Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.18 KB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN VIT HNG

BIệN PHáP NGĂN CHặN TRONG GIAI ĐOạN
XéT Xử SƠ THẩM - Lý LUậN Và THựC TIễN
áP DụNG TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2014


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

PHAN VIT HNG

BIệN PHáP NGĂN CHặN TRONG GIAI ĐOạN
XéT Xử SƠ THẩM - Lý LUậN Và THựC TIễN
áP DụNG TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. Nguyn Ngc Chớ

H NI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phan Việt Hùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM .................... 11
1.1.

Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm ......................................... 11

1.2


Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ...................................................... 14

1.2.1

Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn xét xử ...................................................................................... 14

1.2.2

Mục đích- Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm .................................................................. 21

1.2.3.

Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ....... 27

1.3.

Những biện pháp ngăn chặn được quy định trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm ................................................................................ 32

1.3.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người ............ 32
1.3.2.

Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam .... 35

1.3.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi
nơi cư trú ........................................................................................ 39
1.3.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp

bảo lĩnh .......................................................................................... 40
1.3.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ............................................. 41
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 44


Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 01/01/2008
ĐẾN HẾT NĂM 2012 ..................................................................... 45
2.1.

Thực trạng...................................................................................... 45

2.2.

Nguyên nhân của thực trạng ......................................................... 50

Kết luận chương 2 ...................................................................................... 54
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM ................................. 56
3.1.

Dự báo về tình hình tội phạm trong thời gian tới ........................ 56

3.1.1. Dự báo về tình hình phạm tội trong thời gian tới.............................. 56
3.1.2. Những loại tội phạm sẽ xảy ra nhiều trong thời gian tới................... 57
3.2.


Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn ...................................................................... 59

3.2.1. Tòa án cấp sơ thẩm cần nhận thức đúng đắn về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn ........................................................................ 59
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống những quy định của pháp luật có liên quan
đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ....................................... 61
3.2.3. Cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện tốt những qui định của
pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ............. 72
3.2.4. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ và đảm bảo các điều kiện
công tác nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ...... 76
3.2.5. Giải pháp về tăng cường công tác chỉ đạo và kiểm sát, kiểm tra
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự và tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng
nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật là điều kiện để
bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. .............................. 78


3.2.6. Giải pháp về việc xử lý các trường hợp vi phạm .............................. 81
Kết luận chương 3 ...................................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 91


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung

BLHS


Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

CP

Chính phủ

CQĐT

Cơ quan điều tra

CT

Chỉ thị

HĐXX

Hội đồng xét xử

LTTHS

Luật tố tụng hình sự


NQ

Nghị quyết

NXB

Nhà xuất bản

SL

Sắc lệnh

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

Tố tụng hình sự

TW

Trung ương

UBTVQH

Ủy ban thường vụ quốc hội

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Số lượng các biện pháp ngăn chặn được áp dụng tại
Toà án Hà Nội

50

Bảng 2.2. Số lượng, tỷ lệ các biện pháp ngăn chặn được áp
dụng tại Toà án Hà Nội


50


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Các biện pháp ngăn chặn (BPNC) là những chế định vô cùng quan
trọng được quy định tại BLTTHS. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các
BPNC trong thực tế hoạt động tố tụng sẽ tác động rất lớn đến việc giải
quyết có hiệu quả nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự (TTHS) là phát hiện
nhanh chóng và xử lý kịp thời, công minh đối với những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục được thực hiện,
đồng thời không làm oan người vô tội, bảo đảm được các quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi công dân.
Trải qua quá trình lịch sử lập pháp từ sau khi giành được chính quyền
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những BPNC cũng đã được Nhà
nước ta quy định rải rác hoặc xen kẽ trong một số văn bản về hình sự hoặc tố
tụng hình sự như các Lệnh, Sắc lệnh, Luật, Sắc luật… và các bản Hiến pháp
năm 1946, 1959, 1980 cũng đều có quy định về quyền cơ bản của công dân.
Tuy nhiên, những chế định về BPNC chỉ được quy định chi tiết, cụ thể ở lần
pháp điển hóa đầu tiên BLTTHS năm 1988 (được Quốc hội thông qua ngày
29 tháng 6 năm 1988 và sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990.
1992 và 2000) tại Chương V. Đến lần pháp điển hóa thứ 2 vào năm 2003, chế
định BPNC được quy định tại Chương VI của BLTTHS. Về các BPNC và căn
cứ áp dụng các BPNC, Điều 79 BLTTHS năm 2003 cơ bản vẫn giữ nguyên
như quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988, đó là:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố

1


tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [26].
Kế thừa và phát triển, BLTTHS năm 2003 ra đời cũng đã quy định cụ
thể, chi tiết hơn về thẩm quyền của những cơ quan THTT và những người
THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC.
BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định về từng BPNC và các căn cứ,
thời hạn, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những
người THTT trong việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế đối với từng BPNC. Mặc
dù BLTTHS quy định về 6 BPNC (như đã nêu trên) nhưng không phải cơ
quan THTT nào cũng có thẩm quyền như nhau trong việc áp dụng, hủy bỏ,
thay thế BPNC, ví như: CQĐT có quyền áp dụng tất cả các BPNC nhưng đối
với biện pháp bắt (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội
quả tang, bắt người đang có lệnh truy nã), tạm giữ, tạm giam thì tùy trường
hợp phải được phê chuẩn của VKS (trong một thời hạn cụ thể nhất định).
Đối với VKS thì có quyền áp dụng, phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ
một số BPNC do CQĐT ban hành. Riêng đối với Tòa án thì chỉ có quyền áp
dụng các BPNC sau: bắt (bắt và tạm giam để bảo đảm cho việc xét xử và thi
hành án, bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án); tạm giam; cấm đi khỏi nơi
cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm mà không có
quyền áp dụng biện pháp tạm giữ. Mọi quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay thế
BPNC của Tòa án (của Chánh án, Phó Chánh án; Thẩm phán là Chánh tòa,
Phó Chánh tòa phúc thẩm TANDTC; HĐXX; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa)
đều không cần phê chuẩn của VKS.

Có thể nói, BPNC là một đặc thù của tố tụng hình sự. Trong đó biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng, là

2


vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, nó tác động trực tiếp đến
quyền con người, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân. Việc bị áp dụng những biện pháp đó đồng thời ảnh hưởng đến sinh
mạng chính trị, danh dự, uy tín của con người và cả dư luận xã hội.
Ở mỗi giai đoạn tố tụng hình sự, việc áp dụng BPNC nào là thuộc thẩm
quyền của cơ quan THTT ở giai đoạn đó. Thực tiễn xét xử cho thấy, khi hồ sơ
vụ án hình sự do VKS chuyển đến, thông thường Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng
BPNC do cơ quan THTT trước đó áp dụng, ví dụ như trước đó bị can đang bị
tạm giam mà tính đến ngày xét xử thời hạn tạm giam đã hết thì Tòa án ra
Lệnh tạm giam, nếu trước đó bị can được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú thì Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp này, rất ít khi Tòa án áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác.
Mặc dù BLTTHS quy định về các BPNC như vậy nhưng thực tế các cơ
quan THTT và đặc biệt là Tòa án rất ít khi áp dụng 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú thì Tòa án thường áp dụng trong trường hợp trước đó bị can, bị cáo đang
được áp dụng biện pháp này hoặc Tòa án hủy bỏ biện pháp tạm giam do cơ
quan THTT trước đó áp dụng và thay thế bằng biện pháp này.
Về thẩm quyền áp dụng BPNC của Tòa án, các biện pháp bắt và tạm
giam (để bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án), tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là các biện pháp
được áp dụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa
cũng có thể quyết định bắt giữ đối với người gây rối trật tự tại phiên tòa
(nhưng đây là chỉ là biện pháp xử lý hành chính trong tố tụng hình sự) hoặc

trong trường hợp người có hành vi hành hung người khác tại phiên tòa đến
mức cấu thành tội phạm thì thực hiện việc bắt người phạm pháp quả tang theo
quy định của Điều 82 BLTTHS. Riêng đối với biện pháp bắt tạm giam bị cáo
sau khi tuyên án là do HĐXX quyết định.

3


Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện
pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp lành mạnh, mang bản chất nhân dân,
hoạt động thực sự có hiệu quả. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của
Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới"; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020" xác định: "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư
pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng
thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp" [3]. Và tiếp đó, Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị "về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" cũng đã khẳng định:
…, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm;… Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với
một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [4].
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò, vị trí rất quan trọng
của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Và thực tiễn xét xử ở giai đoạn sơ thẩm cũng cho
thấy, rất ít khi Tòa án áp dụng biện pháp bắt tạm giam đối với bị can, bị cáo
đang được tại ngoại. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải thực sự cần

thiết và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, nếu không thực sự ảnh
hưởng đến việc xét xử và thi hành án thì không cần bắt tạm giam. Trong
trường hợp bị cáo bị xử phạt tù thì sau khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ bắt
bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam (vì chế độ giam giữ đối với người
chấp hành hình phạt tù khác với chế độ tạm giam). Mặt khác, trong quá trình

4


chuẩn bị xét xử đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, qua nghiên cứu hồ sơ,
nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam (do bị cáo có thể được
hưởng chế định án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự hoặc có thể
bị xử phạt không phải là hình phạt tù) thì Tòa án có thể quyết định hủy bỏ
biện pháp tạm giam và thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác mà
không nhất thiết phải đợi xét xử để trả tự do cho bị cáo (mặc dù thời gian tạm
giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt nhưng như vậy
cũng không có lợi cho bị cáo).
Tuy nhiên, đối với 2 BPNC là bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm thì gần như không được các cơ quan THTT áp dụng. Các cơ quan
THTT thường "ngại" khi áp dụng 2 biện pháp này, có thể một phần là do chưa
có sự hướng dẫn cụ thể, chi tiết từ các cơ quan có thẩm quyền. Đây là 2
BPNC có thể được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam và có thể nói đây
là 2 biện pháp ít nghiêm khắc hơn tạm giam, được áp dụng trong trường hợp
không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập
của cơ quan THTT.
Trong xu thế phát triển chung của thế giới cũng như việc thực hiện tinh
thần chỉ đạo của Đảng, Tòa án cần phát huy hơn nữa vai trò và vị trí của mình
trong công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là cần chủ động, mạnh dạn trong
việc áp dụng các BPNC không phải là tạm giam, nhất là đối với những tội

phạm về kinh tế hoặc liên quan đến vấn đề bồi thường mà bị can, bị cáo đã
bồi thường thiệt hại, sửa chữa, khắc phục hậu quả.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: "Biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm - lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Hà Nội" làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học với mong muốn
cố gắng nghiên cứu một cách tổng thể về các BPNC do Tòa án áp dụng trong

5


giai đoạn xét xử sơ thẩm được quy định tại BLTTHS hiện hành, từ đó đưa ra
những đề xuất nhằm khắc phục những thiếu sót, nhược điểm trong công tác
xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hơn nữa tính hiệu quả,
tính thực tiễn của vấn đề này để phục vụ tốt hơn nữa cho các hoạt động tư
pháp hình sự ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Các BPNC là những chế định rất quan trọng trong BLTTHS. Về các
BPNC được quy định trong BLTTHS năm 1988 và sau này là BLTTHS năm
2003, đã có rất nhiều giáo trình giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng như Trường
Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật của các
học viện như Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh, Trường Cao đẳng Kiểm sát
Hà Nội, Học viện Tư pháp đã đề cập, nghiên cứu về các BPNC, không những
thế các BPNC còn là đối tượng nghiên cứu của một số tài liệu chuyên khảo
hoặc bình luận như: "Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự" (Viện
Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992); "Bình luận khoa học
Bộ luật tố tụng hình sự" (Võ Khánh Vinh- chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
2004); "Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự" (Nxb Chính trị
quốc gia, 1994) của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; "Những điều cần
biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật" (Nxb Chính trị quốc gia,
1993) của Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên; "Các biện pháp ngăn

chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng" (Nxb Công an nhân dân,
1995) của Nguyễn Vạn Nguyên; các bài viết của các tác giả Nguyễn Vạn
Nguyên, Mai Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Văn Điệp, Vũ Gia Lâm, Nguyễn
Nông, Vũ Tiến Trí... đăng trên các tạp chí, đặc san chuyên ngành, và các
BPNC còn là đối tượng nghiên cứu để hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực
tiễn như các thông tư liên ngành, đơn ngành, các chỉ thị, công văn hướng dẫn
của các cơ quan Công an, VKS, Tòa án, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng

6


thẩm phán TANDTC v.v... Tuy nhiên, các bài viết, sách… đó hầu hết chỉ đề
cập chủ yếu đến các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc các BPNC nhưng
do CQĐT, VKS áp dụng ở giai đoạn trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can. Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện về đề tài "BPNC trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm-lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội".
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra các luận giải khoa học và
một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả áp dụng
của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với việc áp dụng, hủy bỏ, thay
thế các BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và nhất là trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân và vì dân. Qua đó, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách Tư pháp và hoàn thiện pháp luật của nước ta giai đoạn từ nay đến năm
2020, bảo đảm quyền dân chủ của công dân theo đúng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những
BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn
tập trung vào những vấn đề sau:
- Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về các BPNC trong TTHS Việt
Nam. Trong đó nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về các BPNC; nghiên cứu và phân tích pháp luật thực định về các
BPNC, từ đó đưa ra các khái niệm về các BPNC nói chung và các khái niệm
về từng BPNC nói riêng.

7


- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực
cho đến hết năm 2012; Tham khảo việc áp dụng BPNC trong pháp luật tố
tụng hình sự ở một số nước trên thế giới, tìm hiểu nguyên nhân của những
vướng mắc, tồn tại, bất cập giữa các quy định luật và thực tiễn.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả trong
việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế BPNC của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội..
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thẩm quyền áp dụng, đối tượng
áp dụng, thời hạn áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các
BPNC của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà
Nội, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu nhiều hơn về những điểm bất
cập, vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các BPNC.
3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
BPNC là những chế định lớn và phức tạp trong luật TTHS, vì vậy trong
phạm vi của một luận văn thạc sĩ khó có thể nghiên cứu và giải quyết hết mọi
vấn đề. Vì vậy, luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung của các
quy định về thẩm quyền, đối tượng, thời hạn, thủ tục áp dụng các BPNC trong

giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội với thực trạng áp dụng
chúng, nghiên cứu nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong quá trình
áp dụng lý luận vào thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật thực định về các BPNC do Tòa án áp dụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội từ khi BLTTHS có
hiệu lực đến hết năm 2012.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật;

8


- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu
cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê Tư pháp…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Điểm mới của luận văn thể hiện ở chỗ: đây là lần đầu tiên, các BPNC
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện, kết quả của quá trình nghiên cứu không những tìm ra các nhược điểm
trong công tác xây dựng và thực thi pháp luật mà còn đưa ra được những kiến
nghị đề xuất nhằm góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật
TTHS, góp phần thúc đẩy việc áp dụng các quy định về các BPNC trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vào thực tiễn thực thi pháp luật được nghiêm minh,
chính xác, áp dụng đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người đến mức tối đa
trong chế độ dân chủ của chúng ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về những vấn đề lý luận và thực

tiễn về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo LTTHS Việt Nam, nó có
những đóng góp nhất định về mặt khoa học cho việc nghiên cứu, áp dụng trong
thực tiễn (tuy nhiên vẫn còn bị hạn chế vì mới chỉ dừng lại ở cấp độ một Luận
văn thạc sĩ), đồng thời góp phần tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân
dân, cán bộ, công chức nhất là những người THTT thuộc cơ quan Tòa án trên
địa bàn thành phố Hà Nội về thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thời hạn
áp dụng, thủ tục áp dụng (kể cả hủy bỏ hoặc thay thế) các BPNC của Tòa án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định về việc áp
dụng, hủy bỏ, thay thế các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, góp phần
nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm nhưng

9


cũng đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, tôn trọng quyền con người.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Chương 2: Thực trạng áp dụng các BPNC trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ
01/01/2008 đến hết năm 2012.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc áp
dụng BPNC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

10



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

1.1. Khái quát về giai đoạn xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm là một trong những giai đoạn của Tố tụng hình sự,
trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án,
quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật về tội phạm và hành vi của
người thực hiện tội phạm. Vì vậy, xét xử là giai đoạn trung tâm của TTHS.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
trong đó có thể nói giai đoạn xét xử là giai đoạn giữ vai trò quan trọng. Tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện những chứng cứ được kiểm tra
công khai và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, Tòa án xác định
một người có tội hay không có tội; nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì
đó là tội gì, được qui định tại điều khoản nào trong Bộ luật hình sự. Ngoài
việc ra bản án, Tòa án còn có quyền ra các quyết định cần thiết khác nhằm
giải quyết vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn luật định mà không có kháng cáo
kháng nghị thì bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng nếu bị
kháng cáo kháng nghị thì vụ án sẽ được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Như vậy, có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu do Tòa án cấp có
thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật (ngoại trừ một số trường
hợp xét xử sơ thẩm nhưng không phải lần đầu do vụ án sau khi xét xử xong bị
hủy và buộc phải điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại); được tiến hành sau khi
Tòa án nhận được Cáo trạng quyết định truy tố bị can (Quyết định truy tố bị

11



can trong trường hợp thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển
đến. Do vậy, mọi tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ được Tòa án xem xét,
kiểm tra nhằm đưa ra các phán quyết khách quan, phù hợp với quy định của
pháp luật. Tất cả những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong giai đoạn điều
tra, truy tố có trong hồ sơ được Tòa án đưa ra kiểm tra công khai tại phiên tòa
thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên
trong giai đoạn này Tòa án phải giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án trên
cơ sơ Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Như vậy, Xét xử sơ thẩm phải giải quyết các vấn đề:
- Xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của nhà nước,
của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành giải quyết vụ
án bằng việc ra bản án, quyết định xác định bị cáo có tội hay không phạm tội;
quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác dựa trên cơ sở các chứng
cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng khác.
- Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ
thẩm, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra quyết định đình chỉ vụ
án, tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
- Qua việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án
đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa, đưa ra phán quyết cuối cùng.
- Thông qua việc xét xử và đặc biệt là thông qua phiên tòa công khai,
các phiên tòa lưu động, giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần phổ biến, giáo dục,
nâng cao ý thức pháp luật, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp

12



luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
Với vai trò và ý nghĩa đặc biệt như trên, việc xác định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định thẩm
quyền xét xử Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo.
Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem
xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án ra bản
án nhân danh Nhà nước và Bản án của Tòa án cụ thể đường lối, chính sách,
quan điểm của Nhà nước đối với xử lý người có hành vi phạm tội.
Trong Luật tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng, thẩm quyền xét xử của
Tòa án bao gồm quyền xem xét và giải quyết và quyền giải quyết vụ án, ra
bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án, quyết định
tạm đình chỉ vụ án…Theo đó, thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có
liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội
dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét hay nói
cách khác là giới hạn xét xử của Tòa án; thẩm quyền nội dung là quyền hạn
giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án cần phải dựa vào các căn cứ sau:
- Đường lối, chính sách của Đảng;
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
- Trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán cũng như Điều tra
viên, Kiểm sát viên;
- Biên chế và cơ sở vật chất;
- Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm…
Dựa vào những căn cứ trên, tại Phần thứ ba-chương XV-Bộ luật tố tụng
hình sự quy định về Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo sự việc, theo
lãnh thổ và theo đối tượng.


13


1.2 Đặc điểm, ý nghĩa, căn cứ việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1.2.1 Đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn xét xử
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế, trong đó có biện pháp ngăn chặn.
Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng được quy định tại
Bộ luật tố tụng hình sự. Năm 1988 khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam đầu
tiên ra đời các biện pháp ngăn chặn đã được quy định tại chương V và một số
điều ở các chương khác. Kế thừa và phát triển, năm 2003 Bộ luật tố tụng hình
sự được chỉnh lý và các biện pháp ngăn chặn được quy định tại chương VI.
Khi Bộ luật tố tụng hình sự chưa ra đời, các biện pháp ngăn chặn được
quy định xen kẽ trong các văn bản khác nhau về tổ chức bộ máy Nhà nước
như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24.11.1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm
phán; Sắc lệnh số 13/SL ngày 20.7.1946 về tổ chức bộ máy Tư pháp và Công
an; Sắc lệnh 85/SL ngày 07.11.1950 về cải cách bộ máy tư pháp.
Sau năm 1954, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Luật 103SL/005 ngày 20.5.1957 về việc đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Sắc luật 02-SL
ngày 18.6.1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định
những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp; Nghị định
301-Ttg ngày 10.7.1957 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Sắc luật số 02/SL ngày 15.3.1976 cuả Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định các biện pháp ngăn chặn như:
bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam...
Các văn bản pháp luật hình sự thời kỳ trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự dùng thuật ngữ các biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung các biện pháp


14


ngăn chặn quy định trong luật tố tụng hiện hành. Cách gọi đó không phản ánh
chính xác nội dung, phạm vi và mục đích của biện pháp ngăn chặn vì ngoài
biện pháp ngăn chặn thì biện pháp cưỡng chế của Tố tụng hình sự còn có các
biện pháp khác như: biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, biện pháp bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án...
Luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định hệ thống các biện pháp ngăn
chặn tương đối đầy đủ bao gồm: “bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo” [26, Điều 61]. Năm 2003, Bộ
luật tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung vẫn kế thừa và giữ nguyên các biện pháp
ngăn chặn được quy định trong luật tố tụng hình sự năm 1988.
Những biện pháp ngăn chặn được áp dụng với mục đích ngăn chặn
không cho tội phạm xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội
tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, đồng thời, việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn còn nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu
vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những
người phạm tội hoặc người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo,
bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng... Với mục đích như vậy,
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự khác với biện pháp cưỡng chế khác
và hình phạt trong Luật hình sự.
Biện pháp cưỡng chế của Luật tố tụng hình sự là những biện pháp bảo
đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự nhanh
chóng, khách quan theo quy định của pháp luật hình sự. Biện pháp cưỡng chế
mà Luật tố tụng hình sự quy định bao gồm: các biện pháp ngăn chặn, các biện
pháp thu thập chứng cứ như: khám xét nhà, đồ vật, thư tín, xét hỏi bị can, lấy
lời khai người làm chứng, nhận dạng đối chất...Những biện pháp bảo đảm cho


15


các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: kê biên tài sản, áp
giải bị can... Như vậy, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự có nội dung
và phạm vi rộng hơn rất nhiều so với biện pháp ngăn chặn và không chỉ nhằm
mục đích ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ
án của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn nhằm mục đích răn đe, phòng
ngừa tội phạm...
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do
Tòa án áp dụng đối với người phạm tội và thông qua việc trừng trị nhằm mục
đích giáo dục cải tạo phạm tội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Hình
phạt là một trong những biện pháp tác động của trách nhiệm hình sự, là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do hành vi phạm tội của
mình gây ra, vì vậy cơ sở để áp dụng hình phạt đối với một người khi họ có
hành vi thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự, còn biện pháp ngăn chặn là một trong các biện pháp cưỡng chế
của tố tụng hình sự được áp dụng khi có căn cứ và trong phạm vi quy định của
Luật tố tụng hình sự. Hình phạt chỉ do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
phạm tội, còn biện pháp ngăn chặn thì do nhiều cơ quan, người người có quyền
áp dụng. Hình phạt có nội dung trừng trị, còn các biện pháp ngăn chặn không
mang nội dung đó mặc dù khi áp dụng nó hạn chế quyền tự do thân thể, tự do
đi lại trong một thời gian nhất định của người bị áp dụng, nó chỉ mang tính
phòng ngừa và nội dung là tạo điều kiện để làm rõ các tình tiết của vụ án góp
phần vào việc xử lý tội phạm. Là hai chế định ở hai ngành luật khác nhau, hình
phạt và các biện pháp ngăn chặn khác nhau về bản chất pháp lý cũng như điều
kiện áp dụng, vì thế mọi nhận thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp,
trừng trị người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là sai lầm.
Đối tượng bị cáp dụng các biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người

phạm tội quả tang hoặc người mà cơ quan tiến hành tố tụng có tài liệu, chứng

16


cứ nghi họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn các cơ quan có
thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi, giới hạn cũng như thủ tục mà
Luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài các đối tượng kể trên không ai có thể bị
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, mọi hành vi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ cũng như thủ tục đều bị coi
là vi phạm pháp luật, người có hành vi vi phạm pháp luật tuy theo tính chất và
mức độ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn là những người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
hoặc những người có chức vụ trong các cơ quan khác được giao thực hiện
một số hoạt động tố tụng, công dân tham gia vào việc bắt người phạm tội quả
tang. Tùy theo tính chất, đặc điểm của từng giai đoạn tố tụng, chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, Luật tố tụng hình sự quy định cho cơ quan đó được
áp dụng tất cả hay một số các biện pháp ngăn chặn và trong phạm vi, giới hạn
cũng như theo thủ tục của Luật tố tụng hình sự.
Nội dung của các biện pháp ngăn chặn là hạn chế quyền tự do thân thể,
tự do đi lại, quyền về tài sản... trong một thời gian, do vậy ảnh hưởng đến các
quyền cơ bản cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể được quy
định trong Hiến pháp. Vì vậy, so với các biện pháp cưỡng chế khác của Tố
tụng hình sự thì biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc hơn nên khi áp
dụng các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc thận trọng, tránh áp
dụng tràn lan, tùy tiện, gây thiệt hại lợi ích hợp pháp của công dân. Luật tố
tụng hình sự nước ta quy định các biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án nhưng cũng
đồng thời đòi hỏi khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và

bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, không được áp dụng tùy tiện, chỉ
khi nào thật cần thiết mới được áp dụng và trong khuôn khổ quy định của
pháp luật tố tụng hình sự.

17


×