Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản- thực trạng và tiềm năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.5 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Mục lục
Lời mở đầu

2

Chương I. Lý luận chung về thị trường và thị trường thủy sản

3

I. Lý luận chung về thị trường.

3

1. Bản chất của thị trường

3

2. Chức năng của thị trường

3

3. Vai trò của thị trường

6

II. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản

7


1. Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản

8

2. Sự hình thành giá cả theo thời vụ

10

3. Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản

11

4. Thị trường sản phẩm trong nước cịn mang tính nhỏ, lẻ

11

Chương II. Thị trường sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm năng

12

I. Thị trường nội địa.

12

1. Cung – cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước

12

2. Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa


17

3. Những tiềm năng của thị trường thuỷ sản nội địa

19

II. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam

20

1. Thị trường các nước Châu á

20

2. Thị truờng EU

21

3. Thị trường Mỹ

22

III. Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng và tiềm năng

24

1. Khai thác hải sản

24


2. Chế biến và dự trữ

26

3. Tiêu thụ sản phẩm

27

Kết luận.

29

Tài liệu tham khảo

1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lời Mở Đầu
Thuỷ sản là một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, sản phẩm thuỷ sản là một mặt hàng vô cùng thân thuộc
không chỉ đối với người dân Việt Nam mà còn là một phần tất yếu
trong mỗi bữa ăn của người dân các nước khác trên thế giới. Chính vì
vậy mà việc làm thế nào để phát triển ngành thuỷ sản không chỉ là
công việc của những nhà nghiên cứu kinh tế mà còn là mối quan tâm
chung của cả cộng đồng.
Người ta nói rằng, thị trường đầu ra của sản phẩm chính là bộ
mặt, là thước đo đánh giá trình độ phát triển của ngành hàng nói riêng
và của tồn bộ nền kinh tế nói chung. Vậy, để đánh giá đúng vị trí của

ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân, ta phải tìm hiểu và phân
tích thật tỉ mỉ về thị trường đầu ra cho sản phẩm của nó.
ở Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản xuất hiện từ rất sớm nhưng việc
phân phối sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng còn nhiều bất cập.
Không phải bất cứ người dân nào cũng được dùng những sản phẩm
thuỷ sản tươi, ngon, bổ, phù hợp với túi tiền của mình, trong khi đó
người sản xuất, đơi khi lại khơng tiêu thụ được sản phẩm mình làm ra,
để nó bị hư hỏng một cách rất lãng phí. Giải pháp hiệu quả của vấn đề
này, đó là làm thế nào để khai thác và mở rộng thị trường tiêu thụ một
cách hợp lý nhất từ đó đưa ra những biện pháp phù hợp giúp ngành
thuỷ sản phát triển góp phần nâng cao tiềm lực kinh tế của cả nước.
Đó cũng là lý do vì sao em chọn cho mình đề tài của Đề án
chuyên ngành là:" Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - thực trạng
và tiềm năng"
Kết cấu đề tài gồm hai chương.
Chương I : lý luận chung về thị trường và thị trường thủy sản.
Chương II: Thị trường sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm
năng.
2


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Chương I: Lý luận chung về thị trường và thị
trường thủy sản
I.

Lý luận chung về thị trường.

1- Bản chất của thị trường.

Về bản chất thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó
người bán và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau
tuân theo các quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn
sau:
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế
hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
- Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm làm
ra; gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu
tiêu dùng.
- Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí
sản xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải giảm chi
phí, tiết kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

2- Chức năng của thị trường.
a - Cơ cấu của thị trường.
Cơ cấu tổ chức của thị trường gồm các nhóm chủ thể kinh tế với
chức năng riêng biệt của nó trong hệ thống thị trường.
Các nhóm chủ thể kinh tế này có quan hệ với nhau thông qua
dây chuyền Marketinh sau:
Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ
- Người tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể trong dây chuyền
Marketinh trên có một chức năng riêng biệt trong hệ thống thị trường:
+ Người sản xuất: Người sản xuất bao gồm các doanh nghiệp, công
ty sản xuất, hợp tác xã, hộ gia đình, trang trại có chức năng tạo ra sản
3


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


phẩm trên cơ sở sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất, tạo ra giá trị
mới bổ sung vào giá trị cũ được chuyển từ các yếu tố đầu vào.
+ Người bán buôn: Người bán buôn gồm các doanh nghiệp thương
mại, hợp tác xã thương mại, hộ gia đình có chức năng đưa sản phẩm từ
người sản xuất đến người chế biến và do phải thu gom, bảo quản, sơ
chế... nên tạo thêm giá trị mới bổ sung vào sản phẩm làm tăng giá trị
sản phẩm.
+ Người chế biến: Người chế biến cũng bao gồm các doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ gia đình có chức năng chế biến sản phẩm từ dạng thơ
sang sản phẩm có tính cơng nghiệp làm chất lượng sản phẩm tăng
thêm và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do phải chi phí cho
chế biến làm cho giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Người bán lẻ: Người bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp, đơn vị tập
thể, tư nhân có chức năng đưa sản phẩm từ nơi chế biến đến người tiêu
dùng cuối cùng. Do phải chi phí cho hoạt động thương mại do đó làm
cho giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Người tiêu dùng: Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong
xã hội có chức năng hồn trả tồn bộ chi phí từ khâu sản xuất đến
khâu dịch vụ cuối cùng của quá trình sản xuất và tiêu dùng.
• Qua cơ cấu trên, người ta có thể phân loại thị trường thành
thành: thị trường các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu
sản xuất và thị trường sản phẩm hay còn gọi là thị trường hàng tiêu
dùng.
b - Chức năng của thị trường.
Bản chất của thị trường còn thể hiện ở những chức năng của nó
Với tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trường có các chức năng
cơ bản sau:
Chức năng thừa nhận.
Mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá đều

4


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhất định, thông qua một loạt thảo thuận về giá cả, chất lượng, số
lượng, phương thức giao hàng, nhận hàng...trên thị trường. Chức năng
thừa nhận của thị trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua
hàng hoá, dịch vụ của người bán và do vậy hàng hoá đã bán được.
Thực hiện chức năng này nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất
hàng hoá và mua bán chúng theo yêu cầu các quy luật của kinh tế thị
trường.
Chức năng thực hiện.
Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào
cho sản xuất và đầu ra sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hoá thì hoạt
động mua và bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể kinh tế. Chức năng thực hiện của thị trường thể
hiện ở chỗ, thị trường thực hiện hành vi trao đổi, thực hiện cân bằng
cung cầu từng loại sản phẩm hàng hố, hình thành giá cả và thực hiện
giá trị của các sản phẩm hàng hố.
Chức năng điều tiết kích thích.
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để
thực hiện chức năng điều tiết kích thích của thị trường. Thực hiện chức
năng này, thị trường có vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử
dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm của đất nước cho q trình sản
xuất kinh doanh sản phẩm.
Chức năng thơng tin.

Có nhiều kênh thơng tin kinh tế, trong đó thơng tin thị trường là
rất quan trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung,
tổng cầu hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng
hoá trên thị trường, chất lượng, giá cả hàng hố, thậm chí cả thị hiếu,

5


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cách thức, phong tục tiêu dùng của người dân...Những thơng tin thị
trường chính xác là cơ sở quan trọng cho việc ra các quyết định.
Các chức năng trên của thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai trị bản chất của mình.
Chức năng thừa nhận là quan trọng nhất, có tính quyết định. Chừng
nào chức năng này được thực hiện thì các chức năng khác mới phát
huy tác dụng. Nếu chức năng thừa nhận đã được thực hiện mà các
chức năng khác không thể hiện ra thì chắc chắn đã có những yếu tố
phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị trường làm cho nó biến dạng đi.

3- Vai trị của thị trường.
Thị tr-ờng có một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc phát
triển nền kinh tế thị trường. Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hố
và dịch vụ thơng qua các quy luật của kinh tế hàng hoá, do đó nó là
điều kiện cần và buộc phải có để kết thúc một chu trình sản xuất kinh
doanh, thực hiện lợi nhuận cho nhà đầu tư. Thông qua thị trường, tất
cả các chủ thể kinh tế đều có thể tự do mua những gì mình cần, bán
những gì khách hàng muốn cũng như mình có thể đáp ứng, nhằm thu
lợi nhuận. Giá cả thị trường được xác định bởi sự cân bằng cung cầu,
do đó bí quyết để thành cơng trong kinh doanh là phải làm sao chiếm

được lòng tin của khách hàng, mở rộng thị trường, thị phần cho sản
phẩm của mình. Ngồi vai trị thực hiện lợi nhuận cho người kinh
doanh, thị trường cịn có vai trị trong việc phân bổ những nguồn lực
khan hiếm đều cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh tế
thông qua giá cả thị trường.
Qua những vai trò trên, hơn ai hết những người làm kinh tế và
những người nghiên cứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng
của thị trường, từ đó có những giải pháp để tìm kiếm
6


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

và phát triển thị trường cho sản phẩm của mình một cách phù hợp.
Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt, nhiều sản phẩm trên thị trường là
Một trong những thành công lớn mà bất cứ người làm kinh tế nào cũng
mong đạt được.
Nhưng để đạt được thành cơng đó khơng phải là vấn đề đơn giản, mà
là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tịi cũng như chấp nhận mạo hiểm,
rủi ro trong kinh doanh do chính thị trường mang lại.
Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướng kinh
tế thị trường lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm
nền tảng, đã đưa nền kinh tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể
so với cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả các thành viên
trong xã hội có đủ điều kiện kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt
Nam đều được kinh doanh các mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các
thông tin thị trường luôn là những thơng tin mở, nắm bắt nó một cách
nhanh chóng, nhạy cảm sẽ đem lại những thành cơng lớn cho người
làm kinh tế, qua đó góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh

tế phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp hiện đại
trên thế giới.

II - Đặc điểm của thị trường thuỷ sản.
Do đặc điểm của sản xuất, chế biến và tiêu dùng hàng thuỷ sản,
thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản là một thị trường đa cấp.
Việc tìm hiểu, phân tích thị trường sản phẩm đầu ra cho thuỷ sản là
phân tích trạng thái cân bằng ở mỗi cấp thị trường.
Mỗi một loại sản phẩm thuỷ sản ( sản phẩm tươi, sản phẩm chế
biến, sản phẩm khơ...) đáp ứng địi hỏi của thị trường về tất cả các mặt
như : thời gian, không gian, chất lượng, giá cả, số lượng...Do vậy, chủ
7


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thể kinh tế tham gia trên dây chuyền marketinh cần bỏ ra những chi
phí nhất định để đáp ứng những địi hỏi nói trên của thị trường. Những
chi phí này sẽ được phản ánh vào giá cả. Khi thị trường chấp nhận giá,
gồm giá sản phẩm thuỷ sản thơ cộng với chi phí chế biến, chi phí
marketinh thì chênh lệch giữa giá đó với giá ở cấp thị trường trước đó
được gọi là độ cận biên thị trường.Từ những lý luận trên, để thấy được
trạng thái cân bằng của mỗi cấp thị trường, ta đi tìm hiểu về độ cận
biên thị trường qua giá cả của sản phẩm.

1- Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản.
Độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản là một khái niệm thể
hiện giá trị dơi ra ở mỗi mắt xích nào đó trên dây chuyền marketinh
sản phẩm. Chẳng hạn, người ta xem xét độ cận biên giá bán lẻ và giá
bán buôn hoặc độ cận biên giữa giá bán buôn và giá bán lẻ. Như vậy

là người ta có thể xem xét độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản
giữa bất kỳ hai cấp thị trường nào đã định giá.
Chúng ta tiếp cận ở phía người tiêu dùng thủy sản từ hai khía
cạnh của q trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nói
chung và của ngành thuỷ sản nói riêng, người tiêu dùng các lượng sản
phẩm thuỷ sản chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông
dân sử dụng sản phẩm thuỷ sản thơ do mình tự đánh bắt hoặc ni
trồng lấy nhiều hơn, cịn ở thành phố thì người tiêu dùng các sản phẩm
đã qua chế biến với số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người
tiêu dùng khác nhau có những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức
chất lượng và dịch vụ cung cấp hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên
cùng với sự phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu
8


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

dùng ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm
tăng giá trị của sản phẩm thuỷ sản. Kết quả là trong cơ cấu giá mua
hàng thuỷ sản của người tiêu dùng, phần trả cho cho các dịch vụ có
chiều hướng tăng lên, cịn trả cho sản phẩm thơ, sơ chế có chiều hướng
giảm xuống. Cùng với sự phát triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ
tăng lên. Độ cận biên thị trường giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ
đánh bắt ( ngư trường, trang trại ni cá, hộ gia đình...) là sự chênh
lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho người tiêu dùng cuối cùng và giá mà
người sản xuất thuỷ sản nhận được khi bán sản phẩm thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần:
Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối

với một loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua
chế biến gọi là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp
bán lẻ có kết hợp cả sản phẩm thuỷ sản thơ và dịch vụ. Đường cầu này
được tạo ra khi đem mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về
các dịch vụ. Tương tự như vậy, đường cung phái sinh cũng được tạo ra
khi đem các giá trị trên đường cung ban đầu cộng với các giá trị về các
dịch vụ mà người tiêu dùng yêu cầu đối với người sản xuất. Giao điểm
của các đường cung và cầu này sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản
trên thị trường.
Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ
thống thị trường tạo ra về thời gian, khơng gian, hình thức sản
phẩm...thì ở đây độ cận biên thị trường phản ánh mức chuẩn bị đầy đủ
thoả dụng đó cho người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí cho sự
chuẩn bị “ này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị
trường ”
Muốn phân tích đầy đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trường hợp
cụ thể đó là: trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi ( trong thời
gian ngắn) và trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi ( xét trong
9


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

khoảng thời gian dài).

2- Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nơng nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành
sản xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tình thời vụ khá
cao là nét đặc trưng nhất. Tình thời vụ của sản xuất thuỷ sản thể hiện
rõ ở sự biến động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính

khơng ổn định của giá cả thị trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị
trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản tập trung vào sự hình thành giá
cả thị trường theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa
trên các qui luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ của
ngành thuỷ sản là khá cao. Vào đúng mùa vụ, người sản xuất cung ứng
sản phẩm theo nhu cầu của người tiêu dùng và do đó giá cả được hình
thành dựa trên quan hệ cung cầu. Nhưng vào lúc trái vụ, trong khi
nhu cầu của người tiêu dùng là khơng thay đổi thì người sản xuất lại
khơng có sản phẩm để bán hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ
sản là quá lớn làm cho giá cả của sản phẩm trên thị trường tăng lên, và
ta dễ dàng nhận thấy là mức tăng lên của giá phải lớn hơn chi phí mà
người cung ứng bỏ ra để dự trữ sản phẩm( ở đây ta phải hiểu là sản
phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ vì đặc tính mau ươn, chóng hỏng của
nó..)
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản
xuất thuỷ sản đã làm cho giá cả của sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất
lớn theo thời gian. Người sản xuất, cung ứng sản phẩm cần nắm rõ đặc
điểm này để có chiến lược kinh doanh phù hợp sao cho mức lợi nhuận
từ hoạt động đầu tư của mình là lớn nhất.

3- Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản.
10


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trên thị trường thuỷ sản ta thấy thường chỉ tồn tại dạng độc quyền
nhất thời. Tính chất độc quyền này do trình độ sản xuất của ngành
thuỷ sản ch-a cao mang lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành

sản xuất phân tán ở nhiều vùng trên cả nước dẫn tới tình trạng độc
độc quyền nhất thời là không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trường thuỷ sản như sau:
Với một hệ thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên
cả nước, trong khi đó trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và
của ngành thuỷ sản nói riêng cón thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển
chuyển, cơ sở chế biến còn thiếu thốn lạc hậu, cả một vùng rộng lớn
sản xuất và đánh bắt mới có một cơ sở mua gom, chế biến. Điều này
dẫn tới sự độc quyền trong mua gom sản phẩm và phân phối các sản
phẩm chế biến của các cơ sơ nói trên. Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng
độc quyền nhất thời, khi trình độ phát triển của nền kinh tế cao hơn,
sự trang bị cho ngành thuỷ sản hiện đại hơn, trình độ sản xuất, đánh
bắt cũng như chế biến của ngành thuỷ sản ở mức độ hiện đại hơn, các
cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn thì tình trạng độc quyền này
sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của người mua với người sản xuất,
ni trồng sẽ khơng cịn nữa, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn
hoả cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam.

4- Thị trường sản phẩm trong nước cịn mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế của hệ thống bờ biển và sơng ngịi, ao hồ của Việt Nam
dẫn tới các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước.
Trình độ phát triển của ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị
trường sản phẩm thuỷ sản cũng phân bố rộng khắp trên cả nước với
tính chất là nhỏ và lẻ. ở trong nước, sản phẩm thuỷ sản được bán chủ
yếu tại các chợ ở các địa phương với quy mô không lớn. Các khu chế
biến cung ứng sản phẩm thuỷ sản lớn chưa được hình thành hoặc đang
11


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


manh nha, không đáng kể. Do vậy, hình thành nên một mạng lưới hệ
thống thị trường nhỏ và lẻ phân bố rộng trên các vùng trong cả nước.

Chương II. Thị trường sản phẩm thuỷ sản thực trạng
và tiềm năng
I-

thị trường nội địa.
1- Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước.

Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển
rất mạnh vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế của cả
nước. Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là ngành thuỷ sản đã quá chú
trọng tới xuất khẩu, trong khi đó theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia
FAO tiến hành tại Việt Nam từ cuối 2001, thông qua 85 cuộc
phỏng vấn và 2000 cuộc điều tra mẫu với các đối tượng người tiêu
dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành của cả ba miền thì có tới 70% lượng
thuỷ sản hàng năm được tiêu thụ tại thị trường nội địa (năm 2003 ).
Như vậy, có thể khẳng định thị trường trong nước cho sản phẩm thuỷ
sản là rất lớn cần được chú trọng phát triển.
Vì là nghiên cứu nhấn mạnh vào thị trường trong nước nên người
ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề vốn dĩ còn yếu kém của Việt Nam
như cách tiếp cận thị trường ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá cũng như
nhu cầu và tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản ở cấp độ người tiêu dùng
liên quan đến các hoạt động của người bán sỉ, lẻ và các cơ sở chế biến.
Về mặt dân tộc, tôn giáo :
khơng thấy có rào cản hoặc hạn chế nào đối với người tiêu thụ thuỷ sản
vì phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo đạo Phật hoặc các tơn
giáo khác.Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở có lợi cho tiêu thụ

thuỷ sản trong người tiêu dùng nội địa dựa vào nghề nghiệp và thu nhập
của người dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược phát triển thị trường
12


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

vào người tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản của ngời tiêu dùng dựa vào thói
quen ăn uống thì hộ gia đình được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu
hết các thành viên trong gia đình ăn tại nhà do đó thường thấy hành vi
tiêu thụ thuỷ sản trong mơ hình tiêu thụ hộ gia đình.
Ngồi ra có tới 34.4% số người ăn ở các hàng ăn bình dân.
Từ đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản được chấp nhận rộng rãi
trong người tiêu dùng.
Vậy mô hình tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với người tiêu
dùng trong nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đình người phụ
nữ thường đảm trách vai trị này ( 83.8%). Cứ hai ngày người ta đi
mua thuỷ sản một lần, mỗi lần mua khoảng chừng 1kg, ở thành thị
người tiêu dùng sẵn sàng bỏ trung bình 20 ngàn đồng/lần cịn ở khu
vực cận đơ thị và nơng thôn các con số tương ứng là 15 và 10 ngàn
đồng/lần. Nói tóm lại, hiện nay mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong
các hộ gia đình, tuy nhiên có hạn chế là đa số thuỷ sản tiêu dùng có
trọng lượng dưới 1 kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song
phần lớn là chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ, nếu biết
khai thác tiềm năng về thị trường trong nước sẽ cịn lớn hơn rất nhiều.
ở nơng thơn, ngồi sản phẩm thuỷ sản do người nông dân tự đánh bắt
được qua hệ thống sơng ngịi, ao hồ tự nhiên thì nhu cầu tiêu dùng
thuỷ sản ngon cũng khá lớn nhất là trong điều kiện hiện nay, do việc

đánh bắt bừa bãi, không khoa học đã làm cho lượng cá, tôm ở các dịng
sơng lâm vào tình trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc
pha trộn tính ơn đới. Đặc điểm này tạo cho ngành thuỷ sản một số
thuận lợi đó là: sự phong phú về giống loài sản phẩm dẫn tới sự đa
dạng trong các mặt hàng thuỷ sản đặc biệt là các lồi có giá trị kinh tế
và xuất khẩu; việc ni trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm làm cho thị
13


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trường thuỷ sản luôn phong phú.
Một số loại sản phẩm thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị
trường như :
- Đối với vùng nông thôn: cá mè, cá chép, cá bống, cá trắm cỏ, trắm
đen,trê, rô phi, tôm đồng, trôi ấn độ....
- Đối với vùng thành phố và đơ thị thì những sản phẩm được tiêu
dùng chủ yếu là : Cá ba sa, trê lai, trắm cỏ, tôm rảo, chim trắng, chim
hồng, cá nục, cá đối, mực, cua, ram.....
Để thấy được sự đa dạng của thị trường thuỷ sản trong nước ta tìm
hiểu một vài thị trường cá chủ yếu ở các, vùng, miền trong cả nước:
a - Thị trường miền Bắc
ở miền Bắc, thị trường cá chủ yếu là ở các chợ, đối với vùng nơng
thơn thì chợ cá có quy mơ nhỏ, vừa. Sản phẩm chủ yếu là các lồi cá
nội đồng, tôm, sản phẩm biển không nhiều.
Những sản phẩm đ- ợc ng-ời tiêu dùng Hà Nội mua nhiều nhất là
cá kho tộ, philê đông lạnh, chả quế, canh chua ba sa.
Hiện nay, Thái Bình An Giang đã có một số mạng lưới phát triển
thị trường vững mạnh tại một số tỉnh, tạo tiền đề để thương hiệu

Agifish thâm nhập đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong mọi thành phần
dân cư .
Mở rộng thị trường, mở rộng mạng lưới kinh doanh, đặc biệt
tại một số tỉnh, nhằm đưa sản phẩm cá ba sa đến được với mọi người
dân một cách nhanh, hiệu quả, chất lượng và chiếm thị phần ngày
càng lớn trên thị trường nội địa là tham vọng của Thái Bình An Giang
nói riêng và của người sản xuất thuỷ sản nói chung.
b- Thị trường miền Trung.
Đối với miền Trung, do điều kiện địa lý tạo nên cho vùng một lợi thế
lớn để phát triển thuỷ sản dẫn tới các thị tr- ờng thuỷ sản rất đa dạng.
Việc đánh bắt hải sản ngoài biển khơi phát triển hơn các vùng
khác. Các chợ cá miền trung thường sôi động và mang nhiều nét riêng.
Trước hết, đó chủ yếu là những chợ bán buôn, là nơi trung chuyển sản
14


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phẩm đánh bắt, nuôi trồng từ những ngư dân qua tay các chủ nậu vựa,
người mua buôn. Phải qua một vài bàn tay nữa sản phẩm mới đến
được với tay người tiêu dùng. Thứ hai, các chợ này đều hoạt động từ
nửa đêm đến sáng. Ví dụ như tại cảng cá Thuận Phước-cảng cá lớn
nhất của Đà Nẵng- là một trong những cảng cá được xây dựng trong
dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá mới đưa vào sử dụng.
Cập cảng Thuận Phước ngồi tàu thuyền bản địa cịn là nơi tập
trung nguồn nguyên liệu từ các nơi khác đến cung cấp cho thị trường
trong nước và xuất khẩu. Thời gian hoạt động chính của cảng từ 2 giờ
đến 11 giờ, cao điểm từ 3 đến 7 giờ. Tuỳ thuộc vào lượng cá đưa về
từng ngày, trung bình có 1000-2000 người tham gia vào các hoạt động
buôn bán ở đây. Cảng có Ban quản lý và những đơn vị phục vụ như:

đội bảo vệ, đội thu phí, đội vệ sinh mơi trường, tổ dịch vụ điện nước,
văn phịng giao dịch. Ngồi ra còn tổ giữ hàng, người gánh thuê, tổ cho
thuê bạt thuê cân, đội xuồng vận chuyển nhỏ. Nghĩa là moị nhu cầu
dịch vụ đều đ- ợc đáp ứng.
Các chủ nậu có vai trị rất quan trọng. Họ là những người cung ứng
nhu yếu phẩm, nhiên liệu cho tầu cá, đồng thời cũng là người tiếp nhận
hàng từ các tàu thuyền cập cảng giao cho người buôn, chịu trách
nhiệm thu tiền giao cho các chủ thuyền. Họ thường là người địa
phương, có nhiều kinh nghiệm, manh mối trong làm ăn, gồm khoảng
20 đến 30 người. Người buôn được phân làm hai loại, những người
buôn với số lượng lớn tập trung để xuất khẩu và những người mua với
lượng nhỏ hơn để tiêu thụ tại địa phương. Quang cảnh của chợ cá
Thuận Phước càng về sáng càng sôi động.
Tại miền Trung, tuy nghề thuỷ sản phát triển từ khá sớm, rất
đông các hộ tham gia làm thuỷ sản nhưng ngoài cảng Thuận Phước
của Đà Nẵng là khá lớn thì các chợ cá khác chỉ vừa và nhỏ như cảng cá
Cù Lao-Nha Trang. Tại đây, lượng hàng nhập rất thưa thớt, một vài
năm gần đây tàu không đưa cá về cảng nữa do diện tích cảng chật hẹp,
khơng có đủ các cơ sở dịch vụ hậu cần và những tư thương tại đây mua
15


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

sản phẩm với giá không cao. Hiện nay, Nha Trang đang bắt tay vào để
xây dựng một cảng mới-cảng Hòn Rớ với hy vọng thị trường sản phẩm
thuỷ sản ở đây phát triển hơn. Giá cá và hàng thuỷ sản khác thường
xuyên giao động nhưng ở mức độ không lớn. Tuỳ theo lượng hàng về
bến hay nhu cầu tiêu thụ mà sản phẩm có giá khác nhau, nhưng được
chia làm hai nhóm rõ rệt: nhóm sản phẩm cao cấp có giá trị rất cao chỉ

dành cho xuất khẩu và một số ít được đưa vào các nhà hàng, chẳng
hạn như cá mú 70000 đồng/kg, ngừ đại dương 72000 đồng/kg, mực ống
70000 đồng/kg...nhóm cịn lại có giá trị phải chăng, phù hợp với tiêu
thụ nội địa như cá dũa 7000 đồng/kg, cá thu 22000 đồng/kg.
c- Thị trường miền Nam.
Thị trường miền Nam, đây là một thị trường hết sức đa dạng và
phong phú, có thể nói là thị trường rộng và lớn nhất trong cả nư ớc.
Với lợi thế tự nhiên nhiều ao hồ, cộng với một hệ thống sơng ngịi dày
đặc,miền Nam là một nơi lý t-ởng để nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển.
Trước đây, trong những năm tháng chiến tranh, khi mà nền kinh tế
nước nhà còn nghèo nàn, lạc hậu, ng-ời dân đồng bằng Nam bộ đã coi
nghề đánh bắt cá là nghề nuôi sống họ qua những năm tháng đói khổ.
Giờ đây, khi đất nước đang trên đà phát triển, người dân đồng bằng
sông Cửu Long đã biết tận dụng những lợi thế do thiên nhiên ưu đãi để
phát triển nghề cá một cách khá thành cơng, điều đó được minh chứng
qua sự sôi động của thị trường thuỷ sản. Các sản phẩm thuỷ sản của
vùng đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng và phong phú bao gồm tất
cả các loại cá, tôm nội đồng và hải sản biển như: cá trê lai, cá quả, cá
rô phi, cá tra, cá ba sa, tôm nội đồng và tôm biển, đặc biệt ở đồng bằng
sơng Cửu Long có nghề ni cá lồng, bè rất phát triển cung cấp rất
nhiều sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và nước ngoài.
Một số thị trường sản phẩm thuỷ sản lớn của khu vực phía Nam là:
Bạc Liêu, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng
Tàu....
Ở Bạc Liêu, với diện tích ni trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ
16


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


biển dà i 56 km, diện tích các ngư trường rộng hàng chục ngàn km2...
Bạc Liêu là một trong những vùng biển có trữ lượng hải sản lớn
nhất của cả nước, cung cấp cho thị trường một lượng lớn sản phẩm hải
sản các loại, đặc biệt là trong đó có các loại tơm chiếm đến 20% tổng
sản lượng khai thác của vùng. Trong hai năm 2002-2003 ngành thuỷ sản
Bạc Liêu đã có tốc độ tăng trưởng về năng lực sản xuất, sản lượng và
giá trị kim ngạch xuất khẩu (khoảng 30%/năm)
Đối với ngành thuỷ sản của Bà Rịa-Vũng Tàu, sản lượng hải sản
đánh bắt đạt51.845 tấn, sản lượng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn.
Nói chung, ngành thuỷ sản của nơi đây khá phát triển, đặc biệt là
ngành nuôi trồng, đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ
hậu cần... Trong năm qua, tuy ngành thuỷ sản của đồng bằng sông Cửu Long
có nhiều biến động, nhưng nói chung thị trường của nó vẫn rất sơi
động và thu hút đối với nhà đầu tư ngà nh thuỷ sản, và có thể khẳng
định rằng đây vẫn là một thị trường hấp dẫn, mang lại lợi nhuận cao
cho những người đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản, trở thành một thành
viên trong kênh phân phối của sản phẩm thuỷ sản.

2- Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa
- Thứ nhất : Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đã ưu đãi,
ban tặng cho nước ta những điều kiện tuyệt vời để phát triển ngành
sản xuất thuỷ sản, thì đồng thời cũng chính những yếu tố tự nhiên đã
làm cho ngành thuỷ sản nước ta gặp khơng ít những rủi ro do hạn hán,
bão, lụt gây nên. Tất cả những điều đó làm cho ngành sản xuất thuỷ
sản ln ở thế bấp bênh dẫn tới thị trường sản phẩm thuỷ sản luôn
biến động bất thường, giá cả hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào
yếu tố tự nhiên này. Khi thời tiết thuận lợi, người sản xuất nuôi trồng,
đánh bắt được nhiều làm cho lượng hàng thuỷ sản cung cấp trên thị
trường nhiều hơn, giá cả rẻ hơn. Ngược lại, lúc mất mùa do thiên tai
gây nên, lượng cung sản phẩm trên thị trường ít hơn đẩy giá hàng hoá

17


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cao lên. Và những biến động do thiên tai gây nên này là khó tránh khỏi
đồng thời cũng khó biết trước được. Đây là một trong những nguyên
nhân khách quan dẫn tới sự biến động của thị trường sản phẩm thuỷ sản.
- Thứ hai : Do điều kiện phát triển kinh tế của nước ta chưa cao,
trình độ phát triển của ngành thuỷ sản còn ở mức lạc hậu so với thế
giới dẫn tới thị trường của sản phẩm thuỷ sản chưa phát triển ở trình
độ cao. Những sản phẩm thuỷ sản khi đánh bắt, nuôi trồng với số
lượng nhiều nhưng khâu bảo quản, chế biến còn chưa đáp ứng được
một cách thoả đáng làm cho hàng thuỷ sản nước ta chưa đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng ngày cà ng cao và khó tính của ng- ời tiêu dùng
trong cũng nh- ngồ i n-ớc. Tình trạng cơng nghệ bảo quản, chế biến,
thu gom còn thấp dẫn tới nhiều sản phẩm thuỷ sản sau khi đánh bắt bị
hỏng, ơi làm lãng phí một lượng đáng kể, và đây là một nguyên nhân
quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của thị trường
thuỷ sản trong nước.
- Thứ ba : Do những biến động về kinh tế trong khu vực và trên thế
giới làm cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới khó
tiêu thụ và điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động của thị
trường thuỷ sản trong nước. Sản phẩm hàng hố khơng xuất khẩu
được dẫn tới lượng tạm trữ trong nước cũng như lượng hàng cung cấp
cho thị trường trong nước tăng lên, giá sản phẩm rẻ, gây nên những
biến động không nhỏ trên thị trường.
- Thứ tư : Một vài năm gần đây, để tạo điều kiện cho ngành sản
xuất thuỷ sản Nhà nước ta đã cho phép ngành thuỷ sản tự tìm kiếm thị
trường trong và ngồi nước để giới thiệu sản phẩm đồng thời tự trang

trải kinh phí để phát triển do đó đã làm cho thị trường sản phẩm của
thuỷ sản được mở rộng và có những bước phát triển đáng kể.
Đó là một vài ngun nhân chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến
động và phát triển của thị trường thuỷ sản nội địa của nước ta.

3- Những tiềm năng của thị tr-ờng thuỷ sản nội địa.
18


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đã được xác định là
một trong những ngà nh kinh tế mũi nhọn của Việt Nam trong thế kỷ
21. Và phải khẳng định rằng, thời gian qua, chúng ta đã làm được
khơng ít tiền đề quan trọng trong việc tạo lực bẩy, khơi thông luồng ra,
phát triển năng suất và phát huy hiệu quả kinh tế của ngà nh. Tuy
nhiên, để nâng ngành thuỷ sản lên tương xứng với tầm vóc của nó,
chúng ta đang rất cần có những chiến lược lâu dài và sự phối hợp đồng
bộ của nhiều ban nganh khác nhau đặc biệt là việc khơi thông tiềm
năng về thị trường đầu ra cho sản phẩm. ở phạm vi bài này, em xin
được nêu một số tiềm năng nội lực cơ bản để phát triển thị trường đầu
ra cho sản phẩm hàng hố như sau;
Trước tiên, về mặt thơng tin-tiếp thị thị trường, ngành thuỷ
sản đã có nhiều nỗ lực cải thiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, đi vào
thực tế, vẫn có nhiều vấn đề khách quan cần phải được nhìn nhận.
Cũng như nhiều ngành nghề khác, hiện nay, ngành kinh doanh thuỷ
sản đang rất chú trọng tới phát triển thị trường cho sản phẩm đầu ra.
Có thể nói thị trường trong nước đối với sản phẩm này đang có rất
nhiều tiềm năng lớn: số lượng người tiêu dùng đông đảo, việc tiêu dùng
cá trong mỗi bữa ăn của các hộ gia đình đã trở thà nh một thói quen,

phong tục; Việt Nam đang xây dựng và phát triển một thị trường cạnh
tranh hồn hảo, trong đó mọi thơng tin thị trường đều được cung cấp
một cách tự do và đặc biệt luật cạnh tranh cho ngành thuỷ sản đang
còn nhiều thuận lợi...
Bên cạnh vấn đề thông tin- tiếp thị thị tr-ờng, một việc quan
trọng cũng cần được quan tâm nghiên cứu như là một tiềm năng lớn đó
là tăng cường đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến sau đánh bắt để
khai thác hết giá trị của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của khách hàng. Khơng ai có thể phủ
nhận trong thời gian qua nước ta đã có nhiều nỗ lực cải tiến trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên, thực tế mà nói, những gì phần đơng doanh nghiệp
19


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trong nước đã và đang có vẫn chưa thể gọi là hiện đại, đủ để đáp ứng
yêu cầu gắt gao của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Sản phẩm
sản xuất ra chưa được đưa vào chế biến một cách kịp thời, đúng cách
dẫn tới chất lượng hàng hoá chưa cao đồng thời cùng khơng khai thác
được hết những giá trị vốn có của sản phẩm tươi sống.. Với điều kiện
công nghệ hiện đại như hiện nay, việc áp dụng những thành tựu phù
hợp để khai thác giá trị của sản phẩm chế biến đang được coi là một
tiềm năng lớn của ngà nh thuỷ sản của nước ta và nó đang được chú
trọng khai thác.
Cuối cùng, đó là việc tận dụng những tiềm năng sẵn có mà
thiên nhiên ban tặng cho nước ta để phát triển một ngành thuỷ sản
tương xứng với tiềm năng sẵn có của Việt Nam.

II-


thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.

1- Thị trường các nước Châu á
Ngoài việc xuất khẩu sang các nước của khu vực ASEAN ,Đài
Loan, Trung Quốc thì hà ng thuỷ sản của Việt Nam đợc bán chủ yếu
tại thị trường Nhật Bản. Trong bài viết này, để tìm hiểu thị trường xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại khu vực châu á, em xin nêu một số tình
hình về xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản.
Có thể nói thị trường Nhật Bản là một thị trường lớn, hấp dẫn đối
với các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản của Nhật
Bản phát triển cao nhưng họ vẫn nhập rất nhiều sản phẩm của Việt
Nam do hàng thuỷ sản của nước ta có chất lượng tốt, giá cả phải chăng
và đặc biệt là do chủng loại sản phẩm của nước ta rất đa dạng và
phong phú nhất là các sản phẩm cá, tôm nước ngọt và nước lợ.
Hơn hai mươi năm qua, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ
sản với khối lượng lớn từ Việt Nam, bởi vậy đã có hơn 150 doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản được ra tăng
20


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

với tốc độ nhanh. Những sản phẩm chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu
sang Nhật là:tôm, hải sản biển, cá n-ớc ngọt và một số loại hải sản quý
hiếm khác...
Với những tiềm năng thuỷ sản mà chúng ta sẵn có, nếu biết khai
thác, chế biến phù hợp đáp ứng ngày cà ng cao nhu cầu tiêu dùng của
người dân Nhật Bản thì đây sẽ còn là một thị trường lý tưởng cho các

nhà kinh doanh xuất khẩu thuỷ hải sản của Việt Nam.

2- Thị trường EU.
Thị trường EU có 15 thành viên với 337 triệu dân( năm 2003), GDP hơn
9000 tỷ USD/năm, tiêu thụ các mặt hàng thuỷ sản có chất lượng cao.
Hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào EU những năm gần đây xếp
vào danh sách II, đến năm 2000 đưa lên danh sách I. Một số nhà xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam cho rằng, EU đã mở rộng cánh cửa cho thị
trường này.
Thị trường EU không phải là thị trường đồng nhất mà là thị trường
của các nước khác biệt, trên thực tế các nhóm dân cư, các vùng địa lý
với những nét đặc trưng ẩm thực khác nhau. Do đó kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này chỉ ổn định trong
khoảng 80-100 triệu USD.
Trên đây là một số thành tựu mà ngành thuỷ sản Việt Nam đã
đạt được tại thị trường EU, nhưng chúng ta khơng thể khơng nhìn ra
một thực tế là thị trường EU là một thị trường khó tính, những địi hỏi
của thị trường này đối với các sản phẩm thuỷ sản nước ta ngày càng
cao, trước tiên là về vệ sinh an tồn thực phẩm, sau đó đến mẫu mã,
chủng loại sản phẩm. Muốn mở rộng thị trường tại nơi đây, các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là giữ được
chữ tín trong lịng khách hàng thông qua việc không ngừng đổi mới
chất lượng, mẫu mã sản phẩm của mình. Có như vậy ngành thuỷ sản
mới mong giữ được thị trường Châu Âu nói chung và thị trường EU
21


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nói riêng. Trong một vài năm gần đây, tình hình xuất khẩu thuỷ sản

của Việt Nam vào Châu Âu tương đối ổn định, nhưng nhìn chung có
xu hướng giảm, mà rõ rệt nhất là ở mặt hà ng tôm- sản phẩm chiếm tỷ
trọng cao nhất của ta. Những biến động dù là nhỏ này cũng nói lên
một điều là sản phẩm thuỷ sản của nước ta chưa thoả mãn một cách
tốt nhất những nhu cầu của người tiêu dùng nơi đây. Thấy được những
đặc điểm này là một trong những tín hiệu thị trường giúp cho các nhà
đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam có hướng điều
chỉnh sao cho phù hợp để EU mãi là một thị trường lớn cho sản phẩm
thuỷ sản của nước ta.

3 .Thị trường Mỹ.
Thị trường Mỹ luôn là một thị trường hấp dẫn khơng chỉ đối với
các nước Châu á (trong đó có Việt Nam), mà còn là mục tiêu của nhiều
nước châu lục khác. Bởi khơng chỉ có 270 triệu dân với GDP năm 1997
là 800 tỷ USD, kinh tế liên tục tăng trưởng: năm 1998 là 3.4%; năm
1999 là 3.6%; năm 2000 kìm hãm tốc độ cũng đạt 3% đến 3.2%. Sức
mua của người dân Mỹ lớn, giá cả ổn định mặt hàng chất lượng cao
càng đắt giá lại càng dễ tiêu thụ.
Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đạt con số kỷ lục 9.3 tỷ
USD. Và o thị trường Mỹ có nghĩa là hàng hố uy tín chất lượng cao,
bởi vì phải đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm theo tiêu chuẩn
HACCP.
Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường này, Việt
Nam đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập huấn quốc tế
về HACCP(Hazard Analysis critical control Point) từ năm 1991.
Ngành thuỷ sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng
thuỷ sản, cho nên năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ
sản đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên 47 nhà máy, năm 2000 có 67
nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP.
22



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Năm 1997 hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ
mới đạt 39.3 triệu USD; năm 1998 lên 80.15 triệu USD tăng 204% so
với năm 1997; năm 1999 lên 130 triệu USD , tăng 162.2 % so với năm
1998; năm 2000 tăng 220%. Trong những mặt hàng thuỷ sản vào thị
trường Mỹ thì con tơm vẫn là mặt hàng chủ lực, năm 1997 xuất được
3074 tấn tôm với giá trị kim ngạch 31.32 triệu USD, chiếm 79.6% tổng
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ; năm 1998 xuất khẩu
được 6125.7 tấn với giá trị kim ngạch 66.89 triệu USD; năm 1999 xuất
được 9100 tấn với giá trị kim ngạch 96.5 triệu USD, chiếm 74.23% kim
ngạch năm 1999. Giá tôm ở thị trường Mỹ tương đối cao so với các thị
trường khác. Ngồi tơm sú, các mặt hàng khác thường được xuất khẩu
sang Mỹ bao gồm các loại thuỷ sản khác như: cá ba sa, cá tra, cá nheo,
cá bơn nuôi nước ngọt và cá ngừ biển khơi...Tất cả những mặt hàng
trên đều được thị trường Mỹ chấp nhận với giá cả tương đối cao. Tuy
nhiên, trong năm vừa qua, sau thất bại của vụ kiện về việc bán phá giá
cá tra, cá ba sa của Việt Nam trên thị trường Mỹ thì tình hình xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ gặp phải nhiều khó khăn.
Để tránh gặp phải tình trạng này, đồng thời cũng là cách tốt nhất
để bảo vệ người sản xuất cá của Việt Nam, chúng ta phải làm sao xây
dựng được một thương hiệu có giá trị cho các sản phẩm của mình, và
hơn thế nữa ngành thuỷ sản phải không ngừng cải tiến sản phẩm của
mình về chất lượng, mẫu mã, chũng loại...Có như thế sản phẩm thuỷ
sản Việt Nam với khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Mỹ
nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Để thị trường xuất khẩu
luôn là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn đối với người sản xuất thuỷ
sản của Việt Nam.

Ngày nay, khi trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia
trên thế giới cao hơn thì nhu cầu của con người đối với sản phẩm thuỷ
sản cà ng được chú trọng, do đó thị trường sản phẩm đầu ra của
thuỷ sản trên thế giới không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, do đặc
điểm, thị hiếu tiêu dùng của mỗi quốc gia là khác nhau vì vậy mà yêu
23


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cầu đối với từng thị trờng cũng khác nhau. Để mở rộng thị trờng
xuất khẩu cho thuỷ sản thì những người kinh doanh không thể không
chú ý tới việc nghiên cứu thị trường, từ đó có những chiến lược kinh
doanh hợp lý, đáp ứng một cách tốt nhất, phù hợp nhất những nhu cầu
ngày càng cao của thị trường thế giới. Có như vậy ngành thuỷ sản nói
chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng mới có cơ hội để phát triển
nhanh hơn, mạnh hơn, khai thác một cách tối ưu những tiềm năng
thuỷ sản dồi dào mà thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước chúng ta.

III- một số nhận xét và đánh giá về thực t rạng và tiềm
năng.
1- Khai thác hải sản.
ở Việt Nam nghề khai thác hải sản xuất hiện từ rất sớm, tuy
nhiên nó lại phát triển rất chậm, chỉ đến một vài năm gần đây mới đạt
được một thành tựu đáng kể.
Trước đây, do trình độ phát triển kinh tế còn kém, đất nước lại bị
chiến tranh tàn phá, người làm nghề biển khơng có điều kiện để tiếp
cận với khoa học hiện đại vì vậy mà trong một thời gian rất dài nghề
đánh bắt, khai thác hải sản phát triển rất chậm. Hiện nay, khi đất
nước đang trong thời kỳ mở cửa, điều kiện chuyển giao công nghệ được

thuận lợi, ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện những hạm tầu đánh bắt cá
xa bờ do đó mà khối lượng hải sản khai thác được ngày một nhiều hơn.
Đứng trước một thực tế là do tình trạng đánh bắt ven bờ quá bừa bãi
dẫn tới những vùng biển ven bờ lâm và o tình trạng cạn kiệt, ơ nhiễm,
vì vậy mà xu hướng đánh bắt cá ngoài biển khơi là một xu hướng
khách quan, tuy nhiên trình độ khai thác hải sản biển của Việt Nam
cịn khá lạc hậu so với thế giới, chưa khai thác hết được nguồn tài
nguyên biển dồi dào mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho chúng ta.
Nghề khai thác thuỷ sản biển của Việt Nam cịn khá thơ sơ.
24


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Phương tiện tàu công suất thấp, trang thiết bị ngư cụ nghèo nàn và quy
mô nhỏ, lại kiêm nhiệm tất cả các khâu: khai thác, bảo quản, dịch vụ
trên một tàu. Công nghệ khai thác chủ yếu tầng mặt nước, thời gian
bám biển ngắn, trình độ hợp tác trên biển thấp. Khả năng khai thác
tầng nước sâu trên 50m kém, trong khi rất nhiều lồi hải sản q
hiếm, có giá trị kinh tế cao, khả năng xuất khẩu lớn lại chủ yếu sống ở
tầng nước sâu. Tính đến hiện nay, cả nước ta mới chỉ có được 7 hạm
tầu lớn khai thác xa bờ, nhưng những hạm tầu này cũng không sử
dụng hết cơng suất do trình độ chế biến, bảo quản của ta cịn thấp, cá
khai thác xong khơng được bảo quản tốt, thời gian trên biển dài nên
khi về đến bờ một lượng cá khá lớn bị hư hỏng không sử dụng được rất
lãng phí.
Tiềm năng hải sản biển của nước ta rất dồi dào, diện tích vùng
biển rộng lớn, phần nhiều chưa được khai thác nên khối lượng hải sản
có thể khai thác là đáng kể. Vấn đề hiện nay là làm sao để khai thác
được hết tiềm năng biển dồi dào này để đáp ứng được nhu cầu ngày

càng cao của người tiêu dùng trong nước và trên thế giới. Trước thực
trạng trên, ngành thuỷ sản đã tập trung đầu tư cho khai thác hải sản
biển trên một số lĩnh vực sau:
- Hiện đại hoá trang thiết bị lưới ngư cụ; bảo quản sau thu hoạch
tốt, tổ chức sản xuất, khai thác theo tập đoàn.
- Tổ chức đội tàu dịch vụ hậu cần, tổ chức dịch vụ thu gom sản
phẩm trên biển, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch để tăng chất lượng
và đảm bảo đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cá ăn tươi, ngon.
- Tăng cường công tác đào tạo chuyển giao công nghệ cho ngư dân.
Cải tiến trang thiết bị bảo quản sau thu hoạch.Nghiên cứu cải tiến ngư
cụ hiện có phù hợp với tàu hiện có để phát huy đội tầu của ngư dân.
- Khuyến khích các hình thức thuê mướn chuyên gia, tổ chức cho
ngư dân tham quan học tập kinh nghiệm của đơn vị khai thác thuỷ sản
có hiệu quả trong nội bộ địa phương và tỉnh bạn, cũng như của nước
ngồi khi có điều kiện.
25


×