch vụ theo quy
hoạch, nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân chủ được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng
cường. Để thực hiện được các mục tiêu trên tạo hành lang thuận lợi trong tiến trình thực
hiện xây dựng nông thôn mới, một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải giải
quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra ở nông thôn hiện nay.
Công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho nông dân tại Huyện Phú Vang nói chung và
thị trấn Phú Đa nói riêng đang có nhiều bất cập, chất lượng nguồn lao động ở nông thôn còn
quá thấp, thu nhập của người lao động chưa cao, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn ngày càng lớn... Xuất phát từ vấn đề này, tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Biện
pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tại
thị trấn Phú Đa”.
1


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng công tác đào tạo nghề và
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, từ đó đề ra những giải pháp đào tạo nghề và
giải quyết việc làm bền vững phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của thị trấn Phú Đa nhằm
góp phần xoá đói, giảm nghèo đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn xã.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn tại thị trấn Phú Đa huyện Phú Vang năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 .
4. Đối tượng nghiên cứu:

- Lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa.
5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện khoá luận này tôi đã sử dụng phương
pháp sau:
5.1. Các phương pháp: phân tích, tổng hợp.
- Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa dựa trên các báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ KT- XH của địa phương và của Hội nông dân thị trấn.
5.2. Các phương pháp khảo sát, đánh giá thực trạng đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa hiện nay
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp điều tra: Thăm dò ý kiến của lao động nông thôn trên địa bàn thị trấn
Phú Đa
5.3. Các phương pháp khác:
- Phương pháp thống kê: xử lý các thông tin, số liệu điều tra .
6. Cấu trúc khoá luận
Khoá luận được cấu trúc gồm 3 phần:
+ Phần thứ nhất: Mở đầu.
+ Phần thứ hai: Nội dung, gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Chương II: Thực trạng công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn ở thị trấn Phú Đa.
Chương III: Các giải pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa.
+ Phần thứ ba: Kết luận và khuyến nghị.
- Tài liệu tham khảo.
- Phụ lục.

2



Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Nghề :
Có nhiều khái niệm khác nhau:
Từ điển tiếng Viết năm 1998: “Nghề là một việc chuyên làm, theo sự phân công của
xã hội”
Pháp: Nghề là một loại lao động có thói quen, có kỹ năng, kỹ xảo của một người để
từ đó tạo ra phương tiện sống.
Đức: Nghề là một dạng lao động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính cá nhân, trong
đó con người đóng vai trò là chủ thể của hoạt động để thoả mãn nhu cầu của xã hội và cá
nhân
Nghề là công việc làm, công việc đó sẽ tạo ra giá trị vật chất hay giá trị tinh thần nuôi
sống bạn và gia đình bạn, đóng góp các giá trị hữu ích cho cá nhân, người thân và xã hội
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa một hệ thống giá trị như: Tri thức nghề, kỹ
năng, kỹ xảo, truyền thống nghề…
1.1.2. Đào tạo nghề :
Đào tạo là việc huấn luyện, giảng dạy, tập huấn cho một nhóm người, một tổ chức,
một xã hội về một vấn đề, và nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định.
Đào tạo nghề là một quá trình tác động có chủ đích của con người, nhằm phát triển
tay nghề ( dạy nghề ), có đạo đức, văn hoá nghề nghiệp (nhân cách) của họ
Thể hiện ở các mặt: Kiến thức, Kỹ năng, Thái độ; Phù hợp với yêu cầu của thị trường
lao động và phát triển nguồn lực quốc gia
1.1.3. Việc làm:

Việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều
kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó .
Điều 13, chương II (việc làm) Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam có ghi
rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm”.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những hoạt động
lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
1.1.4. Tạo việc làm
Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và
chất lượng lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức
lao động.
Cơ chế tạo việc làm: Cơ chế ba bên, đòi hỏi sự tham gia tích cực của người lao động;
3


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

Nhà nước và người sử dụng lao động.
Cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích cực của cả 3 phía :
Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân người lao động. Sao cho cơ hội
việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị
trường đúng lúc, đúng chỗ.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM.
1.2.1. ĐTN góp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
Con người yếu tố hết sức quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng giáo
dục-đào tạo, trong đó có đào tạo nghề, người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kỹ
năng nghề của mình, qua đó nâng cao năng suất lao động, góp phần phát triển kinh tế. Như
vậy có thể thấy, đào tạo nghề là một thành tố và là thành tố quan trọng nhất, có ý nghĩa

quyết định phát triển nguồn nhân lực. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng
cạnh tranh cao trên thị trường lao động, song song với các cơ chế chính sách sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo
nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
- Thứ nhất: Một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên
ít nhất ba trụ cột cơ bản:
- Áp dụng công nghệ mới,
- Phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nhờ có đào tạo nghề, người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kỹ năng nghề
của mình
- Thứ hai, vai trò của đào tạo nghề nghiệp đối với chất lượng nguồn nhân lực xuất
phát từ khía cạnh lợi ích cá nhân của con người ( con người lao động). Nội dung chính
đào tạo nghề nhằm tích luỹ những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, những cái có thể mang
lại lợi ích lâu dài sau đó và đó là nhân tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Chính sự đầu tư
này, dưới góc độ xã hội, tạo ra chất lượng nguồn nhân lực (và vốn nhân lực cá nhân và
nhiều cá nhân) và do đó, cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân, thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế. Học vấn và kỹ năng nghề càng cao, thu nhập càng tăng và ngược lại.
- Thứ ba, đào tạo nghề tạo ra sự “tranh đua”xã hội và trong bối cảnh cạnh tranh gay
gắt trên thị trường lao động, những người học vấn thấp, kỹ năng, tay nghề thấp hoặc không
có nghề khó có thể cạnh tranh được so với những người có trình độ, có kỹ năng nghề cao.
Khi đó, họ sẽ trở thành nhóm người “yếu thế”, phải làm những việc thu nhập thấp, thậm chí
không kiếm được việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn . Nhưng nếu những người
này không tự tạo cho họ năng lực, nâng cao “vốn nhân lực”của mình thì sớm hay muộn, họ
cũng lại bị “bật”ra khỏi thị trường lao động. Muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, buộc
những người đó, bằng cách này hay cách khác phải nâng cao “vốn nhân lực”của mình và
4


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa


cách hiệu quả nhất là đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề. Như vậy, đào tạo nghề trở thành
một nhân tố làm giảm số lượng những người “yếu thế”trên thị trường lao động và như vậy,
xét ở khía cạnh quốc gia, an sinh xã hội được đảm bảo hơn, do nghèo đói, do không có việc
làm...
- Thứ tư, vai trò của đào tạo nghề đối với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
được thể hiện thông qua chính nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh
tế công nghiệp đòi hỏi phải phát triển đội ngũ lao động có kiến thức, có kỹ năng nghề
nghiệp cao, có khả năng làm chủ được các phương tiện, máy móc, làm chủ được công nghệ.
Quá trình công nghiệp hoá dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và thể chế
còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật. Đây có thể nói là nhu
cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải đầu tư cho đào tạo nghề.
- Thứ năm, vai trò của đào tạo nghề tác động trực tiếp tới đảm bảo an sinh xã hội,
nhất là đối với nhóm lao động nông thôn, lao động nghèo. Thông qua việc trang bị các
kiến thức, kỹ năng tối thiểu về nghề nghiệp từ các khoá đào tạo ngắn hạn, người lao động
nông thôn, nông dân đã có khả năng nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập, thoát được
nghèo một cách bền vững. Qua thực tiễn gần 2 năm thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao
động nông thôn của Chính phủ ( đề án 1956), ở nhiều địa phương, sau khi người nông dân
được học nghề, năng suất vật nuôi, cây trồng được nâng lên từ 1,5- 2 lần; chất lượng và
phẩm cấp sản phẩm hàng hoá cũng được nâng lên. Điều quan trọng nữa, thông qua các khoá
đào tạo, người nông dân, nhất là những chủ trang trại, chủ hộ, được trang bị những kiến
thức về khởi sự doanh nghiệp, nên sau khi khoá học đã mạnh dạn tổ chức sản xuất theo
hướng sản xuất hàng hoá, thu hút thêm lao động tại địa phương vào làm việc. Đây chính là
sự tác động rõ nhất, trực tiếp nhất của đào tạo nghề đối với an sinh xã hội ở nông thôn nước
ta.
Nhận thức rõ được vai trò của, đào tạo nghề nghiệp đối với việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và qua đó tạo ra sự phát triển tương lai, Chính phủ của nhiều nước đã có
chiến lược dài hạn phát triển và đầu tư thoả đáng ngân sách cho lĩnh vực này. Chẳng hạn,
hàng năm, Mỹ đã chi khoảng 5%-7% GDP cho việc đào tạo và phát triển nhân tài, các nước
công nghiệp phát triển khác cũng đầu tư cho giáo dục- đào tạo rất lớn, như Hà Lan 6,7%

GDP, Pháp 5,7%, Nhật 5,0... Ngoài ra, Chính phủ các nước công nghiệp phát triển còn có
chính sách huy động sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn đầu tư
cho phát triển giáo dục nghề nghiệp, nhất là phát triển các trung tâm đào tạo chất lượng cao,
tạo ra những nhà kỹ thuật, những nhà phát minh, sáng chế hàng đầu trong các lĩnh vực khác
nhau của nền kinh tế. tạo cho Nhật bản một vị thế là cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên
thế giới.
1.2.2. Sự cần thiết của công tác giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Trong quá trình CNH - HĐH các khu công nghiệp lớn sẽ hình thành và phát triển thu
hút nhiều lao động có chất lượng cao. Tình hình đó đặt lao động trước thách thức muốn có
việc làm với chất lượng cao nhằm ổn định cuộc sống bản thân và gia đình cần đáp ứng đòi
hỏi của công nghệ cao. Do đó, tạo việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, hạn chế các tiêu
cực xã hội, góp phần bình ổn xã hội.
Tạo việc làm cho lao động nông thôn đồng nghĩa cũng có nghĩa là tạo điều kiện cho
lao động được tiếp cận với các cơ hội đào tạo và phát triển, nâng cao trình độ nhận thức.
Điều này không chỉ có lợi cho lao động nông thôn mà còn cho cả gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội. Vì vậy, để tạo ra điều kiện tiền đề giúp cho lao động nông thôn có việc làm phù
5


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

hợp, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các chủ doanh nghiệp tuyển chọn lao
động. Tạo điều kiện bình đẳng cho tất cả mọi người về cơ hội đào tạo, trả công lao động,
các cơ hội làm việc…
Vậy tạo việc làm cho lao động nông thôn là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó
cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả vấn đề xã hội. Có việc làm sẽ xoá
đói giảm nghèo, giảm các tệ nạn xã hội. Tạo việc làm cho lao động nông thôn ở Việt Nam –
một nước nghèo, đất chật người đông, đa số lao động chưa qua đào tạo và chủ yếu là lao
động nông nghiệp là một việc thực sự khó khăn nhưng thật sự cần thiết và cấp bách. Do đó,
tạo việc làm cho lao động nông thôn không chỉ là tạo ra phương tiện sống cho họ mà còn là

yếu tố quyết định để lao động tự khẳng định chính mình với gia đình và xã hội.

6


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA.
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRẤN PHÚ ĐA
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Phú Đa là một địa phương đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang đầm phá của huyện Phú
Vang, nằm dọc theo phá Tam Giang nên chịu ảnh hưởng lớn về thời tiết trong phát triển
kinh tế - xã hội. Thị trấn Phú Đa có 9 thôn, trong đó có 6 thôn chuyên sản xuất Nông
nghiệp, 02 thôn vừa sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, 01 thôn chủ yếu bằng
nghề ngư nghiệp. Trình độ dân trí thấp, cuộc sống định canh định cư chưa ổn định, còn một
số bộ phận dân cư đang còn sống lênh đênh trên mặt nước (bằng thuyền, đò). Vấn đề ăn ở,
sinh hoạt, kiếm sống của họ đều ở trên thuyền hoặc đò nay đây mai đó, chính vì vậy nó đã
tác động rất lớn đến việc công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho Nông dân để phát
triển kinh tế tại địa phương.
Tổng diện tích tự nhiên của thị trấn là: 2.996,66 ha trong đó:
- Đất Nông nghiệp: 1.312 ha gồm có:
+ Đất trồng lúa: 902,8 ha.
+ Đất trồng cây hàng năm: 1.242,36 ha.
+ Đất rừng sản xuất: 230 ha.
- Đất Nuôi trồng thuỷ sản: 148 ha.
- Đất phi Nông nghiệp: 1.162,95 ha.
- Đất chưa sử dụng: 261,74 ha.
- Đất khu dân cư: 260,42 ha.

Tổng dân số của thị trấn: 2.719 hộ/ 11.744 khẩu.
Tổng số lao động toàn thị trấn: 6.312 lao động.
2.1.2. Điều kiện KT – XH
Về đời sống và kinh tế-xã hội: Một số lao động nông nhàn không có nghề phụ thường
hay la cà ở các quán cà phê để giết thời gian, các hộ dân sống ở thôn Định Cư do ít hiểu biết
về các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thiếu văn hoá, nhận thức hạn chế, nên
thường đông con, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp
luật, tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, cờ bạc...
Đối với các hộ dân đã được lên định cư nhưng nơi ở mới chưa được đầu tư đồng bộ về
các công trình hạ tầng như nước thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của các
hộ dân thôn Định Cư.
Về trình độ học vấn còn thấp, đặc biệt trong đó có 1 thôn đầm phá nên ảnh hưởng
không nhỏ về tình hình phát triển kinh tế của địa phương. Trong năm 2012, tình hình kinh tế
của thị trấn gặp không ít những khó khăn.
Về an sinh, giáo dục và văn hoá: đa phần con em các hộ thôn Định Cư trước đây mù
chữ do cuộc sống lênh đênh trên sông nước, nên ít hiểu biết các đường lối, chủ trương của
7


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Đối với các hộ dân đã được lên định cư nhưng vẫn
chưa được chú trọng đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp nên công việc nơi ở mới chưa
có, mọi sinh hoạt thay đổi, không biết làm gì để duy trì cuộc sống, họ đành quay trở lại đò
làm ăn sinh sống.
Trên cơ sở các nội dung chương trình, kế hoạch phát triển KT – XH của Đảng uỷ –
HĐND thị trấn đã đặt ra và trên cơ sở tình hình thực hiện, báo cáo của UBND cho thấy
UBND thị trấn đã tập trung chỉ đạo các HTX nông nghiệp, các tổ hợp, các cá nhân, hộ gia
đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh phát triển dịch vụ chủ động đẩy nhanh tiến
độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi kịp thời đưa các giống cây, giống con cho hiệu quả

kinh tế cao vào trong lao động sản xuất kinh doanh, động viên khuyến khích các cá nhân, hộ
gia đình sản xuất dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp mở rộng thêm nhà xưởng thu hút thêm lao
động tạo việc làm cho con em địa phương.
Bảng 1: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu của thị trấn năm 2011
và 6 tháng đầu năm 2012
Năm 2011

6 tháng đầu năm 2012

Kết quả

Tỉ lệ %
đạt
được

Kết quả

Tổng giá trị các ngành và lĩnh vực

220,078 tỷ

133,2

127,347 tỷ

49,5%

Sản lượng lương thực có hạt

6.031 tấn


92,7

2.868 tấn

44,1%

Tổng sản lượng đánh bắt và NTTS

265,6 tấn

115,5%

81,7 tấn

29,4%

Tổng thu ngân sách

4.200 triệu

146,6%

2.653 triệu

63,1%

Tổng chi ngân sách

3.400 triệu


119,3%

1.485 triệu

35,3%

GDP bình quân đầu người đạt

838 USD

128,9%

-

-

Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn

14,8

211,4%

-

-

Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên

0,916


120%

-

-

Xuất khẩu lao động

09 người

90%

28 người

85%

Tạo việc làm mới

255 người

102%

315 người

105%

Nội dung

Tỉ lệ %

đạt được

Nguồn: Báo cáo tình hình KTXH năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012
Qua bảng số liệu và kế hoạch đặt ra của thị trấn thì 2011 và 6 tháng đầu năm 2012
được đánh giá là có nhiều biến động. Tuy tình hình thời tiết khí hậu có nhiều diễn biến phức
tạp, khô hạn kéo dài, không có nguồn nước để gieo cấy do đó giá trị sản xuất nông nghiệp
chưa đạt kế hoạch đề ra. Năm 2011 và đầu năm 2012 Việt Nam bị ảnh hưởng của dịch cúm
gia cầm, lỡ mồm, long móng ở gia súc đã làm cho giá trị sản xuất nông nghiệp giảm mạnh,
Phú Đa là một trong những vùng cũng bị ảnh hưởng khá nặng vì vậy làm phá vỡ kế hoạch
phát triển chăn nuôi của địa phương.
Bình quân thu nhập đầu người đạt 13,700.000đ/người/năm (tăng 9,6% so với kế
hoạch).

8


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA.
2.2.1 . Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay.
Hiện nay, tổng số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân
là trên 47 triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong nông thôn chiếm gần 70%, làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong
nông thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo
nghề có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Trong Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khoá X) về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn có đề ra: “Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu
tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài

hoà giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành
thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất
là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông
thôn…. Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân
lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn; phấn đấu đến năm 2020
lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào
tạo đạt trên 50%”.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là việc làm có tính xã hội và nhân văn sâu sắc,
do đó đã nhận được sự đồng thuận rất cao của người dân, của các cấp, các ngành, các tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại
chúng. Tư tưởng bao trùm của các chủ trương, đề án của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề
cho nông dân và lao động nông thôn là góp phần tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại trong
nông nghiệp; tạo ra những lao động có kiến thức, có kỹ năng sản xuất hiện đại, có khả năng
thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế trong sản xuất nông nghiệp.
2.2.2. Thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại thị trấn Phú
Đa.
2.2.2.1. Mục tiêu công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm của thị trấn Phú Đa:
Đảng uỷ đã ban hành chương trình hành động số: 04-CTrHĐ/ĐU ngày 15/6/2011 của
Đảng ủy về việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho Nông dân trên địa bàn. Trên cơ sở
đó HĐND, UBND đã ban hành các kế hoạch về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn giai đoạn 2011 – 2015 với mục tiêu cụ thể như sau:
Mục tiêu được đặt ra là phải đào tạo cho bà con nông dân đang gặp khó khăn một
ngành nghề mới phù hợp với thực tế tại địa phương để góp phần khắc phục khó khăn trước
mắt cho bà con, cũng như tạo nên sự chuyển biến nhận thức của bà con nông dân trong công
tác học nghề cho bản thân mình để tự chuyển đổi ngành nghề, cũng như tự tạo được việc
làm sau khi được đào tạo.
2.2.2.2. Về công tác đào tạo nghề:
Thị trấn Phú Đa là một trong những địa phương thuần nông bà con nông dân sống chủ
yếu bằng nghề nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo nghề khá cao, do đó thời gian nông nhàn thường không có việc làm để tăng thu nhập cải

thiện đời sống cho gia đình .

9


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

Thực tế ở Phú Đa hiện nay đang đặt ra rất nhiều khó khăn, thách thức phải giải quyết
trong quá trình phát triển. Trước hết, là việc sản xuất nông nghiệp, nhất là lúa, hoa màu,
nuôi trồng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, thời vụ nên rất bấp bênh, khả năng
chống chịu với thiên tai dịch bệnh kém..., cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp phát triển bền
vững chưa bảo đảm, từ hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống thuỷ lợi từ công trình đầu mối
đến kênh mương máng, hệ thống thu hoạch, bảo quản cơ sở chế biến. Thiệt hại vật chất do
thiên tai, dịch bệnh hàng năm rất lớn. Có năm lên tới trên, dưới 1%GDP, tác động chủ yếu
đối với ngành nông, thuỷ sản. Cùng với thiên tai, lũ lụt có chiều hướng gia tăng trong mấy
năm gần đây do tác động của biến đổi khí hậu, dịch cúm gia cầm, dịch lỡ mồm long móng,
dịch lợn tai xanh... liên tiếp xảy ra.
Đây là vấn đề cốt lõi đối với dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là đối với nhóm
lao động cần phải chuyển sang làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp, công nghiệp. Nếu không
gắn được với việc làm sẽ dẫn đến việc người nông dân sẽ không hưởng ứng tham gia học
nghề nữa và nguồn lực xã hội sẽ bị lãng phí. Do đó, trong quá trình đào tạo nghề rất cần
thiết có sự kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ sở sản xuất để họ một
mặt tham gia vào quá trình đào tạo; mặt khác có thể tạo cơ hội cho người học được tham gia
vào quá trình kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp, hợp tác xã từ khi còn học và sau khi
học nghề xong là có thể làm việc được ngay với nghề nghiệp của mình.
Một vấn đề khác là diện tích đất trồng lúa đang giảm mạnh trong khi dân số hàng năm
vẫn đều đặn tăng, tình trạng này diễn ra trong một thời gian khá dài, khiến cho nông dân rơi
vào tình trạng không có đất canh tác. Phần lớn số tiền đền bù mà người nông dân nhận được
chủ yếu được dùng vào việc mua sắm, xây dựng nhà ở, rất ít người dùng khoản tiền này để
đầu tư chuyển sang ngành nghề khác. Tình hình trên đã dẫn đến tình trạng số lao động dôi

dư (chủ yếu là từ tuổi 35 – 40), tình trạng nông dân được tuyển dụng vào làm việc tại các
khu công nghiệp rất ít do trình độ lao động, tay nghề không đáp ứng được yêu cầu của các
doanh nghiệp,
Đi liền với vấn đề trên là tập trung chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn. Hiện
nay chúng ta đang thực hiện xây dựng nông thôn mớ, trong đó lao động làm việc trực tiếp
trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản chiếm 51,9% số lao động cả nước. Mục tiêu của chúng ta
trong 20 năm tới giảm xuống còn 30% số lao động lâm nông nghiệp, còn lại phải chuyển
sang ngành nghề khác phi nông nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, Đảng uỷ, HĐND, UBND thị trấn đã đề ra các chương trình
hành động về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn, bằng nhiều hình
thức và giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương như: tổ chức dạy nghề tại
chỗ cho lượng thanh niên để chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ dân thôn Định Cư cũng
như ở các vùng khác trong địa phương, tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thuỷ
sản theo mô hình “xen ghép” cho các hộ đang nuôi trồng thuỷ sản hệ thống đầm Phá Tam
Giang.
Một thực trạng đối với lao động của thị trấn Phú Đa hiện nay là trình độ dân trí các hộ
dân một số vùng còn thấp; đa phần các hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất, không tự tạo việc làm;
một số hộ dân thôn Định Cư khi định cư lên bờ rồi nhưng không có việc làm ổn định và phù
hợp, nên vẫn quay trở lại đò làm nghề đánh bắt thuỷ sản-một nghề chủ đạo trước khi họ
được định cư, thu nhập rất hạn chế. Mặt khác, ý thức của họ về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản chưa cao nên họ đã sử dụng các phương tiện khai thác mang tính huỷ diệt như rà điện,
sây mùng, nghề đáy, sáo với mắt lưới rất nhỏ để khai thác triệt để các loại thuỷ sản làm cho
nguồn lợi thuỷ sản trên đầm phá ngày càng cạn kiệt. Một số nông dân làm ruộng khi mất
10


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

mùa đời sống gặp nhiều khó khăn không có nghề nghiệp ổn định phải đi làm ăn xa cuộc
sống hết sức bấp bênh, đồng ruộng bỏ hoang, các ao nuôi bị bỏ hoang do thiếu vốn, nợ ngân

hàng không trả được.
Một vấn đề nữa cần quan tâm là một số con em đến tuổi trưởng thành, lập gia đình
tách hộ, không đủ điều kiện làm nhà ở và không có nghề nghiệp gì ngoài nghề đánh bắt thuỷ
sản nên lại xuống thuyền đi làm ăn trên sông nước, làm cho số hộ dân thôn Định Cư tăng
lên so với số điều tra ban đầu. Số hộ làm nông do không có nghề nghiệp được đào tạo, khi
xảy ra mất mùa phải đi làm thuê với nhiều nghề nghiệp không ổn định .
Kết quả trong năm 2011 và 6 tháng 2012 đã phối hợp mở đào tạo nghề cho 480 lao
động.
Trong đó:
- May công nghiệp: 03 lớp gồm 150 lao động.
- Chăm sóc cây cảnh: 01 lớp gồm 80 lao động.
- Nghề thêu ren: 02 lớp gồm 110 lao động.
- Tổ chức tập huấn: 05 lớp gồm 150 lao động.
Hầu hết những người được đào tạo nghề và tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn đều
tập trung vào lực lượng lao động nông thôn đang trực tiếp lao động sản xuất tại địa phương,
nội dung tập huấn chủ yếu là kỹ thuật nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi gia súc
gia cầm... Đây là cơ hội để cho lao động nông thôn tiếp cận với khoa học kỹ thuận để họ
vận dụng vào công việc của mình nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả nuôi trồng và
tăng thu nhập cho bản thân và gia đình.
Số liệu lao động qua đào tạo trong năm 2011 và 2012
Lĩnh vực đào tạo

Số
người

Số người đang áp
dụng kiến thức
vào công việc

Tỉ lệ %


Số người có
nhu cầu đào
tạo nâng cao

Tỉ lệ %

Sư phạm

23

21

91.3

22

95.7

Dịch vụ

27

25

92.6

27

100


Kỹ thuật

21

21

100

21

100

Xã hội

16

14

87.5

15

93.8

Nông nghiệp

45

45


100

45

100

Chăn nuôi thú y

42

41

97.6

42

100

Nuôi trồng thuỷ sản

250

245

98

250

100


Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết những người được đào tạo đã có kinh nghiệm thực
tiễn, kết hợp với kiến thức được học, họ đã vận dụng rất tốt vào công việc, kết quả mang lại
rất lớn và hiệu quả rất cao. Họ đều có nhu cầu muốn học tiếp để nâng cao kiến thức chuyên
môn của mình.
Qua thí điểm một số mô hình đào tạo nghề cho lao động vùng chuyên canh ở một số
địa phương cho thấy, kỹ năng nghề của người nông dân đã được nâng lên, do đó năng suất
lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, trong quá trình đào
tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về hội nhập kinh tế, về các tiêu
11


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm, bước đầu còn được trang bị cho người học những kiến
thức về khởi sự doanh nghiệp.
Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn
khác trong thôn, làng và địa phương tham gia các khoá đào tạo nghề được tổ chức tại địa
bàn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề cho nông dân và lao động
nông thôn, không chỉ thuần tuý dạy nghề mà còn tư vấn, hướng dẫn người nông dân cách
thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản phẩm hoặc là tiếp nhận lao
động sau khi được học nghề. Tại những địa bàn nghèo, các doanh nghiệp ngoài việc hỗ trợ
kinh phí đào tạo nghề, còn hỗ trợ đầu tư các công trình xã hội, như trường học, xây dựng
đường liên thôn, liên bản…, góp phần xoá đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây
dựng nông thôn mới.
2.2.2.3. Về công tác giải quyết việc làm:
Cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích cực của cả 3 phía :
Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân người lao động. Sao cho cơ hội
việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị
trường đúng lúc, đúng chỗ.

Chất lượng cuộc sống có thể hiểu là mức độ phúc lợi xã hội và sự thoả mãn một số
nhu cầu của con người. Có việc làm và có thu nhập do công việc đem lại được coi là hai yếu
tố quan trọng trong sáu yếu tố cốt lõi cấu thành chất lượng cuộc sống (là sức khoẻ, giáo dục,
công việc làm, tiền bạc, quan hệ xã hội, môi trường). Lao động nông thôn cũng phải tự
khẳng định mình là có ích cho gia đình và cho xã hội, đồng thời cân bằng cuộc sống. Có
việc làm sẽ có thu nhập để trang trải cuộc sống trước hết cho bản thân mình, cho con, cho
các thành viên trong gia đình. Tạo việc làm phù hợp cho lao động nông thôn còn giúp không
chỉ có thu nhập mà còn có thể yên tâm về tư tưởng và tránh khỏi thất nghiệp vì thất nghiệp
là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội.
Với đặc thù địa phương có diện tích sản xuất nông nghiệp và diện tích đầm phá khá
lớn nên có nhiều gia đình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể như nghề làm
nấm rơm và nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản. Tại địa phương đã có nhiều hộ giàu lên các
mô hình này, sản phẩm sản xuất và nuôi trồng của địa phương được vận chuyển đem đi tiêu
thụ rất nhiều nơi. Công việc này thu hút lực lượng lao động nông thôn rất lớn:
Việc chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần đẩy nhanh
tiến độ xoá đói giảm nghèo trong bộ phận dân cư thôn Định Cư nói riêng và của cả khu vực
dân cư trong địa phương nói chung chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm. Vì vậy,
để thực hiện công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn thị trấn đạt được kết
quả tốt nhất cần phải có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, địa
phương cần phải đưa ra các giải pháp tháo gỡ các vướng mắc đảm bảo phù hợp với thực tế,
có tính khả thi cao, theo hướng sau khi đào tạo nghề cho bà con cần tạo việc làm cho bà con
sau khi đã được đào tạo; từng bước chuyển đổi ngành nghề, tăng thu nhập, cải thiện đời
sống; chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, công khai các thông tin để phối hợp, kết
hợp trong quản lý hành chính nhà nước về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đất ở, đất nuôi
trồng thuỷ sản, quy hoạch khai thác đánh bắt thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái, các
công trình kết cấu hạ tầng dân sinh kinh tế, các chương trình đào tạo nghề, tạo việc làm
trong nông nghiệp nông thôn…liên quan đến tính đồng bộ của cả hệ thống quản lý của nhà
nước về đầu tư, về chính sách kinh tế xã hội, chương trình trọng điểm thực hiện kế hoạch
của trung ương và các địa phương có chương trình dự án. Đồng thời, chưa có sự quan tâm
chưa đúng mức của một số lãnh đạo chính quyền địa phương đối với công tác đào tạo nghề

và giải quyết việc làm.
12


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

Hầu hết các dự án hỗ trợ việc làm được triển khai trong các lĩnh vực chăn nuôi gia
súc, gia cầm, thuỷ hải sản, cải tạo môi trường, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền
thống, dịch vụ…, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho lao động trên địa bàn
toàn thị trấn. Thông qua các dự án vay vốn, nhận thức về việc làm, nghề nghiệp của nông
dân cũng có sự thay đổi. Từ chỗ trước đây trông chờ được vào công việc nhà nông thì nay
một bộ phận lao động nông thôn đã chủ động tìm hiểu, tự tạo việc làm cho chính mình và
giúp cho người khác có việc làm, thu nhập và gắn bó với đồng đất quê hương. Thông qua
các dự án, sản xuất phát triển, đã xuất hiện thêm nhiều điển hình lao động mới, các chủ cơ
sở sản xuất, trang trại nhỏ có thành tích sản xuất, kinh doanh giỏi, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương
Để đẩy mạnh các hoạt động tư vấn về dạy nghề và việc làm cho lao động nông thôn, 2
năm qua địa phương đã tạo việc làm mới cho 570 người và xuất khẩu lao động 37 người,
giải quyết việc làm tại chỗ cho hàng nghìn lao động nữ góp phần nâng cao cuộc sống cho
lao động nông thôn cải thiện đời sống, tăng thu nhập trong thời gian nông nhàn.
Để góp phần giảm thiểu tỷ lệ lao động nông thôn không có việc làm hoặc thiếu việc
làm, thời gian tới, Đảng uỷ, HĐND, UBDN tiếp tục bám sát chỉ đạo các cấp, các đoàn thể
đồng thời tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để người lao động có nhận thức đầy
đủ về các chủ trương, chính sách của Nhà nước về dạy nghề và giải quyết việc làm. Tiếp tục
các hoạt động hỗ trợ, trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, mở rộng và nâng
cao hiệu quả cho vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ Ngân hàng Chính sách Xã hội
đối với các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, các trang trại, các hộ gia đình có khả năng tạo việc
làm. Thực hiện có hiệu quả việc tạo việc làm cho lao động. Tiếp tục nhân rộng các mô hình,
điển hình nông dân làm kinh tế giỏi, thanh niên sản xuất - kinh doanh giỏi để giải quyết
được nhiều việc làm cho lao động ngay tại cơ sở, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội ở địa phương…
2.2.2.4. Nguyên nhân:
- Nhận thức xã hội về học nghề chưa cao, còn coi trọng bằng cấp bệnh “sính đại
học”còn phổ biến đã tác động không nhỏ đến công tác tuyển sinh và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn.
- Công tác tư vấn tuyển sinh hàng năm chưa sâu rộng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ đồng
bộ giữa các cơ sở dạy nghề chính quyền địa phương; đặc biệt là vai trò của địa phương,
Phòng Giáo dục- Đào tạo, Phòng Lao động- Phòng Thương binh và Xã hội, Hội Đoàn.
- Nguồn vốn đầu tư cho dạy nghề còn ít, việc xã hội hoá đào tạo nghề còn chậm, cơ sở
trường lớp, trang thiết bị còn thiếu thốn lạc hậu, đầu tư xây dựng trung tâm dạy nghề ở
huyện thành lập muộn năm 2010 chưa đáp ứng yêu cầu về quy mô, chất lượng đào tạo hiện
nay.
- Công tác tuyên truyền vận động bà con nông dân tham gia học nghề tại thị trấn chưa
được quan tâm; công tác định hướng cho thanh niên, học sinh đến tuổi trưởng thành không
thi vào được các trường Đại học, Cao đẳng chưa được chú trọng; thanh niên trong thị trấn
nhất là đang ở trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp rất nhiều nhưng lại không thích học
nghề. Một phần do trình độ dân trí chưa đồng đều, nhận thức chưa đầy đủ về lợi ích của việc
học nghề, dù chi phí học nghề được Nhà nước hỗ trợ. Hơn nữa, đời sống của một bộ phận
nông dân còn gặp nhiều khó khăn nên họ không mặn mà với học nghề. Đặc biệt ở những
ngành kỹ thuật công nghiệp như điện, sửa chữa thiết bị máy móc... rất ít người lao động ở
nông thôn muốn tham gia học vì sau khi đào tạo song họ không biết làm ở đâu.

13


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
3.1.1. Mục tiêu tổng quát:
- Cụ thể hoá đề án 1956 của Thủ tướng chính phủ về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến 2020 và tìm cách giải quyết việc làm cho lao động sau khi đã được đào tạo
nghề;mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi nghề
nghiệp cho số lao động dân thôn Định Cư và số lao động nông nhàn trong địa phương. Phấn
đấu đạt tiêu chí nông thôn mới theo Nghị quyết của Đảng uỷ thị trấn đề ra.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể:
+ Phấn đấu năm 2012 đào tạo từ 300-350 lao động nông thôn đặc biệt ưu tiên khu vực
dân Định Cư.
+ Tăng cường tuyên truyền phổ biến các chính sách đào tạo nghề đến từng hộ dân.
+ Tìm hiểu nhu cầu thị trường và liên kết với một số doanh nghiệp làm hàng thủ công
để tổ chức đào tạo và thực hiện sản xuất tại thị trấn.
+ Tìm hiểu những ngành nghề phù hợp để bà con tận dụng được lợi thế tại địa phương
tự tổ chức sản xuất, nuôi trồng.
+ Kết hợp với các nhà máy, doanh nghiệp đào tạo và giới thiệu, tư vấn việc làm cho
bà con nông dân sau khi đã hoàn thành chương trình đào tạo.
3.2. CÁC BIỆN PHÁP
3.2.1. Đào tạo các nghề kỹ thuật và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn
tại nhà máy trên địa bàn.
Thuận lợi:
- Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề ở Thừa Thiên Huế đang phát
triển, một số nhà máy rất cần công nhân, nên số lượng đầu vào là không hạn chế với điều
kiện đảm bảo tay nghề trong quá trình làm việc, do đó lao động có thể lựa chọn chỗ làm
thích hợp với khả năng của mình.
- Thu nhập ở các doanh nghiệp này tương đối ổn định phù hợp với nhu cầu chi tiêu tại
địa phương
Khó khăn:

- Do Phú Xuân là xã khó khăn, địa bàn cách các khu công nghiệp, cụm công nghiệp
khá xa phương tiện đi lại không đầy đủ, một số không biết đi xe máy, nên rất khó khăn cho
người lao động, đồng thời khi làm việc tại các nhà máy thì người lao động nông thôn vẫn
chưa quen với tác phong công nghiệp, ý thức làm việc tập thể còn hạn chế,...
Biện pháp :
- Sàng lọc tuyển chọn độ tuổi khi triển khai đào tạo ban đầu.
14


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

- Phối hợp cùng với nhà máy tạo điều kiện đưa đón bà con đi làm việc tại nhà máy
bằng xe đưa đón công nhân với sự hỗ trợ một phần của nhà máy về chi phí đi lại.
- Kêu gọi các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp tư nhân có điều kiện về tổ chức sản xuất
tại xã để bà con sau khi đào tạo thuận lợi trong việc kiếm việc làm.
- UBND thị trấn phải có chính sách ưu đãi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về mở
cơ sở sản xuất tại địa phương (cho thuê mặt bằng giá ưu đãi, và các điều kiện khác...)
3.2.2 . Đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản để giải quyết việc làm
dựa trên thế mạnh của địa phương.
Thuận lợi :
- Đa số bà con nông dân thị trấn Phú Đa vùng Định Cư, cũng như bà con nông dân
đang làm ruộng họ đều là những người có nhiều kinh nghiệm trong việc nuôi trồng thuỷ hải
sản, do trước đây vừa làm ruộng, buôn bán đều tham gia nuôi tôm ở đầm phá nước lợ.
- Một số ao nuôi tôm cao triều không hiệu quả nay có thể chuyển sang nuôi theo mô
hình xen ghép (tôm, cua, cá..)
Khó khăn :
- Phần lớn các hộ trước đây nuôi tôm do bị dịch bệnh nên nợ tiền ở các ngân hàng là
rất lớn. Khả năng huy động vốn để cải tạo ao nuôi, và đầu tư mới là rất khó khăn.
Biện pháp:
- Uỷ ban nhân dân thị trấn cần đề nghị với UBND huyện cũng như Ngân hàng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn Phú Vang cần có chính sách; khoanh nợ đối với các hộ trước
đây nuôi tôm hiện nay không có khả năng chi trả.
- Đề xuất với Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện tạo điều kiện cho bà con sau khi
được đào tạo nghề vay vốn ưu đãi theo quy định của đề án 1956.
- Đề xuất UBND huyện bố trí kinh phí hỗ trợ cải tạo ao nuôi bằng nguồn vốn ngân
sách.
- Tạo điều kiện giao đất, chuyển đổi những diện tích trồng lúa không hiệu quả sang
làm ao nuôi cá.
3.2.3. Tổ chức đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho
nông dân.
Thuận lợi :
- Nông dân sau khi kết thúc vụ mùa thì thời gian nông nhàn khá nhiều, mặt khác tận
dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có trong dân để tổ chức các lớp ĐTN tại chỗ như: Chăn
nuôi thú y, làm nấm, theu ren, làm nón lá... Ưu thế của việc tổ chức ĐTN và giải quyết việc
làm tại chỗ:
- Chi phí đầu tư ban đầu thấp
- Kỹ thuật không phức tạp, dễ làm.
- Thời gian thu hồi vốn nhanh (một chu kỳ khoảng 30-35 ngày ).
- Sản phẩm làm ra dễ tiêu thụ.
- Giá cả, và đầu ra tương đối ổn định.
- Tranh thủ được thời gian nông nhàn.
15


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

- Diện tích sử dụng không lớn
- Giải quyết được việc làm cho nhiều trong gia đình.
Khó khăn :
Trong quá trình sản xuất, thu hoạch nếu gặp thời tiết không thuận lợi, địa phương bị

ngập lụt không đi lại được, thì sản phẩm không tiêu thụ được nên dễ bị hư hỏng, hao hụt
mất giá.
- Quy mô sản xuất nhỏ.
Biện pháp :
Đề xuất UBND huyện, và các cơ quan chức năng như; Phòng Công thương huyện tạo
điều kiện giới thiệu sản phẩm, hỗ trợ kinh phí khuyến công của huyện, tỉnh trong việc đăng
ký thương hiệu, Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện tạo điều kiện vay vốn ưu đãi để tổ chức
thực hiện triển khai một cách rộng rãi trên địa bàn thị trấn, chủ động tìm kiếm thị trường để
tiêu thụ sản phẩm một cách ổn định

16


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1/ Kết luận
Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn thị
trấn Phú Đa, mặc dù mới được triển khai, nhưng được sự quan tâm chính quyền địa phương
nên đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Các ban ngành đoàn thể của địa phương đã có
những hoạt động thiết thực, sáng tạo, đã đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy
nghề thích hợp. Một số mô hình đã bước đầu triển khai có hiệu quả, như mô hình đào tạo
nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cho các cây công nghiệp như
thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp); mô hình dạy nghề
cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa địa phương, các cơ sở dạy nghề và các
làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa
địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư)… Hoạt động dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn không chỉ huy
động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn thu hút được sự tham gia của nhà viện nghiên cứu,
các trường đại học; sự tham gia giảng dạy của những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp;

những nghệ nhân, người có tay nghề cao trong các làng nghề…
Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối tượng được thụ hưởng
chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ việc xác định được nhu
cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đến
việc tham gia đầy đủ các khoá đào tạo.
Để các hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn thực sự hiệu quả,
tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải có sự “vào cuộc”mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương.
Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động; góp
phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp uỷ đảng, sự
chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã
hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn đạt được kết quả
mong muốn.
Thứ hai, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải sát với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh
doanh và có hiệu quả thiết thực. Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đã có những chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng hiện có,
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra và chưa gắn với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, nhiều
trường hợp doanh nghiệp phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được. Một số địa phương, nhu
cầu về công nhân kỹ thuật công nghiệp tại các huyện thị khá cao, trong khi ngành nghề đào
tạo cho lao động nông thôn của tỉnh lại thiên về kỹ thuật nông nghiệp. Có tỉnh, hệ thống các
khu công nghiệp phát triển nhanh, nhu cầu công nhân lành nghề về công nghiệp nặng tăng
nhưng tỉnh lại mở các lớp may công nghiệp, trồng cây cảnh, hoặc nuôi trồng thuỷ sản. Bên
cạnh đó, có tình trạng đúng chuyên môn đào tạo nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp
không đáp ứng được nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Thực trạng đó đã gây ra tình trạng
vừa thừa, vừa thiếu không đáp ứng được nhu cầu lao động thực tế của địa phương. Nhiều
lao động đã được đào tạo nghề nhưng khi làm việc tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp

lại không đáp ứng đủ tiêu chuẩn. Do đó, thời gian tới công tác đào tạo nghề cho lao động
17


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

nông thôn cần phải bám sát với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa
phương, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh để có hiệu quả thiết thực.
Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao động
nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh tác…),
nên việc tổ chức các khoá đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình thức đào
tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải gắn với học
liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
Thứ tư, chú trọng phát triển các ngành nghề thủ công (tự đào tạo, bồi dưỡng tại địa
phương). Đào tạo nghề ở nông thôn không thể không chú trọng việc phát triển các ngành
Thứ năm, để những người nông dân trở thành những lao động nông nghiệp hiện đại,
song song với việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cần trang bị cho họ những
kiến thức tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, về thị trường, kiến thức kinh doanh trong điều kiện
hội nhập. Ngoài ra, còn phải đào tạo về tác phong làm việc cho người lao động (tác phong
công nghiệp…).
Thứ sáu, sau khi đào tạo nghề cho người nông dân thì chính quyền địa phương cũng
cần phải giải quyết vấn đề đầu ra sản xuất bởi nếu không giải quyết được đầu ra của sản
xuất thì hiệu quả đào tạo bằng không .
2/ Khuyến nghị
2.1 Đối với Đảng và Nhà nước:
- Trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay. Đảng, Nhà nước, cần có chủ trương, chính sách “Phổ cập nghề cho người lao
động “ đặc biệt là lao động nông thôn .
- Tiếp tục thực hiện chính sách cho người học nghề được vay vốn trong thời gian học
và giải quyết việc làm sau khi tốt nghiệp (phần lớn những người học nghề có hoàn cảnh

kinh tế gia đình khó khăn, muốn học nghề để tìm kiếm, tự tạo việc làm ổn định cuộc sống )
- Cần ban hành chính sách khuyến khích DN tham gia dạy nghề (chi phí đào tạo được
tính trong chi phí giá thành; được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được trích
một phần thu nhập trước thuế để thực hiện đào tạo nghề).
2.2 Đối với cơ quan chức năng:
- Cần có cơ chế để các cơ sở, doanh nghiệp nhận lao động qua đào tạo và yêu cầu các
doanh nghiệp phải có kế hoạch tự đào tạo hoặc liên kết với các trường, trung tâm dạy nghề
để tổ chức đào tạo, sát hạch tay nghề và cấp chứng chỉ nghề cho số lao động chưa qua đào
tạo.
- Quy định một số nghề người hành nghề phải qua đào tạo có chứng chỉ , bằng cấp
mới được hành nghề (nhằm giúp người dân ý thức được học nghề thì mới để có cơ hội tìm
được việc làm ổn định và để nâng chất lượng nguồn nhân lực
Trong quá trình thực hiện,cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa
phương, các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp.Thực tế thời gian qua cho thấy, ở nơi nào có sự
phối hợp tốt giữa các đối tác này thì đào tạo nghề đạt được kết quả rất tích cực, người dân
có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của người dân được nâng lên, giảm nghèo bền
vững.

18


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2011 và 6
tháng đầu năm 2012. Phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế của thị trấn Phú Đa.
2) Báo cáo kết quả hoạt động Hội nông dân thị trấn Phú Đa năm 2011 và 6 tháng đầu
năm 2012.
3) TS. Trần Thị Thu : Tạo việc làm cho lao động nữ , nhà xuất bản lao động và xã hội.
4) Luật dạy nghề năm 2006

5) Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đến năm 2020
6) Đề án phát triển đào tạo nghề của Tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2010- 2015 và
định hướng đến năm 2020

19


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

MỤC LỤC
A.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
B
1.1
1.1.1
.
1.1.2
.
1.1.3
.
1.1.4
.
1.2
1.2.1
.

1.2.2.
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Cấu trúc báo cáo
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀVÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Nghề

1
1
2
2
2
2
2
3

3
3
3

Đào tạo nghề

3

Việc làm

3

Tạo việc làm

3

SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC ĐTN VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
ĐTN góp thúc đẩy phát triển KT-XH và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

4
4

Sự cần thiết của công tác giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA
ĐẶC ĐIỂM CỦA THị TRấN PHÚ ĐA
Điều kiện tự nhiên
Điều kiện kinh tế - xã hội
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT Việc LÀM CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THị TRấN PHÚ ĐA

Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiện nay
Thực trạng công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA:

5
7
7
7
7
9
9
9

14

3.1.

PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA:

14

3.1.1.

Mục tiêu tổng quát:

14

3.1.2.


Mục tiêu cụ thể:

3.2.

CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TẠI THỊ TRẤN PHÚ ĐA:

14

3.2.1.

Đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn tại các nhà máy:

14

3.2.2.

ĐTN và tập huấn nuôi trồng thuỷ sản để giải quyết việc làm dựa trên thế mạnh của địa
phương:

15

3.2.3:

Tổ chức ĐTN và giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân:

15

C.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:

17

1.

Kết luận:

17

2.

Khuyến nghị

18
20


Biện pháp nâng cao công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm lao động nông thôn tại thị trấn Phú Đa

Tài liệu tham khảo

19

Mục lục

21

21




×