Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Người tiến hành tố tụng trong cơ quan tòa án nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.68 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ NGỌC ĐIỆP

NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ NGỌC ĐIỆP

NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Thị Ngọc Điệp


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN...........7
1.1.

Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người
tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân ........... 7

1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa
án nhân dân........................................................................................ 7

1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án
nhân dân ............................................................................................ 9
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố
tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân .................................... 11
1.2.

Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng hình trong
cơ quan Tòa án nhân dân .............................................................. 18

1.2.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án ...... 18
1.2.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký
Tòa án .............................................................................................. 20
1.3.

Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố
tụng các vụ án hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân từ
năm 1945 đến nay ........................................................................... 23

1.3.1. Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân trong
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 .............................................. 24


1.3.2. Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân theo
quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và năm 2003 ............... 26
1.4.

Người tiến hành tố tụng hình sự trong luật tố tụng hình sự
một số nước trên thế giới ............................................................... 28

Kết luận chương 1 ...................................................................................... 39

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN
DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK LẮK ...................................................................................... 40
2.1.

Những quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng trong
cơ quan Toà án nhân dân .............................................................. 40

2.2.

Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án
nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ..................................... 44

2.2.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ........................................................ 44
2.2.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm ......................................................... 49
2.3.

Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của những người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan
Toà án nhân dân trong giai đoạn xét xử phúc thẩm .................... 56

2.4.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự

trong cơ quan Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.............. 59

2.4.1.

Tình hình tổ chức, cán bộ ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ........... 59

2.4.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng trong xét xử vụ án hình sự trong cơ
quan Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................. 63


2.4.3.

Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật
về người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân
dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .......................................................... 65

2.4.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án ..................... 72
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 76
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG CƠ QUAN
TÒA ÁN NHÂN DÂN.................................................................... 77
3.1.

Những yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao chất lượng
xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng
hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân....................................... 77


3.2.

Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án
hình sự của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan
Tòa án nhân dân ............................................................................ 85

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự của những người tiến hành tố
tụng hình sự trong cơ quan Tòa án trong Bộ luật tố tụng hình sự......... 85
3.2.2.

Các giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự
của những người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân......... 92

Kết luận chương 3 ...................................................................................... 95
KẾT LUẬN ................................................................................................. 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 98
PHỤ LỤC.................................................................................................. 102


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử


TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1: Những điểm khác nhau cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình

sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

27

Bảng 2.1: Báo cáo số lượng cán bộ công chức ngành Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk tính đến tháng 7/2014

60

Bảng 2.2: Báo cáo chất lượng cán bộ công chức ngành Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk tính đến tháng 7/2014

61

Bảng 2.3: Báo cáo về độ tuổi cán bộ công chức ngành Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk tính đến tháng 7/2014

62


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tòa án là trung tâm và là bộ mặt của nền tư pháp ở mỗi quốc gia. Kết
quả trong hoạt động xét xử là thước đo cho tính công bằng và mức độ đảm
bảo các quyền dân chủ và quyền con người góp phần vào việc thực hiện pháp
luật đảm bảo công bằng và giữ gìn trật tự xã hội, thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật đối với những hành vi phạm tội nguy hiểm cho xã hội. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp với vai trò trung tâm của hệ
thống Tòa án là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Đại

hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định “Tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”, Đại hội lần thứ IX của
Đảng một lần nữa khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân”. Quán triệt chỉ đạo của Đảng, tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước
pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc Đổi mới và hội nhập của đất nước
ta trong giai đoạn hiện nay, Hiến pháp năm 2013 kế thừa những thành tựu lập
hiến của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 vẫn tiếp tục khẳng
định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của
hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại Điều 33 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2003 thì người tiến hành tố tụng trong cơ quan Toà án gồm có Chánh án, Phó
Chánh án Toà án, Thẩm phán và Thư ký Toà án. Là một trong các chủ thể của
tố tụng hình sự (TTHS), những người tiến hành tố tụng (THTT) trong cơ quan
Tòa án có vai trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng
minh, giải quyết vụ án hình sự. Những người THTT có nhiệm vụ, quyền hạn

1


khác nhau, nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với
nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thực tiễn tố tụng hình sự nước ta cho thấy mặc dù định hướng cải
cách tư pháp của Đảng và Nhà nước rõ ràng và nhận được sự đồng thuận
cao, đồng thời hiến pháp đã ghi nhận xét xử là chức năng duy nhất của tòa
án nhưng trong nghiên cứu lập pháp và hoạt động áp dụng vẫn chưa có sự

đồng nhất trong việc tiếp cận vấn đề này. Hệ quả dẫn tới trong khoa học
pháp lý và thực tiễn công tác tố tụng tồn tại song song nhiều quan điểm,
cách thức tiến hành còn khác nhau về tổ chức, hoạt động xét xử của tòa án.
Điều này có thể lý giải bởi hai nguyên nhân cơ bản: Ở góc độ luật thực định,
Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn hiện hành vẫn còn tồn tại
những bất hợp lý trong phân định chức năng của các chủ thể tiến hành tố
tụng, điển hình trong đó nhiều qui định buộc Tòa án phải chịu trách nhiệm
chứng minh tội phạm và thực hiện những công việc bên phần sân công tố;
hoặc quy định chưa rõ ràng hoặc qui định chưa đẩy đủ các quyền năng để
Tòa án có thể thực hiện được “tròn trịa” vai trò trọng tài, người phân xử. Ở
góc độ các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, năng lực, trách
nhiệm chưa cao của một bộ phận cán bộ thực hiện công tác tố tụng cùng với
cơ chế, phương thức giải quyết án tại nhiều cơ quan tiến hành tố tụng chưa
thực sự khoa học và đúng với qui trình tố tụng cũng là nguyên nhân làm nảy
sinh nhiều hạn chế trong công tác xét xử.
Tỉnh Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam có
diện tích 13.140km²; dân số gần 2.000.000 người. Cơ cấu tổ chức của ngành
Tòa án tỉnh Đắk Lắk hiện nay gồm: TAND tỉnh Đắk Lắk có 05 Tòa chuyên

2


trách, 03 phòng giúp việc và 15 Tòa án cấp huyện. Toàn ngành TAND tỉnh
Đắk Lắk có 322 công chức, trong đó có 291 người trình độ đại học. Trong
những năm qua, cùng với ngành Tòa án toàn quốc, TAND tỉnh Đắk Lắk đã
không ngừng nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó. Chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên từng bước,
góp phần giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, tại môi trường ổn
định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thấy tầm quan trọng về lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của những người THTT trong cơ quan Tòa án
trong hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả mạnh dạn chọn
đề tài luận văn thạc sỹ là: “Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án
Nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa người tiến hành tố
tụng trong cơ quan Tòa án với các chủ thể tham gia tố tụng hình sự khác là
một trong những vấn đề được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Sau
khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đã có một số công trình nghiên
cứu đề cập các khía cạnh liên quan tới đề tài này như:
- “Giáo trình luật tố tụng hình sự”, của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội;
- “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, do GS.TS
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004;
- “Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự”, của Mai Thanh Hiếu
và Võ Chí Công, Nxb Lao động, Hà Nội;
- “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (Xét xử sơ thẩm, phúc

3


thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm)”, Th.S Đinh Văn Quế, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007;
Tuy nhiên, các công trình đó mới nhằm đến những khía cạnh nhất định
của người tiến hành tố tụng mà chưa nghiên cứu toàn diện và đề xuất hoàn
thiện những bất cập mà khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến
hành tố tụng trong cơ quan Tòa án đã và đang gặp phải, nhất là trong quá
trình cải cách hệ thống tư pháp hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến
hành tố tụng trong cơ quan Tòa án trong hoạt động tố tụng hình sự và thực
trạng về chất lượng người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án trong hoạt
động xét xử án hình sự trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.
Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án
hình sự thông qua việc đổi mới hoạt động của người tiến hành tố tụng trong
cơ quan Tòa án trong thời gian tới.
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án trong BLTTHS.
- Thực trạng áp dụng các quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền
hạn của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án vào xét xử vụ án hình
sự trong từng giai đoạn.
- Các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về nhiệm vụ,
quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhằm nâng cao
chất lượng xét xử vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng

4


trong cơ quan Tòa án và những vấn đề trong công tác xét xử và áp dụng pháp
luật trong giải quyết vụ án hình sự của từng chủ thể người tiến hành tố tụng
trong cơ quan Tòa án qua thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk.
Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên
cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề tố tụng hình sự liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án và

thực tiễn áp dụng từ năm 2009 đến năm 2014 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nhằm
phát hiện những tồn tại, hạn chế cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động xét xử của Tòa án, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục nguyên
nhân, phát huy những thành tựu, đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của
hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân địa phương, đồng
thời đề xuất các giải pháp để đảm bảo cho xét xử các vụ án hình sự của
TAND đúng pháp luật, phù hợp với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương
pháp của các bộ môn khoa học khác. Hệ thống các phương pháp trên được sử
dụng cụ thể như sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để
giải quyết nhiệm vụ đặt ra ở các chương của luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn về nhiệm vụ,
quyền hạn của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nói
chung và hoạt động xét xử vụ án hình sự trên địa bàn TAND tỉnh Đắk Lắk nói
riêng. Luận văn lần đầu tiên đưa ra những luận cứ khoa học để làm sáng tỏ
một cách hệ thống vấn đề thực trạng mà người tiến hành tố tụng trong cơ
quan Tòa án đã và đang xét xử vụ án hình sự trong những năm qua và đưa ra

5


những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự được tốt hơn
để từ đó có thể giúp cho người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án giải
quyết vụ án hình sự được tốt hơn. Luận văn đồng thời phân tích làm rõ những
kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong việc xét xử vụ án
hình sự trong thời gian qua của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án.

7. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong
chất lượng xét xử vụ án hình sự của người tiến hành tố tụng trong cơ quan
Tòa án. Luận văn có thể được xây dựng làm cơ sở hình thành nên các chính
sách nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động tố tụng hình sự. Luận văn
có thể là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và trong công tác xét xử những
vụ án hình sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về những người tiến hành tố tụng
hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân và thực tiễn áp
dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Những yêu cầu cải cách nhằm nâng cao chất lượng xét xử
vụ án hình sự của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ
quan Tòa án nhân dân.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người
tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa
án nhân dân

Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục có sự tham
gia của nhiều chủ thể, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau với nhiều cơ
quan tiến hành tố tụng khác nhau mà trong đó vị trí, vai trò của mỗi cơ quan
là khác nhau. Mỗi giai đoạn tố tụng đều có những đặc điểm đặc trưng và thể
hiện một hướng nhất định của hoạt động tố tụng. Cơ quan tham gia vào trình
tự tố tụng hình sự này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng. Tòa án nhân dân
là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng có vị trí, vai trò quan trọng, là
cơ quan cuối cùng kết thúc một quá trình tố tụng.
Người tiến hành tố tụng hình sự nói chung là những người đại diện các
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện những nhiệm vụ trong các giai đoạn tố
tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình sự) nhằm đảm
bảo giải quyết vụ án hình sự theo đúng pháp luật tố tụng hình sự quy định,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình thức Nhà nước chủ
yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt động lập pháp, hoạt
động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại diện
là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền hành, đứng đầu Nhà nước
ban hành các đạo luật, quy định tổ chức thực hiện và là người có quyền lực
cao nhất. Đến thế kỷ XVII, XVIII giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ đại diện

7


cho phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế dần quyền lực của nhà vua, tiến
tới xóa bỏ Nhà nước phong kiến. Trong thời gian này, các học giả tư sản mà
tiêu biểu nhất là Montesquieu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã đưa ra
luận điểm: Phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện
pháp luật và hoạt động xét xử, chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau tao cơ chế kiềm chế đối
trọng lẫn nhau, chống lại tư tưởng độc quyền của một người, hay của một cơ

quan nào đó, nắm toàn bộ quyền lực Nhà nước. Có thể nói sự tách bạch và
độc lập giữa Tòa án ra khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp đã hình
thành nên một đội ngũ cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét
xử từ xưa đến nay chưa từng có.
Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, có
vai trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải
quyết vụ án hình sự. Những người THTT có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau,
nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều
có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Trên cơ sở phân loại theo các cơ quan THTT thì có người
THTT trong Cơ quan điều tra, người THTT trong cơ quan Viện kiểm sát và
người THTT trong cơ quan Toà án.
Theo phân loại tại Điều 33 BLTTHS năm 2003, thì ngoài những cá
nhân là người THTT trong cơ quan điều tra, cơ quan Viện kiểm sát thì trong
cơ quan Toà án cũng có các chủ thể là người THTT bao gồm:
- Chánh án, Phó Chánh án Toà án,
- Thẩm phán, Thư ký Toà án.
Như vậy, ngoài các chức danh tư pháp như Thẩm phán, Hội thẩm nhân

8


dân, Thư ký Tòa án, BLTTHS năm 2003 còn quy định những chức danh lãnh
đạo của Toà án là người tiến hành tố tụng. Do đó, có thể hiểu rằng, những
người đại diện cho cơ quan Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét xử vụ án hình
sự là người THTT. Khi tiến hành những hoạt động cụ thể trong việc xét xử các
vụ án hình sự và thi hành các bản án, quyết định của Toà án, Tòa án phải thông
qua những con người cụ thể, những người đó gọi là người tiến hành tố tụng.

Việc bổ nhiệm các chủ thể THTT trong cơ quan Tòa án được theo điều
kiện và cách thức do luật định. Điều kiện và cách thức bổ nhiệm người tiến
hành TTHS ở mỗi nước là khác nhau, tùy theo quy định của pháp luật TTHS
nước đó. Tuy nhiên, thông thường đều quy định các điều kiện về: Phẩm chất
chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn.
Như vậy, người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án cũng như việc
quy định về quyền, nghĩa vụ của họ được đề cập từ rất sớm trong lịch sử lập
pháp Việt Nam. Theo quy định của pháp luật có thể hiểu như sau về người
tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án: “Người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Tòa án là người được cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm theo
quy định của pháp luật có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm tiến hành xét
xử các vụ án hình sự của Toà án theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định.”
1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án
nhân dân
Vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật (tổ chức, cá nhân) được hiểu
là tổng hợp các quy định của pháp luật là cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức, hoạt
động cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể đó; làm căn cứ để
phân biệt chủ thế đó với các chủ thể khác.
Là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, hệ thống Tòa án nhân dân của
Việt Nam thực hiện chức năng duy trì và bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân

9


phẩm của công dân. Các chức danh THTT trong cơ quan Tòa án có vị trí, vai
trò thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của các cơ quan THTT. Như
vậy, vị trí, vai trò của Chánh án, Phó Chánh án Toà án và Thẩm phán, Thư ký
Tòa án được quy định bởi vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Toà án là:
TAND tối cao, TAND địa phương, các Toà án quân sự và các

Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ tài sản nhà nước, tập thể, bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân [24, Điều 1].
Tương ứng với cơ quan THTT là Tòa án thì có người THTT trong cơ
quan Toà án.
Là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, những chủ thể THTT kể
trên có vai trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng minh,
giải quyết vụ án hình sự. Những người THTT này tuy có nhiệm vụ, quyền hạn
khác nhau, nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với
nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Khi thực hành hoạt động tố tụng hình sự, các hành vi tố tụng của người
tiến hành TTHS nói chung và người THTT trong cơ quan Tòa án nói riêng thể
hiện đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là hoạt động
áp dụng pháp luật độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật để xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật, trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi
hành công vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân
phẩm, các quyền và lợi ích cơ bản của công dân được thực hiện theo thủ tục
tố tụng tư pháp chặt chẽ với mục đích phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử

10


lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội.
Như vậy, vai trò của người THTT trong cơ quan Tòa án có thể coi là
người duy nhất được Nhà nước, cụ thể là Tòa án giao trách nhiệm thực hiện

các hành vi tố tụng trong hoạt động khởi tố, xét xử vụ án hình sự. Những
người tiến hành TTHS trong cơ quan Tòa án là người nhân danh Tòa án thực
hiện các hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Khi
thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật
và được pháp luật bảo vệ. Người tiến hành TTHS là người có vai trò quan
trọng, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động TTHS.
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố
tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân
Theo Từ điển tiếng Việt: “Nguyên tắc là điều cơ bản định theo, nhất
thiết phải tuân theo” [51]. BLTTHS quy định các nguyên tắc nhằm bảo đảm
việc thực hiện Bộ luật được thống nhất. Các nguyên tắc này chi phối một,
một số hoặc toàn bộ các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự, nó bảo
đảm cho hoạt động của những người tiến hành tố tụng nói chung và các chủ
thể trong cơ quan Tòa án nói riêng được đúng pháp luật. Vì vậy trong quá
trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành
tố tụng phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
hình sự, mọi biểu hiện không tuân thủ đề có thể dẫn đến sai lầm trong quá
trình giải quyết vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định các nguyên tắc tố tụng cơ
bản áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự tại chương II những nguyên tắc
cơ bản từ Điều 3 đến Điều 32 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong hàng loạt những
nguyên tắc đó thì có những nguyên tắc cơ bản sau đây đối với người tiến hành
tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự mà tôi lựa chọn để phân tích dưới đây:

11


Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự (Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự)

Pháp chế là yêu cầu đặt ra đối với mọi nhà nước hiện đại. Hiến pháp
nước ta quy định: “nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Nội dung chủ yếu của
pháp chế là các hoạt động của nhà nước và xã hội đều dựa trên cơ sở pháp
luật nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật [9, tr.224].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hóa tại Điều 3
BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo quy định
của Bộ luật này” [25]. Theo nguyên tắc này thì khi giải quyết vụ án hình sự
mọi hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án phải
được tiến hành theo trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS bảo đảm phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội; không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định của BLTTHS được coi là nhiệm vụ của người tiến hành tố
tụng. Người tiến hành tố tụng được làm những gì mà pháp luật đã trao cho họ
khi giải quyết vụ án hình sự. Nếu không tuân theo nguyên tắc pháp chế sẽ dẫn
đến việc xét xử oan sai, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
làm tổn hại uy tín của hoạt động tư pháp, làm giảm lòng tin của nhân dân vào
hiệu lực và sự công minh của pháp luật.
Thứ hai, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật (Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự).
BLTTHS quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” [25, Điều 16]. Đây là một trong các nguyên tắc đặc
biệt, quan trọng nhất của hoạt động xét xử - hoạt động chủ yếu và cơ bản của
Tòa án, nó còn là một nguyên tắc Hiến định. Là người tiến hành tố tụng, khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, tự đưa ra bản án, quyết định trên cơ

12


sở các chứng cứ, tài liệu được xem xét đánh giá khách quan. Thẩm phán và

Hội thẩm không phải chịu sự chỉ đạo của bất kỳ ai, không phải chịu tác động
của bất cứ yếu tố nào ngoài pháp luật cụ thể là:
- Độc lập với những yếu tố khách quan: Khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập với các yếu tố khách quan từ bên ngoài như độc lập với Tòa án
cấp trên, độc lập với Chánh án Tòa án, độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy
Đảng, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, độc lập với yêu cầu của
những người tham gia tố tụng, với dư luận xã hội, báo chí..
- Độc lập với những yếu tố chủ quan: Khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm ngang quyền trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận. Trước khi
ở phiên tòa Thẩm phán phải tạo điều kiện cho Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ. Tại
phiên tòa Thẩm phán phải tạo điều kiện để Hội thẩm xét hỏi, không được hạn
chế thời gian xét hỏi của Hội thẩm. Đặc biệt khi nghị án Thẩm phán phải tôn
trọng Hội thẩm. Không được áp đặt ý kiến quan điểm của mình cho các Hội
thẩm. Hội thẩm có quyền đưa ra ý kiến, kết luận độc lập của mình về vụ án.
Pháp luật quy định chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án, khi
nghị án HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu
quyết từng vấn đề. Bản án, quyết định của HĐXX được ban hành dựa trên ý
kiến đa số các thành viên trong HĐXX, Thẩm phán biểu quyết sau cùng,
người có ý kiến thiểu số khi nghị án có quyền bảo lưu ý kiến của mình bằng
văn bản và ý kiến đó được lưu trong hồ sơ vụ án.
Thẩm phán khi là thành viên của HĐXX phải căn cứ vào pháp luật để
giải quyết vụ án. Pháp luật ở đây được hiểu là Hiến pháp, pháp luật hình sự,
pháp luật về tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác theo trật tự hiệu
lực pháp lý. Đây cũng là hành lang pháp lý mà HĐXX phải tuân theo khi xét
xử, phải đảm bảo việc xét xử theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Khi xét xử HĐXX chỉ tuân theo pháp luật HĐXX không phải chịu sự chỉ đạo
của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. HĐXX cũng không phải tuân theo bất kỳ

13



các văn bản, điều lệ, quy chế nào ngoài pháp luật. Quyết định của HĐXX phải
dựa trên cơ sở pháp luật, phải đảm bảo hợp hiến và hợp pháp.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai nội dung quan hệ chặt chẽ
với nhau. Chỉ khi nào đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập thì họ
mới chỉ tuân theo pháp luật được và ngược lại. Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập mới nâng cao chất lượng xét xử, mới bảo đảm trách nhiệm cá nhân, mới
đúng với tính chất của hoạt động tư pháp, bảo đảm khách quan đúng với
diễn biến phiên tòa.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay, nguyên tắc khi
xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nhìn chung
chưa được bảo đảm thực hiện tốt. Việc can thiệp vào hoạt động xét xử vẫn
xảy ra phổ biến, biểu hiện của nó có thể như “chỉ đạo án”, “duyệt án” hay có
tác động để Thẩm phán, Hội thẩm xử theo ý mình, thậm chí là “chạy án”. Các
Hội thẩm chưa thực sự độc lập khi xét xử vẫn còn bị ảnh hưởng nhiều ý kiến
của Thẩm phán. Các hoạt động đó làm cho việc xét xử không được khách
quan, công bằng, không đảm bảo công lý. Điều đó có thể do nhiều nguyên
nhân như chúng ta chưa tạo ra được cơ chế cho Thẩm phán và Hội thẩm thực
sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trình độ năng lực của Thẩm phán và Hội
thẩm chưa cao, chế độ chính sách, lương, phụ cấp của Thẩm phán chưa bảo
đảm cuộc sống cho họ. Đây là những nội dung cần xem xét, nghiên cứu để
bảo đảm tính độc lập của HĐXX khi xét xử.
Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19
Bộ luật Tố tụng hình sự).
Nguyên tắc này ghi nhận những người tham gia tố tụng được pháp
luật bảo đảm quyền bình đẳng với nhau và với Kiểm sát viên trong việc
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa
án nhằm chứng minh cho quan điểm, ý kiến của mình là có căn cứ và hợp

14



pháp. Tòa án, cụ thể là những chủ thể là người tiến hành tố tụng trong cơ
quan Tòa án phải có trách nhiệm đảm bảo cho các bên thực hiện các quyền
pháp luật cho phép.
Đây là một nguyên tắc tiến bộ, thể hiện tinh thần tranh tụng, đáp ứng
yêu cầu của cải cách tư pháp. Tại phiên tòa bên buộc tội, bên gỡ tội và những
người tham gia tố tụng khác đều được pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật để chứng minh cho quan điểm, ý
kiến của mình là có căn cứ. Họ được bình đẳng trong tranh luận, phát biểu ý
kiến nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án. Các ý kiến, quan
điểm các bên đưa ra phải gắn với vụ án đang xét xử. BLTTHS còn có các quy
định cụ thể để thực hiện nguyên tắc này như: Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay
không (Điều 205); Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền yêu cầu Kiểm sát viên
phải đáp lại những ý kiến của những người tham gia tố tụng mà Kiểm sát viên
chưa tranh luận (Điều 218)...
Bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trước Tòa án là trách nhiệm của
HĐXX. HĐXX phải xem xét chứng cứ, tài liệu do các bên đưa ra một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ không thiên lệch về bên nào để từ đó đưa ra
bản án, quyết định chính xác, đúng pháp luật.
Thứ tư, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Đây là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, nó không chỉ được
ghi nhận trong BLTTHS mà còn được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Trong
khoa học pháp lý nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nguyên tắc này khẳng định chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội một con
người đó bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án kết tội


15


của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, không một người nào bị coi là có tội. Tòa
án chỉ có thể kết tội một con người bằng bản án, Tòa án không thể kết tội ai
đó bằng quyết định. Nếu không đủ cơ sở khẳng định bị cáo phạm tội thì phải
giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo. Mọi hoài nghi về việc bị cáo có tội
nhưng chưa rõ ràng, chưa vững chắc, còn mâu thuẫn đều phải được hiểu theo
hướng có lợi cho bị cáo.
Đồng thời, chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng hình phạt với bị cáo và
Tòa án cũng chỉ được áp dụng hình phạt đối với người đã bị Tòa án tuyên bố
phạm tội. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào ngoài Tòa án có quyền áp
dụng hình phạt với bị cáo.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nguyên tắc này thể hiện: người bị truy
tố và bị Tòa án đưa ra xét xử chưa bị coi là có tội. Họ tham gia tố tụng với tư
cách là bị cáo, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải
tôn trọng họ, không được định kiến, không được đối xử với họ như một người
đã có tội. Việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo vô tư khách quan
không suy diễn. Kể cả sau khi Tòa án cấp sơ thẩm kết tội bị cáo, tuyên một
mức hình phạt đối với họ thì cũng không vì thế mà cho rằng họ đã là người có
tội. Chỉ khi nào bản án có hiệu lực pháp luật thì họ mới bị coi là có tội.
Thứ năm, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10 Bộ luật Tố
tụng hình sự).
BLTTHS quy định:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầu đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội, và chứng
cứ xác định vô tội, những tính tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền

nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội [25, Điều 10].

16


Xác định sự thật của vụ án nhằm đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt người phạm
tội. Việc xác định sự thật của vụ án không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong
việc xem xét trách nhiệm hình sự mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
giải quyết các vấn đề khác có liên quan của vụ án. BLTTHS quy định các cơ
quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp pháp luật quy định để tìm
ra sự thật khách quan của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ. Các
cơ quan này không chỉ đi tìm chứng cứ buộc tội mà phải thu thập cả các
chứng cứ gỡ tội, thu thập các chứng cứ để chứng minh các tình tiết tăng nặng
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, các vấn đề khác có liên quan đến vụ
án như vấn đề dân sự trong vụ án hình sự... Bị cáo không buộc phải chứng
minh là mình vô tội nhưng họ có quyền chứng minh sự vô tội của mình.
Nguyên tắc xác định sự thật là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình tố
tụng ở tất cả các giai đoạn, theo quy định của nguyên tắc này tại giai đoạn xét
xử, HĐXX phải kiểm tra tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu, đã được
thu thập. HĐXX phải đánh giá chứng cứ một cách khách quan, đầy đủ toàn
diện, phải xem xét các chứng cứ buộc tội cũng như những chứng cứ gỡ tội và
các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án để từ đó đưa ra bản
án, quyết định đúng pháp luật.
Thứ sáu, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Là nguyên tắc đề cập trực tiếp tới những người THTT như Thẩm phán,
Hội thẩm, Thư ký Tòa án, nguyên tắc này yêu cầu các chủ thể này phải đảm
bảo vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ. Đối với HĐXX yêu cầu này lại càng
được đòi hỏi cao bởi họ là những người “cầm cân nảy mực” đưa ra phán

quyết bên nào đúng bên nào sai, bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì
ở mức độ nào, chế tài áp dụng như thế nào… Điều đó đòi hỏi là khi xét xử,
HĐXX phải công minh. Nếu HĐXX không vô tư, khách quan có thể sự thật

17


×