Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước việt nam giai đoạn 2000-2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.46 KB, 24 trang )

Chương 1: Giới thiệu
1.1. Vấn đề nghiên cứu
Khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự leo thang của nợ công, vấn đề khủng hoảng
nợ châu Âu tiếp tục cho thấy sự cần thiết phải hạn chế thâm hụt ngân sách nhà nước
trong thời kỳ kinh tế thuận lợi, chủ động đối phó với thâm hụt ngân sách nhà nước bùng
phát trong thời kì suy thoái, khủng hoảng, điều tiết nền kinh tế hiệu quả hơn. Đứng trước
sự phục hồi kinh tế sẽ càng ngày gây áp lực lên ngân sách nhà nước. Trong khoảng 12
năm nay, thâm hụt ngân sách tại Việt Nam liên tục kéo dài nên việc tìm rõ nguyên nhân
gây ra thâm hụt ngân sách nhà nước kéo dài liên lục là điều rất quan trọng. Bên cạnh việc
thâm hụt ngân sách thì việc lạm phát tăng cao cũng là một trong những vấn đề được
nhiều người quan tâm. Vì vậy, bài nghiên cứu này sẽ đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ hai
chiều giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước tại Việt Nam.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước
Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình lạm phát, thâm hụt ngân sách nhà nước và mối quan hệ giữa
lạm phát và thậm hụt ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2000-2013.
1.4. Ý nghĩa và đóng góp của nghiên cứu
Nếu tìm rõ nhân tố nào tác động tới thâm hụt ngân sách tại Việt Nam thì sẽ giúp
các nhà kinh tế hoạch định rõ chi tiết các chính sách tài chính nhằm hạn chế thâm hụt
ngân sách nhà nước hay nâng cao ngân sách nhà nước. Hơn thế nữa nhờ đó sẽ giảm được
những vấn đề khác phát sinh thêm như: nợ quốc gia hay lạm phát tăng cao. Có nhiều bài
nghiên cứu tác động thâm hụt ngân sách nhà nước tới lạm phát cũng như tác động của
lạm phát lên thâm hụt ngân sách nhà nước. Nhưng có rất ít nghiên cứu quan tâm về mối
quan hệ tác động hai chiều giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước. Bài nghiên
cứu này góp phần làm rõ thêm những nghiên cứu mối quan hệ hai tác động giữa lạm phát
và thâm hụt ngân sách.
1.5. Kết cấu nghiên cứu
1



Nghiên cứu được thực hiên với kết cấu gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 1 cung cấp cho người đọc về mục tiêu, đối tượng nghiên cứu, và ý nghĩa
hay đóng góp của nghiên cứu này.
Chương 2: Mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước: lý thuyết
và nghiên cứu thực nghiệm
Chương 2 cung cấp những kiến thức về lạm phát, ngân sách nhà nước và vấn đề
bội chi ngân sách nhà nước. Đồng thời ở chương này cũng sẽ cung cấp cho chúng ta
những nghiên cứu trước đây về các nhân tố tác động như thế nào tới thâm hụt ngân sách
cũng như thâm hụt ngân sách sẽ tác động như thế nào tới các biến vĩ mô. Mỗi bài nghiên
cứu sử dụng những loại mô hình khác nhau từ những mô hình đơn giản như OLS cho đến
mô hình Panel Data hay mô hình VAR.
Chương 3: Thực trạng lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước tại Việt Nam
Chương 3 sẽ cung cấp cho chúng biết về thực trạng lạm phát và thâm hụt ngân
sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013 đồng thời sẽ so sánh tình hình lạm phát,
thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam với các nước trong khu vực.
Chương 4: Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân
sách nhà nước tại Việt Nam.
Chương 4 đưa ra từng bước thực hiện các mô hình bài nghiên cứu cũng như kết
quả và thảo luận về kết quả những mô hình.
Chương 5: Đánh giá và giải pháp đề xuất
Chương 5 làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà nước tại
Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát và thâm hụt ngân sách nhà
nước Việt Nam trong thời gian tới.

2


CHƯƠNG II: LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ

GIỮA LẠM PHÁT VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất
quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước do hiến pháp quy định, nó còn là
công cụ quan trọng của nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô của nền kinh tế xã hội,
muốn sử dụng tốt công cụ này phải nhận thức được những vấn đề lý luận cơ bản của ngân
sách nhà nước.
Mặt khác, ngân sách nhà nước còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà
nước một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân phối các
nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Những khoản thu
nộp và cấp phát qua quỹ ngân sách nhà nước là các quan hệ được xác định trước, được
định lượng và nhà nước sử dụng chúng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Từ những phân tích trên, ta có thể xác định được ngân sách nhà nước phản ánh các quan
hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ chung
của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực
hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
2.2. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước
Thứ nhất: Tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước gắn liền quyền lực với việc thực
hiện các chức năng của Nhà nước, đây cũng chính là điểm khác biệt giữa ngân sách nhà
nước với các khoản tài chính khác. Các khoản thu ngân sách nhà nước đều mang tính
chất pháp lý, còn chi ngân sách nhà nước mang tính cấp phát “không hoàn trả trực tiếp”.
Do nhu cầu chi tiêu của mình để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội Nhà nước đã sử dụng

3



để quy định hệ thống pháp luật tài chính, buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải nộp một
phần thu nhập của mình cho Nhà nước với tư cách là một chủ thể.
Thứ hai: Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với Nhà nước chứa đựng lợi ích chung
và công, hoạt động thu chi ngân sách nhà nước là thể hiện các mặt kinh tế-xã hội của Nhà
nước, dù dưới hình thức nào thực chất cũng là quá trình giải quyết quyền lợi kinh tế giữa
Nhà nước và xã hội thể hiện qua các khoản cấp phát từ ngân sách nhà nước cho các mục
đích tiêu dùng và đầu tư. Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội đó thể hiện ở phạm vi
rộng lớn.
Thứ ba: Cũng như các quỹ tiền tệ khác ngân sách nhà nước cũng có đặc điểm
riêng của một quỹ tiền tệ, nó tập trung lớn nhất là nguồn tài chính của Nhà nước nên ngân
sách nhà nước là giá trị thặng dư của xã hội. Do đó, nó mang đặc điểm khác biệt.
Thứ tư: Hoạt động thu cho của ngân sách nhà nước được thể hiện theo nguyên tắc
không hoàn lại trực tiếp đối với người có thu nhập cao nhằm mục đích rút ngắn khoảng
cách giàu nghèo thực hiện công bằng xã hội.
2.3. Khái niệm thâm hụt ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế ) là số
chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về ngân sách nhà nước hằng năm như sau:
Bảng 2.1: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Tổng thu
A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí).

Tổng chi
D. Chi thường xuyên.

B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước).

E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần (= vay mới - thu nợ gốc).


C. Bù đắp thâm hụt
- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
- Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc).
Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F

4


Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như sau: Bội chi
Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (khoản bù đắp
thâm hụt)
Bội chi Ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế
vĩ mô.
2.4. Phân loại thâm hụt ngân sách
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: Thâm hụt cơ
cấu và thâm hụt chu kì.
- Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến
của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi cho giáo
dục-đào tạo, quốc phòng…
- Thâm hụt chu kì là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa là
bởi mức độ cao hay thấy của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: Khi nền kinh tế suy
thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn dến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi
ngân sách cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
2.5. Nguyên nhân của thâm hụt ngân sách
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho
thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên để giải quyết những khó
khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi ngân sách nhà nước tăng lên.

Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải
tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác
động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi
Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức
bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng
của Nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động
của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình
5


thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn…), tổng hợp của bội chi chu kỳ và
bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước. Trong điều kiện bình thường (không có
chiến tranh, không có thiên tai lớn...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là
bội chi ngân sách nhà nước.

6


CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2013
3.1.

Quan niệm về thâm hụt ngân sách của Việt Nam
Theo Luật Ngân sách nhà nước (2002), ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách

trung ương và ngân sách địa phương. Thâm hụt ngân sách nhà nước là thâm hụt ngân
sách trung ương và được xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách
trung ương và tổng số thu ngân sách trung ương trong năm ngân sách. Các khoản thu,
chi khi cân đối ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước (2002) được xác định như sau:

Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các
khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá
nhân; các khoản viện trợ; thu chuyển nguồn từ năm trước, các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật.
Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi đầu tư phát triển, chi phát triển
sự nghiệp kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ
máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ, chi chuyển nguồn ngân sách từ
năm trước sang năm sau và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, ngân sách nhà nước (NSNN) được cân đối trên nguyên tắc tổng số
thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ
ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn thâm hụt thì số thâm hụt phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển. Như vậy, nếu như xem tất cả các khoản thu từ thuế và
phí, lệ phí của Việt Nam là các khoản thu thường xuyên thì có thể thấy theo quy định
của Luật Ngân sách nhà nước (2002), cán cân ngân sách thường xuyên của Việt Nam
luôn phải thặng dư. Tuy nhiên, việc xác định phạm khoản thu, chi cân đối NSNN của
Việt Nam có sự khác biệt khá lớn so với thông lệ quốc tế. Điều này cũng dẫn đến việc
xác định thâm hụt của Việt Nam so với thế giới không có sự thống nhất, đây là trở ngại
của Việt Nam so với các nước trên thế giới.
3.2. Thực trạng về thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013
3.2.1. Thực trạng về thu- chi NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013
a. Thực trạng thu NSNN:

7


Thu NSNN là một khoản thu quan trọng trong việc đáp ứng các hoạt động chi cũng như
vận hành bộ máy nhà nước, việc vận hành bộ máy nhà nước này có tốt hay không phụ
thuộc vào nguồn lực kinh tế dành cho khu vực công này, chính vì thế thu NSNN luôn
được Chính phủ quan tâm đặt biệt, cụ thể như sau:
Bảng 3.1: Tổng thu NSNN trong giai đoạn 2000-2013

Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tổng thu ngân sách nhà
nước
Năm
Giá trị
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

90749
103888
123860
152274
190928
228287
279472

Tăng trưởng
(%)
14.48
19.22
22.94
25.38
19.57
22.42


Tổng thu ngân sách nhà nước
Năm
Giá trị
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

315915
430549
454786
588428
721804
743190
816000

Tăng
(%)

trưởng
13.04
36.29
5.63
29.39
22.67
2.96
9.8


(Nguồn: Bộ Tài chính)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, thu NSNN đều tăng qua các năm, cụ thể năm 2013
tăng tuyệt đối so với năm 2000 là 725251 tỷ đồng, đây là nổ lực rất lớn của Chính phủ
trong vấn đề thu NSNN. Quy mô thu đều tăng qua các năm, tăng trưởng dương và qua
các năm đều khá cao, tăng trưởng trên 10%, chỉ có năm 2009, 2012 và 2013 là tăng
trưởng thấp.Tuy nhiên việc thu này vẫn có tình hình biến động qua các năm, cụ thể:

Biểu đồ 3.1: Tổng NSNN và tốc độ tăng trưởng của NSNN qua các năm

8


• Giai đoạn 2000- 2006: Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng của nguồn thu
ngân sách khá ổn định khoảng 20,66%, nguồn thu năm 2006 gấp 3 lần năm 2000. Trong
phần đầu của giai đoạn có sự ổn định, chủ yếu là do nền kinh tế đang trong giai đoạn
phục hồi của khủng hoảng châu Á từ Thái Lan cũng như không có sự biến động lớn về
nguồn thu qua các năm. Cơ cấu nguồn thu của giai đoạn này đang có sự chuyển dịch.
Bảng 3.2: Một số nguồn thu lớn của NSNN qua các năm 2000-2006
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Thu nội địa
Thu từ dầu thô
Thu từ hải quan
Thu từ viện trợ không hoàn lại

2000

2001

2003


2003

2004

2005

2006

46233

52647

23534
18954

26281
22949

61375
26510
31571

78685
36773
33845

104577
48562
34913


119826
66558
53114

145404
83346
42825

2028

2011

2250

2969

2877

3789

7897

(Bộ Tài chính)

Biểu đồ 3.2: Một số nguồn thu lớn của NSNN qua các năm 2000-2006
9


Các nguồn tăng qua các năm, nguồn thu nội địa tăng mạnh và chiếm 52% trong

tổng thu NSNN, thu hải quan chiếm 15,3% năm 2006, trong khi đó năm 2000 nguồn thu
nội địa chiếm khoảng 50% và thu từ hải quan chiếm 20,9%. Sự chuyển dịch cơ cấu trong
thời gian này chủ yếu là do chính sách mở cửa của Việt Nam trong giai đoạn tăng cường
giao thông hàng hóa, việc giảm các loại thuế xuất nhập khẩu làm cho nguồn thu từ hải
quan này giảm tỷ trọng trong cơ cấu thu NSNN. Bên cạnh đó năm 2003 do thực hiện
pháp lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ 140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản
phí thuộc các địa phương đã làm giảm chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm.
Ngoài ra kết quả thu trên địa bàn của một số địa phương vượt dự toán ban đầu như Bình
Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu , Hải Dương 44,2%, Quảng Ninh , Đà Nẵng, Bình Dương, Hà
Tây, Hưng Yên, Tp.HCM ...


Giai đoạn 2007-2009: Giá trị tăng tuyệt đối trong giai đoạn này vẫn tăng,

tuy nhiên tốc độ tăng qua các năm lại có sự biến động rất lớn. Năm 2008 tốc độ tăng
tuyệt đối đạt 36,29% và cao nhất trong cả giai đoạn. Theo báo cáo của kỳ họp thứ 4 Quốc
hội khóa XII năm 2008 thì: Thu nội địa: đạt 205.000 tỷ đồng, vượt 8,3% (15.700 tỷ đồng)
so với dự toán, tăng 17,6% so với thực hiện năm 2007, chiếm 51,4% tổng thu NSNN.
Thu từ dầu thô: Đạt 98.000 tỷ đồng, vượt 49,4% (32.400 tỷ đồng) so với dự toán, tăng
27,3% so với thực hiện năm 2007. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu:
dự toán 64.500 tỷ đồng (trên cơ sở thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 84.500 tỷ đồng,
10


hoàn thuế giá trị gia tăng là 20.000 tỷ đồng), phấn đấu thu ngân sách từ hoạt động xuất
nhập khẩu đạt 121.000 tỷ đồng; sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ,
thu cân đối ngân sách cả năm đạt 91.000 tỷ đồng, vượt 41,1% (26.500 tỷ đồng) so với dự
toán, tăng 50,7% so với thực hiện năm 2007 dựa trên cơ sở tổng kim ngạch xuất khẩu cả
năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu
kiềm chế ở mức 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007; nhập siêu của cả nền kinh tế

khoảng 17,5 tỷ USD, bằng khoảng 27,8% kim ngạch xuất khẩu. Thu viện trợ: Dự toán
3.600 tỷ đồng, ước cả năm đạt 5.000 tỷ đồng, vượt 38,9% (1.400 tỷ đồng) so với dự toán,
chủ yếu do tăng viện trợ của Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn (Chương trình 135) và Chương trình phát triển Nông nghiệp và nông thôn. Như vậy
dù khi nền kinh tế đang khủng hoảng nhưng các khoản thu của Việt Nam vẫn tăng và
vượt dự toán, đây là những nổ lực rất lớn của chính phủ. Tuy nhiên đến năm 2009 thì tốc
độ tăng lại giảm dù vẫn tăng trưởng, nguyên nhân chủ yếu là tác động của nền kinh tế thế
giới tác động đến kinh tế trong nước của Việt Nam cũng như nền kinh tế nóng nhưng
không bền vững và bị vỡ khi gặp khủng hoảng. Bên cạnh đó sự chuyển dịch cơ cấu và
giảm nguồn thu từ dầu thô trong năm 2009 làm cho tổng nguồn thu vẫn tăng nhưng
không ổn định.
• Giai đoạn 2010-2013: Đây là giai đoạn phục hồi của nền kinh tế Việt Nam, tốc độ
tăng trưởng của nguồn thu từ năm 2010-2012 có xu hướng giảm về tốc độc dù nguồn thu
tuyệt đối vẫn tăng, nguyên nhân chủ yếu là chính phủ đang tập trung tháo gỡ tình hình
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước cũng như các số thuế thu nội địa không
tăng, bên cạnh đó sự biến động giá dầu thế giới, các hoạt động xuất nhập khẩu đang trong
giai đoạn hạn chế xuất nhập khẩu các mặt hàng xa xỉ; trong khi đó cơ cấu thu năm 2012
ban đầu chính phủ đã dự toán là tăng nguồn thu nội địa “ Về cơ cấu thu năm 2012, dự
toán thu nội địa chiếm 66,8% tổng thu NSNN (dự toán năm 2011 là 64,2%), thu dầu thô
chiếm 11,7% (dự toán năm 2011 là 11,6%), thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu
chiếm 20,8% tổng thu NSNN (dự toán năm 2011 là 23,3%).” (trích báo cáo tình hình
kinh tế xã hội năm 2011-2012), đây là nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút về tốc độ tăng
trưởng. Đến năm 2013 nền kinh tế có sự phục hồi, tăng tuyệt đối năm 2013 đạt 72810 tỷ
11


đồng và đạt tốc độ tăng trưởng là 9.8% đây là một sự khởi sắc mới cho nguồn thu NSNN.
Việc quy mô nguồn tăng đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng nguồn chi NSNN. Tuy
nhiên việc liệu chi tiêu của Chính phủ có phù hợp với cơ cấu thu cũng như là nền kinh tế
của Việt Nam hiện nay?

b. Thực trạng chi NSNN:
Bảng 3.3: Tổng chi NSNN qua các năm từ 2000-2013
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tổng chi ngân sách nhà
nước
Giá trị
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006

108961
129773
148208
181183
214176
262687
308058

Tổng chi ngân sách nhà
nước

Tăng trưởng
(%)
19.1
14.21
22.25

18.21
22.65
17.27

Giá trị
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

399402
494600
584695
850874
953118
850385
978000

Tăng trưởng
(%)
29.65
23.84
18.22
45.52
12.02
-10.78
15.01

(Bộ Tài chính)

Bảng 3.3: Tổng chi NSNN qua các năm từ 2000-2013

12


Qua bảng số liệu ta thấy, tổng chi của Việt Nam hầu như tăng qua các năm nhưng
không có sự ổn định về tốc độ tăng trưởng. Quy mô chi NSNN ngày càng được mở rộng
bên cạnh đó trong giai đoạn đầu cơ cấu chi chủ yếu là tăng đầu tư phát triển, giai đoạn
trong và sau khủng hoảng chủ yếu là giảm tỷ trọng chi đầu tư, tăng tỷ trọng chi thường
xuyên nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tiễn của nền kinh tế.
• Giai đoạn 2000-2006: chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi trên cả ba lĩnh
vực chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ.
Bảng 3.4: Các khoản chi NSNN trong giai đoạn 2000-2006
Đơn vị tính: Tỷ đồng
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006


Chi đầu tư phát
triển
Chi thường xuyên
Chi trả nợ, viên trợ

29624
61823
17514

40236
71562
17975

45218
78039
24951

59629 66115 79199 88341
96126 113818 143078 171526
25428 34243 40402 48192
(Bộ Tài chính)

Chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên là những khoảng chi lớn của chính phủ
nhằm vận hành bộ máy nhà nước và tái đầu tư để tạo ra sản phẩm. Chi đầu tư phát triển
được quan tâm nhất. Trong năm 2001 chi đầu tư phát triển chiếm khoảng 27% thì đến
năm 2006 chiếm khoảng 29%. Tuy nhiên việc chi đầu tư phát triển của Việt Nam lai chưa
có hiệu quả cao, vì có những chương trình đầu tư phát triển không mang lại hiệu quả. Bên
cạnh đó các khoảng chi thường xuyên qua các năm đều tăng, tốc độ tăng lại nhanh, ví dụ
như năm 2001 tốc độ tăng của chi thường xuyên là khoảng 15% trong khi đó đến năm
13



2006 chi thường xuyên tăng gần 20% so với năm 2005. Ngoài ra các khoảng chi trả nợ và
viện trợ tăng và dần chiếm tỉ trong lớn trong tổng chi NSNN (năm 2006 chiếm 15%)
Biểu đồ 3.4: Các khoản chi NSNN trong giai đoạn 2000-2006

Đặc biệt 2003 và 2005 thì có tốc độ tăng trưởng chi tăng trên 22%, nguyên nhân
chủ yếu là do: Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và dập
dịch SARS, chi công tác chuẩn bị SEA Games 22 và ASEAN Paragames 2, chi bổ sung
khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi 2003 tăng 6,1% so với dự toán ban đầu và
chiếm 27,3% so với GDP, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8% GDP và chi thường
xuyên bằng 15,5% GDP. Cũng trong năm 2003 cải cách tiền lương khiến tổng quỹ lương
nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ khoản giảm chi thường xuyên 10%, và
một số nguồn khác. Năm 2005 chi do vượt tiền lương và chi đầu tư phát triển, chi vượt
tiền lương một phần là do cải cách lương chuyển nguồn chi từ năm 2004 sang năm 2005
và bên cạnh đó chi vượt đầu tư phát triển cụ thể là chi đầu tư phát triển thực tế đạt 71119
tỷ đồng, vượt gần 2 tỷ so với báo cáo và 9% so với dự toán, chiếm 28,3% tổng chi cân
đối ngân sách Nhà nước.
• Giai đoạn 2007-2009: tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, trong giai đoạn
khủng hoảng này thì tốc độ tăng trưởng chậm như vậy cũng thể hiện được chính sách cắt
giảm chi tiêu của chính phủ, tuy nhiên việc cắt giảm này lại chưa hiệu quả. Trong năm
2007 đạt tốc độ tăng trưởng chi là 29,65%, trong đó chi đầu tư giảm cơ cấu, lý do chủ
14


yếu là vấn đề chi đầu tư của Việt Nam chưa hiệu quả và và xuất hiện hàng loạt các
chương trình tiết giảm chi đầu tư năm 2007 việc đầu tư này chủ yếu vào các công trình
kết cấu cơ sở hạ tầng quan trọng để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam
sau khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó thực hiện cơ chế tự chủ, chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế đang góp phần sử dụng nguồn chi phù hợp hơn ở các địa phương. Trong

các năm 2008, 2009 thì quy mô chi NSNN tăng, tuy nhiên tốc độ tăng ngân sách giảm
chủ yếu là do chính sách thắt chặt chi tiêu trong ngân sách nhà nước. Trong 2 năm này
xuất hiện 1 khoảng chi lớn để thực hiện kiềm chế tốc độ tăng giá tiêu dùng, Chính phủ đã
quyết định chậm điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước trong điều kiện giá dầu thế
giới tăng cao, bên cạnh đó còn chi bù lỗ các mặt hàng nhập khẩu vì vậy dù đang trong
giai đoạn thắt chặt chi tiêu nhưng quy mô tăng vẫn không giảm.
• Giai đoạn năm 2010-2013: trong giai đoạn này này nước đang tích cực chi tiêu
công nhằm tăng gói kích cầu để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng, điều này làm cho
tốc độ tăng trưởng chi tăng nhanh lên tới 45,52% .Từ năm 2011 chi ngân sách có giảm so
với năm trước chủ yếu do các biện pháp cắt giảm đầu tư công nhằm kiềm chế lạm phát
nhưng mức giảm này chỉ được thực hiện trong 2 năm, đến năm 2013 thì việc chi tiêu
công lại tăng tốc độ tăng trưởng, chủ yếu là quá trình đầu tư công để dần cung cấp các
hàng hóa dịch vụ công, các công trình đầu tư giao thông vận tải, đầu tư khoa học công
nghệ nhằm thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế trong giai đoạn 2010-2015.

15


3.2.2. Thực trạng về thâm hụt NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013
Bảng 3.5: Thâm hụt NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Bội
chi Tăng trưởng
NSNN
(%)
2000
2001
2002
2003
2004

2005
2006

18212
25885
24348
28909
23248
34400
28586

42.13
-5.94
18.73
-19.58
47.97
-16.9

Bội
NSNN
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

chi Tăng
(%)


83487
64051
129909
262446
231314
107195
162000

trưởng

192.06
-23.28
102.82
102.02
-11.86
-53.66
51.13
(Bộ Tài chính)

Ngân sách nhà nước của Việt Nam trong 13 năm vừa qua luôn đứng trong tình
trạng thâm hụt, dù quy mô không phải năm nào cũng tăng hay quy mô càng ngày càng
thu hẹp mà thường xuyên biến động. Tuuy nhiên, thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt
năm đang khá lớn, năm 2013 gấp 8.89 lần so với năm 2000. Thâm hụt ngân sách lại có
năm trên 100% so với năm trước. Điều này chính phủ chauw có những chính sách chi
phù hợp trong khoảng thời gian qua. Thâm hụt Ngân sách nhà nước của Việt Nam có sự
biến động qua các năm, bội chi NSNN thường có xu hướng năm này tăng rất lớn năm
tiếp sau giảm, như năm 2001 thâm hụt tăng 42,12% so với năm 2000 thì đến năm 2002
giảm 5,94% so với năm 2001. Điều này cho thấy chính phủ chưa thực sự có những kết
hoạch chi dài hạn và việc quản lý còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó về bù đắp cho thâm

hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay, hiện tại ở Việt Nam, nguồn bù đắp cho thâm hụt
ngân sách là từ 2 nguồn vay trong nước và vay quốc tế. Nguồn vay bù đắp thâm hụt có
sự biến động cùng với sự biến động của mức thâm hụt ngân sách nhà nước. Năm nào
thâm hụt thâp năm đó vay nợ nhiều

16


Biểu đồ 3.5: Ngân sách nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2006

Theo biểu đồ tổng thu tổng chi qua các năm cho thấy Việt Nam trong tình trạng
thâm hụt dài.
Trong giai đoạn 2000-2006, Việt Nam vừa bước ra khỏi tình trạng giảm phát và
khuyến khích sản xuất, chính sách tài khóa nới lỏng tăng chi ngân sách nhà nước nhằm
thực hiện gói kích cầu tăng GDP. Giá trị thâm hụt qua các năm thấp, cho thấy Việt Nam
có tiến hành tiết kiệm chi tiêu, tuy nhiên có một số năm giá trị thâm hụt tăng lên rất
nhanh, cho thấy quá trình quản lý ngân sách còn lỏng lẻo, dù cho tổng thu của Việt Nam
tăng nhưng và không khắc phục được thâm hụt NSNN trong giai đoạn đầu của nền kinh
tế đang phát triển nóng. Trong giai đoạn khủng hoảng thì việc thắt chặt chi tiêu vẫn
không đủ bù lại khoảng chi lớn trong giai đoạn nhà nước khó khăn. Tuy nhiên tình hình
thâm hụt trong giai đoạn này lại lớn. Trong năm 2010-2013 giá trị thâm hụt của Việt
Nam tăng nhanh, năm 2010 giá trị thâm hụt lớn gấp 14 lần so với năm 2000, và tăng
102% so với năm 2009 chính vì điều này làm gia tăng mức nợ công của Việt Nam, và
chính việc gia tăng một cách đột biến về thâm hụt làm chính phủ quan tâm xử lý nhiều
hơn trong việc chi tiêu dù đang thực hiện gói kích cầu nhằm vực dậy tình hình kinh tế.
Trong những năm sau giá trị thâm hụt đã được khắc phục và kiểm soát, nhà nước thực
hiện mức thâm hụt thực tế thực hiện ở mức thấp hơn so với mức Quốc hội cho phép thâm
hụt dự toán được giữ.

17



Mặt khác, ngân sách của Việt Nam thường dựa trên tiêu chí phân loại thu và
chi ngân sách của Việt Nam, thường lấy thu thường xuyên để dùng cho chi thường
xuyên.
Biểu đồ 3.6: Thu chi thường xuyên của Việt Nam tròn năm 2000-2013

Dựa trên đồ thị ta thấy chi thường xuyên thường cao hơn các khoản thu từ thuế phí
và lệ phí trong nước, trong giai đoạn 200-2007 thường thâm hụt ngân sách là do thâm hụt
từ thu thường xuyên so với chi thường xuyên. Trong giai đoạn gần đây thu thường xuyên
lớn hơn chi thường xuyên chủ yếu là do chính sách thắt chặt chi tiêu. Đặc biệt trong
những năm gần đây có thặng dư ngân sách thường xuyên, điều này đảm bảo được ngân
sách trung và dài hạn, vì theo nguyên tắc, ngân sách phải có thặng dư thường xuyên
thì mới có điều kiện để thực thi các chính sách đầu tư hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên với việc các khoản thu thương xuyên dùng để chi tiêu gần hết cho chi thường
xuyên thì không có một nguồn tiết kiệm nào để chi cho các đầu tư phát triển và các hổ trợ
để hoàn thiện an ninh quốc phòng kinh tế xã hội. Chính vì vậy Việt Nam thường xuyên đi
vay viện trợ để đầu tư xây dựng cơ bản, điểu này dẫn đến khoản nợ công của Việt Nam
tăng.

Biểu đồ 3.7: Thâm hụt ngân sách/GDP của Việt Nam qua các năm
18


(Bộ Tài chính)
Qua thống kê cho thấy, trong những năm trở lại đây, tỷ lệ thâm hụt nằm ở ngưỡng
5% GDP và đang có xu hướng tăng lên. Đây là tỷ lệ cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì
trong điều kiện bình thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng báo
động. Riêng năm 2009 tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã lên tới 6.9% GDP. Tốc độ tăng thâm
hụt ngân sách khá cao từ 17%-18%. Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt ngân sách là vào

khoảng 48.5 nghìn tỷ đồng thì năm 2007 đã tăng lên tới 56.5 nghìn tỷ đồng. Thâm hụt
ngân sách năm 2010 đến năm 2013 cũng ở ngưỡng trung bình khá cao là 5.2%, trong
năm 2010 mức thâm hụt dù có giảm so với năm 2009 nhưng vẫn đạt mức cao là 5.8%.
Xu hướng năm 2012-2013 là giảm.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia và tổ chức kinh tế thì những con số này còn
lớn hơn nhiều khái niệm và cách tính thâm hụt NSNN ở Việt Nam còn nhiều

điểm khác biệt so với thông lệ quốc tế. Điều này xuất phát từ cách phân loại,
phương pháp hạch toán ngân sách của Việt Nam trong một số nội dung còn
chưa theo chuẩn mực chung được nhiều nước áp dụng, như Cẩm nang Thống kê
tài chính chính phủ (GFS). Những sự khác biệt đáng chú ý là:
Trong tổng chi NSNN của Việt Nam có tính cả các khoản trả nợ gốc, trong
khi đó thông lệ quốc tế chi NSNN là để xác định thâm hụt chỉ bao gồm các khoản
nợ lãi không bao gồm nợ gốc phải trả, điều này làm cho con số công bố về thâm hụt
của Việt Nam và thế giới khác nhau. Ngoài ra, theo quy định của Việt Nam đối với
19


các khoản vay gốc thì khi vay các khoản vay này được dùng để chi trả cho các
khoản chi mục tiêu của đất nước, sau đó sẽ có các khoản chi trả nợ, như vậy về bản
chất nợ gốc hoàn trả trong năm ngân sách là được phát sinh từ nhiều năm trước, do
đó số tiền gốc phải trả không phụ thuộc vào tình hình kinh tế mà phụ thuộc vào điều
khoản vay nợ. Điều nàu làm phản ánh không thực tiễn diễn biến điều hành của
Chính phủ đối với ngân sách nhà nước, có nhiều năm các khoản chi tăng là do chi
trả nợ như năm 2005, 2006 hay năm 2010 chi trả nợ tăng so với dự toán chủ yếu là
do chi trả các khoản nợ trước hạn, theo báo cáo chính phủ dự toán chi 70.250 tỷ
đồng, kết quả thực hiện đạt 80.250 tỷ đồng, tăng 14,2% so với dự toán.
Ngoài ra có các khoản chi để ngoài ngân sách. Kể từ năm 2003, Việt Nam đầu tư
rất nhiều cho các công trình giao thông, thủy lợi. kiên cố hóa trường học phổ thông qua
việc phát hành trái phiếu chính phủ và công trái giáo dục. Tuy nhiên các khoản này lại

được hạch toán ngoài cân đối ngân sách nhà nước. Như vậy nếu tính mức thâm hụt thực
tế thì sẽ rất lớn, điều này phản ánh không đúng thực tế làm giảm việc điều hành trong cơ
chế kinh tế vĩ mô. Cụ thể theo chuyên gia tư vấn quốc tế Jitendra Modi thì tỷ lệ thâm hụt
ngân sách ở Việt Nam năm 2007 phải là 6.9% GDP thay vì con số xấp xỉ 5% GDP như
báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội. Trong kỳ họp Hội Nghị Nhóm tư vấn cho Việt
Nam được tổ chức tại Kiên Giang, thì đại diện của Quỹ Tiền tệ IMF cho biết thâm hụt
năm 2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với
mức Việt Nam công bố chỉ đạt 6.9% GDP. Đối với IMF, rõ ràng đó là một mức thâm hụt
“lớn” và “không bền vững”. Mức chênh lệch giữa 2 % GDP nếu quy đổi ra con số tuyệt
đối sẽ lên đến hàng nghìn tỷ đồng- một con số quá lớn trong điều kiện phải kiểm soát và
thắt chặt chi tiêu như hiện nay. Tình hình thâm hụt NSNN của Việt Nam đang diễn ra hết
sức phức tạp..

Bảng 3.6: Thâm hụt NSNN năm 2009 theo cách tính của Việt Nam và
theo cách tính của thông lệ quốc tế
20


(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu

2009

A

Tổng thu và viện trợ

466.286

1


Thu từ thuế và phí

418.790

2

Thu về vốn

3

Thu viện trợ không hoàn lại

B

Thu kết chuyển

162.901

C

Tổng chi ngân sách (không bao gồm chi trả nợ gốc)

661.972

1

Chi đầu tư phát triển

181.363


2

Chi thường xuyên

326.666

3

Chi chuyển nguồn

153.943

4

Dự phòng

D

Chi trả nợ gốc

53.244

E

Chênh lệch thu chi ngân sách địa phương

28.413

F


Trái phiếu chính phủ

55.691

H

Vay về cho vay lại

23.675

1

Thâm hụt Ngân sách theo cách tính của Việt Nam
Không bao gồm trái phiếu, vay về cho vay lại
So với GDP (%)

39.588
7.908

-114.442
-6,90%

Gồm cả trái phiếu, vay về cho vay lại
So với GDP (%)
2

Thâm hụt Ngân sách theo cách tính GFS
So với GDP (%)


11,69
- 140.564
-8,48%

21


3.3.

Một số đánh giá về thâm hụt NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013
Thứ nhất, tình trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài trong nhiều năm. Dù

trong những năm gần đây chinh phủ đã có những chính sách nhằm kiềm chế sự tham hụt
này và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên mức thâm hụt ngân sách này được xem là
cơ sở các thước đo thông lệ quốc tế. Vì vậy việc kéo dài thâm hụt trong khoảng thời gian
tới là tiêu cực đối với Việt Nam, khi thâm hụt kéo dài và hiệu quả đầu tư công đang giảm
sút thì việc tiếp cận nguồn vốn mới sẽ trở nên khó khăn hơn.
Thứ hai, cơ cấu thu NSNN còn dựa vào các khoản thu một lần và các khoản thu
không thường xuyên cũng như các khoản thu không tái tạo. Như phân tích ở trên, quy mô
thu của Việt Nam tăng qua các năm, việc gia tăng nguồn thu tạo điều kiện để tăng chi
nhằm phát triển kinh tế xã hội, đồng thời hạn chế quá mức về thâm hụt ngân sách. Như
vậy Việt Nam cần phải tối đa hóa nguồn thu như thế nào sao cho phù hợp và kéo dài sự
tăng trưởng này? Tuy nhiên trong giai đoạn 2000-2013 cho thấy, Việt Nam phụ thuộc
nhiều vào các khoản thu không thường xuyên hay các khoản thu không tái tạo nhưu dầu
thô, giao quyền sử dụng đất hay là các khoản thu từ viện trợ nước ngoài các khoản thu
này thường chiếm gần 35% tổng thu. Đặc biệt trong những năm qua Việt Nam đã tăng
nguồn thu từ thuế TNDN và GTGT , tuy nhiên trong giai đoạn nền kinh tế đang phục hồi
và Việt Nam đã có những ưu đãi về thuế TNDN thì các nguồn thu này trong năm tới cũng
sẽ có những hạn chế và sự đóng góp của từng sắc thuế đối với tổng thu thuế cũng đã có
sự thay đổi. . Theo đó, yêu cầu đặt ra là Việt Nam phải có định hướng rõ ràng trong việc

thực hiện cơ cấu lại hệ thống thu ngân sách tăng cường vai trò của các nguồn thu khác
dựa trên nền tảng từ thu nội địa, đây được xem là điều kiện cần trong việc gải thâm hụt
ngân sách bên cạnh việc cơ cấu chi NSNN
Thứ ba, áp lực chi ngân sách ngày càng tăng, nhất là chi đầu tư phát triển, chi
đảm bảo cho an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo trong khi đó hiệu quả quản lý và sự
dụng nguồn lực NSNN vẫn còn một số hạn chế. Việc xây dựng cơ sở hạ tang trong nhưng
năm tới là rất lớn vì nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong khi đó chất lượng cơ sở hạ
tầng của Việt Nam vẫn còn rất thấp.

22


Bảng 3.7: Xếp hạng cạnh tranh và cơ sở hạ tầng 2010-2011
Quốc gia

Xếp hạng cạnh tranh

Xếp hạng cơ sở hạ tầng

Nhật Bản

6

11

Hàn Quốc

22

18


Malaysia

26

30

Trung Quốc

27

50

Thái Lan

38

35

Inđônêsia

60

82

Phi-líp-pin

99

104


Việt Nam

59

83

Bên cạnh đó các khoản chi thường xuyên là các khoản chi mà xu hướng tăng dần
theo thời gian. Như vậy nhu cầu tăng chi ngân sách để giải quyết các vấn đề lên quan như
cải cách lương, an sinh xã hội sẽ là những khó khăn trong việc giảm thâm hụt Việt Nam
trong những năm tới.
Thứ tư, tiêu chí để xác định các khoản thu, các khoản chi ngân sách nhà nước
vẫn còn rất nhiều bất cập, chưa thực hiện theo chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung.
Hiện nay một số chỉ tiêu trong hệ thống báo cáo tài khóa ngân sách ở Việt Nam vẫn
chưa được thực hiện theo các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận chung, ví dụ, Cẩm
nang về Thống kê tài chính chính phủ. Một số khoản thu, chi ngân sách vẫn chưa
được phản ánh vào cân đối mà còn đề ngoài ngân sách nên trong một số trường hợp
không phản ánh chính xác được thực trạng của quy mô thu, chi NSNN, ví dụ như một
số khoản phí, lệ phí, thu từ nguồn xổ số kiến thiết, đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu
chính phủ... Trong xác định nguồn thu, không có sự phân biệt giữa nguồn thu
mang tính chất thuế (không hoàn trả trực tiếp...) với các nguồn thu ngoài thuế (từ tài
sản...) để hình thành các phương thức sử dụng phù hợp. Ví dụ, nguồn thu từ dầu thô vẫn
đang được gộp chung vào nhóm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí dưới giác độ là các
khoản thu “thường xuyên”. Trong cân đối ngân sách hàng năm có khoản thu kết chuyển
và chi chuyển nguồn từ năm ngân sách này sang năm ngân sách sau. Hay nói cách
khác, NSNN hàng năm vẫn có thâm hụt trong khi lại vẫn có nguồn chưa chi hết
được chuyển sang năm sau. Phân tích trong phần trên cũng đã chỉ ra điểm khác biệt cơ
23



bản trong cách tính thâm hụt NSNN của Việt Nam hiện nay so với thông lệ quốc tế.
Thứ năm, chi phí huy động vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách có xu hướng tăng
những năm gần đây. Đối với vay bù đắp thâm hụt từ nguồn nước ngoài của Viêt Nam
chủ yếu hiện này là thuộc diện vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn vay. Nhưng hiện nay,
khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thì xu hướng của những khoản vay
ưu đãi từ các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài có thể giảm xuống mà thay
vào đó là các khoản vay thương mại có xu hướng tăng lên. Vay từ ngước ngoài có thể đi
kèm với những ưu thế về công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, hiện đại. Nhưng những
thách thức, rủi ro cũng không nhỏ khi phải đáp ứng các điều kiện ràng buộc của bên
đi vay, rủi ro về tỷ giá. Trong những năm gần đây, mặc dù Việt Nam đang rất nỗ lực để
phát triển thị trường vốn trong nước, qua đó tạo ra kênh huy động vốn quan trọng cho
Chính phủ cũng như cho khu vực sản xuất kinh doanh. Phân tích ở trên đã cho thấy
trong vay bù đắp thâm hụt NSNN, Việt Nam đã thành công trong việc giảm dần sự phụ
thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên vấn đề chi phí vốn này lại phụ thuộc khác
nhiều vào tình hình kinh tế do tác động của lạm phát, vì vậy Việt Nam cần phải kiềm chế
lạm phát ở mức ổn định để hạn chế các khoản chi phí sự dụng vốn, góp phần trong việc
giảm thâm hụt NSNN.
3.4. Kết luận
Thâm hụt ngân sách nhà nước Việt Nam trong những năm qua là những vấn đề
đáng quan tâm của chính phủ cũng như xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế cũng
như các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế hay cán cân thương mại, bên cạnh
đó còn làm tăng nợ công để bù đắp các chi phí về đầu tư xây dựng phát triển của đất
nước. Với những đánh giá về thâm hụt ngân sách trong thời gian qua, có thể cho thấy
NSNN đang có những vấn đề cụ thể. Trong khoảng thời gian tới chính phủ nên hoàn
thiện về cơ chế thu chi NSNN cũng như cách tính thâm hụt ngân sách nhằm có những
chính sách tốt hơn về ngấn sách trong khoảng thời gian tới, bên cạnh đó Chính phủ nên
nâng cao quản lý chi tiêu công cũng như các hoạt động chi đầu tư phát triển, tránh tình
trạng các dự án đầu tư xây dựng cơ bản không phát triển trong thời gian qua. Có sự tham
gia của nhóm khu vực tư vào các công trình công để hiệu quả hơn nữa trong đầu tư.
24




×