Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số chỉ tiêu dân số đến chất lượng cuộc sống của người dân một số thuộc huyện chợ mới tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 59 trang )

Khúa lun tt nghip

1

Nguyn Th Võn Anh

trường đại học sư phạm hà nội 2
khoa sinh - ktnn
************

Nguyễn thị vân anh

NGHiên cứu ảnh hưởng
của một số chỉ tiêu dân số đến
chất lượng cuộc sống của người
dân một số xã thuộc huyện chợ
mới tỉnh bắc kạn

khoá luận tốt nghiệp ĐạI HọC
Chuyên ngành: Sinh lý người và động vật

Người hướng dẫn khoa học
ThS Nguyễn xuân thành

Hà Nội - 2008


Khóa luận tốt nghiệp

2


Nguyễn Thị Vân Anh

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự ảnh hưởng
của một số chỉ tiêu dân số đến chất lượng đời sống của nhân dân một
số xã thuộc huyện Chợ Mới – tỉnh Bắc Kạn” là kết quả của riêng tôi và
không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2008
Sinh viên

Nguyễn Thị Vân Anh


Khóa luận tốt nghiệp

3

Nguyễn Thị Vân Anh

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo Nguyễn Xuân Thành, người đã giành nhiều thời gian
chỉ dẫn tận tình và giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình thực hiện đề tài
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa Sinh - KTNN, các thầy
cô tổ động vật bộ môn Giải phẫu - Sinh lý người và động vật trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2.

Tôi xin cảm ơn các cơ quan ở địa phương đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.

Hà Nội, tháng 05 năm 2008
Sinh viên

Nguyễn Thị Vân Anh


Khóa luận tốt nghiệp

4

Nguyễn Thị Vân Anh

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
- FAO: Tổ chức nông lương quốc tế (Food and Agricultural
Organization).
- UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp
quốc.
(United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization)
- AFPPD: Diễn đàn nghị sĩ Châu Á về dân số và phát triển.
- DV - KHHGĐ: Dịch vụ - kế hoạch hóa gia đình.
- DS - DV - KHHGĐ: Dân số - Dịch vụ - kế hoạch hóa gia đình.
- DS – KHHGĐ: Dân số - kế hoạch hóa gia đình.
- BVCS&GDTE: Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- DS - GĐ&TE: Dân số - gia đình và trẻ em.
- UBDS - GĐ&TE: Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em.
- HĐND: Hội đồng nhân dân.
- UBND: Uỷ ban nhân dân.

- THPT: Trung học phổ thông.
- THCS: Trung học cơ sở.
- CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- DSTN: Dân số tự nhiên.
- Con thứ 3+: Tỉ lệ con thứ 3 trở lên.


5

Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị Vân Anh

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của một số chỉ tiêu dân số đến
chất lượng cuộc sống của người dân một số xã thuộc huyện Chợ Mới - tỉnh
Băc Kạn, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Tỷ lệ gia tăng DSTN nhìn chung là giảm nhưng chưa bền vững, có
xu hướng tăng trở lại. Cụ thể tỷ lệ gia tăng DSTN của huyện Chợ Mới giảm
từ 8,70 (2003) xuống 7,65 (2006), sau đó lại tăng lên 9,11(2007). Ở thị trấn là
5,2 (2003) giảm xuống còn 2,2 (2005) và tiếp tục tăng trở lại đến 7,5 (2007).
Ở Xã Quảng Chu tỷ lệ gia tăng DSTN là 10,6 (2003) giảm xuống còn 7,8
(2006) sau đó tăng trở lại đến 9,4 (2007) .
2. Tỷ lệ sinh còn cao, cụ thể ở huyện Chợ Mới là 13,90 ‰ , ở thị trấn
Chợ Mới là 13,22 ‰ và ở xã Quảng Chu là 13,28 ‰.
3. Tỷ lệ sinh con thứ 3+ còn cao, cụ thể trong toàn huyện Chợ Mới là
3,3%. Xã Quảng Chu có tỷ lệ sinh con thứ 3+ (10,44%) cao hơn so với thị trấn
Chợ Mới (3,86%).
3. Việc thực hiện các biện pháp tránh thai của các cặp vợ chồng trong
độ tuổi sinh sản ngày càng tăng.

6. Do tỉ lệ gia tăng dân số giảm và kết hợp với chính sách kinh tế xã hội
của huyện và xã nên trong thời gian qua kinh tế - xã hội của huyện và xã có
những chuyển biến tích cực, chất lượng đời sống của người dân ngày càng
được nâng cao.
Từ những kết luận trên, tôi đưa ra một số đề nghị sau:
1. Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong
kế hoạch, chỉ đạo cơ sở. Tăng cường hơn nữa sự phối kết hợp có hiệu quả của
các ban ngành, đoàn thể trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em.


Khóa luận tốt nghiệp

6

Nguyễn Thị Vân Anh

2. Có sự đầu tư thỏa đáng cho chương trình DS-KHHGĐ và có chính
sách thỏa đáng cho cán bộ làm công tác này.
3. Đào tạo đội ngũ cán bộ DS ở cơ sở có trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, có khả năng điều phối và quản lý các chương trình dân số ở địa phương.
4. Tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền DS-KHHGĐ với người dân,
đưa nội dung giáo dục dân số vào trường học.

Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, một trong những mối quan tâm mang tính sức ép lớn nhất
của thế giới hiện đại – cả về kinh tế, môi trường và các bệnh tật hiểm nghèo –
là sự bùng nổ dân số toàn cầu. Sự tăng trưởng nhanh dân số thế giới trong thế
kỷ qua tạo ra một bức tranh tăng trưởng dân số quy mô lớn, không bền vững
gắn với các cuộc khủng hoảng lương thực, đói nghèo và bệnh tật.

Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX,
đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với
2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế
giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 - 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch
sử loài người để có thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm.
Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức
đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người. Dân số tăng nhanh để lại
hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt làm ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời
sống xã hội.
Nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á dân số vẫn tiếp tục gia
tăng trong vài thập niên tới, trong khi đó ở một số nước phát triển đạt dưới


Khóa luận tốt nghiệp

7

Nguyễn Thị Vân Anh

mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 2050) như CHLB Nga, U-crai-na, Nhật, Ba-lan, Ru-ma-ni, CHLB Đức. Như
vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta
do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu.
Mỗi một nước, dù là phát triển hay đang phát triển đều đang phải đối
phó với những biến đổi dân số khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện và sự quan
tâm của mỗi nước. Mức sinh còn cao hay giảm nhưng chưa ổn định, tử vong
cao, đặc biệt là tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tử vong của bà mẹ và trẻ em liên
quan đến HIV/AIDS, chất lượng dân số thấp,... hiện đang là mối quan tâm lớn
nhất của các nước đang phát triển. Còn đối với các nước đã phát triển, mối
quan tâm lại là mức sinh quá thấp và hậu quả bao gồm già hóa dân số và thiếu

hụt dân số trong độ tuổi lao động.
Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề dân số. Cho đến nay Việt Nam đã đề ra hai chiến lược phát triển
dân số, đó là “chiến lược DS - KHHGĐ đến năm 2000” được ban hành tại
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 4 khóa
VII tháng 1 năm 1993 và “Chiến lược dân số Việt Nam 2001-2010”.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1 tháng 4 năm 1999, dân số
Việt Nam là 76,3 triệu người, tăng 11,9 triệu so với năm 1989. Tỷ lệ tăng dân
số bình quân hàng năm thời kỳ 1989-1999 là 1,7%, giảm 0,5% so với thời kỳ
1979-1989; số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm
nhanh, từ 3,8 con năm 1989 xuống còn khoảng 2,3 con năm 1999 và đến
2007 là 2,09 con.
Những con số này khẳng định kết quả giảm nhanh mức sinh trong thập
kỷ qua. Mặc dù mức sinh giảm nhanh, nhưng quy mô dân số Việt Nam vẫn


Khóa luận tốt nghiệp

8

Nguyễn Thị Vân Anh

ngày một lớn do số dân tăng thêm trung bình mỗi năm còn ở mức cao, bình
quân vẫn ở mức trên 1 triệu người/năm. Vấn đề dân số, bao gồm cả quy mô,
cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư, là những thách thức lớn đối với
sự phát triển bền vững đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân
cả hiện tại và trong tương lai.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam ở thập kỉ đầu của thế kỷ 21,
khi mức sinh tiến gần mức thay thế, muốn duy trì được xu thế giảm sinh vững
chắc, thì không thể chỉ tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số như trong

thời gian qua, mà cùng với giảm sinh phải giải quyết đồng bộ, từng bước, có
trọng điểm các vấn đề về chất lượng, cơ cấu dân số và phân bố dân cư theo
định hướng "Dân số - sức khoẻ sinh sản và phát triển". Đó cũng là đòi hỏi
của một dân tộc văn minh có chiều dài hàng ngàn năm lịch sử đã và đang hội
nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là sau khi nước ta gia nhập
WTO và trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc.
Trong những năm gần đây nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu chiến lược phát triển DS - KHHGĐ trên phạm vi toàn quốc, toàn tỉnh,
còn trên phạm vi hẹp (huyện, xã, thôn) thì sự gia tăng dân số cụ thể chưa
được các nhà nghiên cứu đề cập đến. Xuất phát từ sự cần thiết tìm hiểu sự gia
tăng dân số cấp cơ sở, cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của công
tác dân số, là một công dân của huyện Chợ Mới tôi muốn góp một phần nhỏ
sức lực và trí tuệ của mình vào công tác này nhằm giúp cho công tác DS KHHGĐ của huyện đạt hiệu quả cao hơn vì vậy mà tôi đã chọn đề tài: Nghiên
cứu ảnh hưởng của một số chỉ tiêu dân số đến chất lượng cuộc sống của
người dân một số xã thuộc huyện Chợ Mới – Tỉnh Bắc Kạn.
2. Nội dung nghiên cứu


Khóa luận tốt nghiệp

9

Nguyễn Thị Vân Anh

Do yêu cầu của đề tài, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các vấn đề
sau:
 Nghiên cứu tình hình DS - KHHGĐ của huyện Chợ Mới thông qua
nghiên cứu một số chỉ tiêu về dân số để thấy được hiện trạng dân số
của huyện trong các năm qua.

 Sự ảnh hưởng của một số chỉ tiêu dân số đến chất lượng cuộc sống của
người dân trong địa bàn huyện Chợ Mới.
 Nghiên cứu phát triển dân số của thị trấn Chợ Mới và xã Quảng Chu
huyện Chợ Mới trong 5 năm (2003 - 2007).
 Những vấn đề còn tồn tại, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của một số chỉ tiêu dân số đến chất lượng
cuộc sống của người dân trong địa bàn huyện Chợ Mới sẽ làm cơ sở để có
những giải pháp hữu hiệu nhằm đưa nền kinh tế của huyện đi lên, bởi vì các
chỉ tiêu dân số là những thông số phản ánh thiết thực nhất chất lượng cuộc
sống của nhân dân cũng như hiện trạng của nền kinh tế.


Khóa luận tốt nghiệp

10

Nguyễn Thị Vân Anh

Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Vai trò của dân số và sự cần thiết phải nghiên cứu
Yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội là nguồn
nhân lực, mà nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi dân số cả về số
lượng và chất lượng. Mục tiêu của sự phát triển suy cho cùng là nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng dân số,
sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực
đến sự phát triển.
Ðể có sự phát triển bền vững, việc đáp ứng tăng nhu cầu và nâng cao
chất lượng cuộc sống của các thế hệ hiện tại không được ảnh hưởng các thế

hệ tương lai trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái
và chất lượng của sự phát triển. Trong thực tế, các yếu tố dân số có ảnh hưởng
rất lớn đến tài nguyên thiên nhiên và trạng thái môi trường. Dân số phù hợp
sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng dân số phù hợp sự phát triển
nền kinh tế - xã hội của đất nước.


Khóa luận tốt nghiệp

11

Nguyễn Thị Vân Anh

Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao
tiềm lực của lực lượng sản xuất; là yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo,
giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng
cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi
trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát
triển sản xuất, kinh doanh, khoa học và công nghệ; góp phần thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược
dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một
trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là
yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
2. Hậu quả của việc bùng nổ dân số đối với chất lượng cuộc sống
Chất lượng cuộc sống chỉ đảm bảo khi những nhu cầu về vật chất và
tinh thần của con người được thỏa mãn. Môi trường thiên nhiên được giữ gìn
và bảo vệ tốt, môi trường xã hội tiến bộ, lành mạnh, công bằng văn minh.
Song chất lượng cuộc sống lại có mối quan hệ tác động qua lại với sự phát
triển của dân số. Thực tế cho thấy, khi dân số phát triển không hợp lý, tốc độ

gia tăng quá nhanh lại là trở lực cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống nó
tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, chính trị, giáo
dục, văn hóa, môi trường,…
2.1. Về kinh tế - xã hội
Báo động đầu tiên về mức mất cân đối giữa sự tăng trưởng dân số và
nguồn lương thực của con người được đưa ra bởi nhà kinh tế học người Anh
đó là Thomats Robert Malthus. Dân số khi không được kiểm soát sẽ tăng theo
cấp số nhân còn nguồn sống cho con người lại tăng theo cấp số cộng do đó


Khóa luận tốt nghiệp

12

Nguyễn Thị Vân Anh

dịch bệnh, nạn đói, chiến tranh, đói học, đói việc làm gây sức ép về kinh tế xã
hội.
2.1.1.Ảnh hưởng của sự bùng nổ dân số đối với vấn đề cung cấp
lương thực thực phẩm
An ninh lương thực luôn là vấn đề được cả cộng đồng thế giới quan
tâm, đặc biệt trong tình trạng hiện nay sự gia tăng dân số quá nhanh trong khi
việc tạo ra lương thực thực phẩm không tăng hoặc tăng không đang kể so với
tốc độ gia tăng dân số dẫn đến hậu quả là nạn đói không ngừng xảy ra cụ thể:
số người chết đói trên thế giới tăng từ khoảng 460 triệu (1970) lên khoảng
550 triệu (1990), 600 – 650 triệu người(2000). Trong đó có khoảng 60% số
người chết đói là ở những nước đang phát triển, 25% là ở Châu phi, 10% ở
Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê. Theo tính toán của FAO và UNESCO thì
có tới 65 nước Á – Phi đang phát triển, nếu cứ duy trì nhịp độ canh tác như
hiện nay thì lương thực cũng chỉ đủ cung cấp cho hơn 1/2 số dân đang sống ở

nước này. Nghiêm trọng hơn khi diện tích canh tác ngày càng bị thu hẹp. Vì
vậy, bài toán tăng 75% lương thực thực phẩm từ nay đến 2030 do FAO đề ra
vẫn là bài toán khó chưa có lời giải đáp và dân số liên tục gia tăng trong khi
diện tích đất nông nghiệp không tăng mà còn có xu hướng giảm, độ màu mỡ
của đất ngày càng suy thoái.
2.1.2. Hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh đối với giáo dục và
đào tạo
Giáo dục là một trong những chỉ số cơ bản nói lên chất lượng cuộc
sống. Trình độ học vấn của mỗi nước phản ánh mức độ phát triển của mỗi xã
hội cũng như trình độ văn minh của mỗi quốc gia [3]. Với quy mô dân số lớn,
tốc độ gia tăng dân số nhanh như hiện nay nó đang gây ra những tác động xấu
đến sự phát triển giáo dục.


Khóa luận tốt nghiệp

13

Nguyễn Thị Vân Anh

Thế giới vẫn phát triển không ngừng tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Vậy mà
vẫn còn khoảng 20% dân số thế giới mù chữ tập chung ở các nước nghèo và
kém phát triển. Có những quốc gia chỉ có 8% đến 16% số dân biết chữ. Riêng
các nước ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương có tới 666 triệu người mù chữ.
Trong khi nạn đói còn đè nặng lên cuộc sống của con người, việc xóa mù chữ
đem lại ánh sáng cho họ là một việc làm rất khó khăn [4]. Ở nước ta số người
trong độ tuổi đi học ngày càng tăng cao. Mức đầu tư cho giáo dục có tăng
nhưng không kịp so với mức độ gia tăng dân số chính vì thế mà việc đáp ứng
các nhu cầu về cơ sở vật chất để phục vụ cho học tập còn gặp nhiều khó

khăn.Ở Việt Nam có khoảng 15% trẻ em chưa được đến trường.
2.1.3. Sức ép của dân số đối với việc bố trí công ăn việc làm
Các quá trình biến động dân số có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng, đi kèm theo đó là vấn đề việc
làm. Nhưng mối quan hệ giữa dân số với nguồn lao động và việc làm cần
được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau. Sự tái sản xuất dân số là
nguồn cung cấp lực lượng lao động duy nhất cho xã hội, nhưng đảm bảo việc
làm cho lực lượng lao động lại hết sức khó khăn trong điều kiện dân số tăng
nhanh, nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước và xã hội.
Khi dân số có sự gia tăng thì nguồn lao động trở nên “quá dồi dào” lại
gây ra sức ép lớn đối với việc bố trí công ăn việc làm, đặc biệt đối với các
nước đang phát triển ở Châu Á - Phi - Mỹ La Tinh có từ 1/4 đến 1/3 số lao
động không có việc làm thường xuyên, nhiều nước tỷ lệ này là 70%. Theo tổ
chức lao động quốc tế, năm 1980 có gần 1/3 lực lượng lao động trên thế giới
thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Còn hiện nay thế giới có ít nhất 15% lực
lượng lao động thất nghiệp thực sự [6].


Khóa luận tốt nghiệp

14

Nguyễn Thị Vân Anh

Dân số Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn “tuổi vàng” vì lực
lượng lao động rất dồi dào và đông đảo, tỷ trọng nhóm tuổi từ 15 – 59 là lứa
tuổi có thể lao động được chiếm 59%. Đây đồng thời lại là vấn đề khó khăn
do nhu cầu việc làm tăng cao và nạn thất nghiệp diễn ra [2]. Mặc dù tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8 – 9% vào đầu những năm 90 xuống còn 5, 6%
(2004) nhưng vẫn còn ở mức cao. Đặc biệt ở nông thôn nạn thiếu việc làm

khá nghiêm trọng do diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp. Hiện nay ở
nước ta có khoảng 3 triệu lao động không có việc làm.
2.2. Dân số tăng nhanh - tài nguyên cạn kiệt - môi trường suy thoái
Vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khi mà sự phát triển của khoa học công
nghệ hiện đại đã làm cho sự giàu có của thế giới tăng lên gấp hàng trăm lần so
với cuộc đại công nghiệp hồi đầu thế kỷ XIX, con người mới chợt nhận ra
rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận. Nhân loại đang đứng
trước những thách thức lớn lao do tình trạng gia tăng dân số quá mức như
hiện nay đã tạo nên những áp lực đối với sự phát triển. Những cái giá mà con
người phải trả là sự tổn hại về môi trường và sinh thái như: suy thoái đất đai,
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự không bền vững về nơi cư trú, điều
kiện sinh sống thấp kém và thiếu thốn về nước sinh hoạt, đất, nước, không khí
bị ô nhiễm nặng và sự nóng lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính, tầng ôzôn
bảo vệ trái đất bị tổn hại đe dọa bầu khí quyển [8].
2.2.1. Tài nguyên ngày càng cạn kiệt
Con người khai thác tài nguyên để sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu
của cuộc sống. Dân số ngày càng tăng, chất lượng cuộc sống của con người
luôn được cải thiện, do đó các công cụ và phương thức sản xuất được cải tiến
để khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên được nhiều hơn – tất yếu sẽ
dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên nhanh hơn. Những khoáng sản có


Khóa luận tốt nghiệp

15

Nguyễn Thị Vân Anh

ích mỗi năm bị con người khai thác hàng trăm tỉ tấn. Nếu cứ theo đà khai thác
và sử dụng như vậy thì 200 năm nữa sẽ hết than đá, 100 năm nữa sẽ hết dầu

mỏ. Nhiều loại khoáng sản như: Ag, Zn, Pb,… cũng chỉ khai thác được 20 –
30 năm nữa [5].
Thổ nhưỡng, thế giới động thực vật tuy là tài nguyên tái tạo được
nhưng cũng bị nghèo kiệt và suy giảm nhanh chóng. Cứ theo đà phá rừng như
hiện nay thì 60 – 80 năm nữa toàn bộ thế giới sẽ biến thành đồi trọc. Diện tích
rừng suy giảm làm nhiều loài động thực vật quý hiếm bị diệt vong. Từ năm
1600 đến nay có hơn 700 loài động – thực vật đã bị tuyệt chủng, có nhiều loài
bị tuyệt chủng trước khi phát hiện ra. Sự giảm tính đa dạng sinh học là một
trong những nguyên nhân làm mất cân bằng sinh thái. Mất rừng còn dẫn đến
các hiện tượng hạn hán, lũ lụt, đất đai bị suy thoái.
Tài nguyên nước hiện nay khá dồi dào ước tính khoảng 1386 triệu km3
nhưng lượng nước ngọt được dùng chỉ chiếm 0,8%. Do phá rừng bừa bãi làm
mất nguồn nước ngầm, do các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, chất thải
sinh hoạt nên nhiều nơi lâm vào tình trạng thiếu nước và nhiều nơi nước bị ô
nhiễm không sử dụng được [7].
2.2.2. Môi trường suy thoái
Trong những năm 60 và đầu những năm 70, người ta nhận thấy rằng
thế giới sẽ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng nếu hệ sinh thái của hành tinh
không được quan tâm đúng mức. Chất lượng không khí ở những khu vực
đông dân trên toàn cầu đã bị phá huỷ đến mức báo động. Rất nhiều dòng sông
trên thế giới đã bị ô nhiễm gây ảnh hưởng đến đời sống ở biển. Do đó nguồn
nước trở nên không an toàn để con người có thể sử dụng với các mục đích
khác nhau nữa. Thậm chí nước mưa, nguồn nước thường được coi là trong
sạch nhất đã trở thành nguồn gây độc cho các loại thực vật, ô nhiễm các dòng


Khóa luận tốt nghiệp

16


Nguyễn Thị Vân Anh

sông do nước mưa có tính a xít. Một bức tranh toàn cảnh truyền từ vệ tinh cho
thấy rằng ô nhiễm môi trường đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên trái đất. Sự ô
nhiễm hành tinh do hoạt động của con người đã trở thành một vấn đề nghiêm
trọng đối với mọi người.
Ô nhiễm môi trường không phải là một vấn đề mới. Ô nhiễm môi
trường do hoạt động của con người đã tồn tại từ khi con người mới xuất hiện
trên trái đất. Tuy nhiên, có thể thấy sự liên hệ giữa việc ô nhiễm rộng rãi trên
toàn thế giới và cuộc cách mạng về công nghiệp. Trong thế kỷ 19 và 2/3 của
thế kỷ 20, các nhà máy mọc lên trên khắp các thành phố. Việc sử dụng điện
của các khu dịch vụ, các cửa hàng và các căn hộ hàng ngày đã thải ra hàng
loạt các chất thải vào không khí, vào các dòng sông, dòng suối và đất. Khi
dân số không nhiều, thì vấn đề dân số đối với môi trường chỉ là vấn đề nhỏ,
không cần quan tâm tới. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với việc
nhân lên của các nhà máy tại các thành phố; việc tăng số lượng của việc sử
dụng các chất độc hại như thuốc trừ côn trùng, thuốc trừ cỏ và phân bón hoá
học; với ảnh hưởng của mỗi cá nhân trong việc tạo ra ô nhiễm môi trường từ
việc mưu sinh của mình (chủ yếu thông qua việc sử dụng các nguyên liệu hoá
thạch) và với việc các nguồn gây nguy hại cho hệ sinh thái ngày càng nhiều,
sự lờ đi các vấn đề tồn tại không phải là một giải pháp nữa. Dân số thế giới đã
tăng từ 2.5 tỉ năm 1950 lên gần 7 tỉ vào thời điểm hiện nay. Việc tăng dân số
có nghĩa là dẫn đến ô nhiễm môi trường và đồng thời với việc khai thác tài
nguyên nhiều hơn. Ô nhiễm môi trường và tăng sự chịu đựng của thiên nhiên
diễn ra cùng một lúc. Vào giữa những năm 80, việc quan tâm đến môi trường
đã trở lên quan trọng. Tầng ô zôn bảo vệ môi trường đang giảm dần, và đồng
thời tầng khí quyển cũng bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính từ đó dẫn đến
việc nóng lên toàn cầu. Những vệt cỏ dài bị huỷ hoại được quan sát thấy tại
vùng mưa nhiệt đới và các nhà khoa học đã cảnh báo rằng toàn bộ hành tinh
có thể bị nguy hiểm nếu việc phá rừng để làm nương vẫn tiếp tục. Tương tự



Khóa luận tốt nghiệp

17

Nguyễn Thị Vân Anh

như vậy, nếu chúng ta tiếp tục đốt các sản phẩm từ các nguyên liệu hoá thạch
(than, các sản phẩm dầu mỏ) với mức độ như hiện nay hoặc cao hơn, mỏm
cực băng có thể tan chảy và dẫn đến ngập lụt trên toàn thế giới.
Kết luận: Chất lượng cuộc sống luôn gắn liền với quy mô dân số. Mục
tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
con người chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng dân số,
sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực
đến sự phát triển. Dân số phù hợp sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu
hướng dân số phù hợp với quy luật phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
bền vững đó cũng là nhiệm vụ cấp bách của mọi quốc gia trên toàn thế giới.
Việt Nam, theo tổng cục thống kê, năm 2005 Việt Nam có khoảng
83,1199 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Mật độ dân số lên
tới 252 người/km2 tức là gấp 6 lần mật độ dân số chuẩn quốc tế (trong khi đó
các chuyên gia LHQ tính toán để có cuộc sống thuận lợi, bình quân chỉ nên có
30-40 người/km2). Việt Nam là quốc gia có quy mô dân số rất lớn, mặc dù
vậy dân số vẫn đang tăng nhanh, bình quân vẫn ở mức trên 1 triệu người/
năm, chính vì vậy mà chất lượng dân số vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự phát triển: Chỉ số phát triển con người của Việt Nam vẫn ở
mức trung bình thấp so với khu vực và trên thế giới. Theo báo cáo phát triển
con người Việt Nam năm 2000, chỉ có 12 tỉnh có trình độ phát triển cao (HDI
từ 0,7 trở lên), có tới 41 tỉnh có trình độ phát triển trung bình (HDI từ 0,6 đến
dưới 0,7), và 8 tỉnh còn lại có trình độ phát triển thấp (HDI dưới 0,6). Tuổi

thọ bình quân khỏe mạnh của nước ta chỉ là 58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với
174 nước trên thế giới. Các tố chất về thể lực của người Việt Nam còn nhiều
hạn chế đặc biệt là chiều cao, cân nặng và sức bền. Tính đến thời điểm
1/4/1999, cả nước vẫn còn 6,8 triệu người từ 10 tuổi trở lên chưa bao giờ đến
trường, trong đó có 5,3 triệu người hoàn toàn không biết chữ. Cơ cấu đào tạo


Khóa luận tốt nghiệp

18

Nguyễn Thị Vân Anh

bất hợp lý, quan hệ tỉ lệ đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kỹ thuật theo
tiêu chuẩn quốc tế là: Đại học và trên đại học 1; trung học chuyên nghiệp 4;
công nhân kỹ thuật 10,(1 – 4 - 10 ), thì ở nước ta tại thời điểm 1/4/1999 là 1 –
1,13 – 0,92. Để tránh nguy cơ tụt hậu, cùng với việc giải quyết vấn đề quy mô
dân số đòi hỏi chúng ta phải xây dựng và thực thi một chiến lược dài hạn
nhằm nâng cao chất lượng dân số Việt Nam cả về thể lực và trí lực [9].
2.3. Công tác DS - KHHGĐ của huyện Chợ Mới trong 5 năm (2003
– 2007)
2.3.1. Đặc điểm huyện Chợ Mới
Huyện Chợ Mới nằm ở phía nam tỉnh Bắc Kạn, là huyện có nền kinh tế
còn chậm phát triển, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp độc canh cây lúa, mang
tính tự cung tự cấp, không có nghề phụ chủ lực, ít nhà máy xí nghiệp. Diện
tích rừng chiếm phần lớn nhưng chưa phát huy, đời sống của đại bộ phận
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn
Huyện có 15 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên là 61000 ha.
Tính đến 30/6/2007 trên địa bàn huyện có tổng số dân là 37219 người gồm
nhiều dân tộc: Nùng, Tày, Kinh, H Mông, Sán Chí, Hoa. Trong đó số phụ nữ

trong độ tuổi sinh đẻ có chồng là 7400 người. Với diện tích lớn, nhiều loại
hình dân tộc và số đối tượng trong diện vận động sinh đẻ có kế hoạch tương
đối nhiều vì vậy, việc thực hiện chủ trương chính sách dân số của nhà nước là
“mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1 đến 2 con cách nhau từ 3 đến 5 năm” gặp rất
nhiều khó khăn.
2.3.2. Tình hình thực hiện công tác DS - KHHGĐ trong 5 năm của
huyện Chợ Mới


Khóa luận tốt nghiệp

19

Nguyễn Thị Vân Anh

Từ khi có “Chiến lược dân số Việt Nam 2001 – 2010” và “Chiến lược
quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001 – 2010” của chính
phủ, thì “Chiến lược dân số - gia đình và trẻ em tỉnh Bắc Kạn 2001 – 2010”
của ủy ban nhân dân tỉnh được xây dựng trên cơ sở cụ thể hóa chiến lược dân
số Việt Nam phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của tỉnh từ nay đến
năm 2010 và thực hiện mục tiêu công tác dân số mà Nghị quyết đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra.
Đồng thời luôn thường xuyên quan tâm giám sát việc thực hiện Nghị
quyết ở từng địa phương. Các cấp ủy chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở
đã coi công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, là yếu tố cơ bản nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Công tác DS - KHHGĐ được coi là 1 chỉ tiêu để xếp loại cơ sở Đảng,
đơn vị chính quyền trong sạch, vững mạnh, là tiêu chuẩn để xét gia đình văn
hóa, làng, xã văn hóa và xét thi đua khen thưởng cho tập thể, nhân dân hàng

năm. Nhờ vậy, ý thức về công tác DS - KHHGĐ của các tầng lớp trong nhân
dân, đặc biệt là các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ ngày càng được nâng
cao hơn. Quy mô gia đình ít con, khỏe mạnh được đông đảo nhân dân trong
tỉnh đồng tình hưởng ứng. Nhiều cặp vợ chồng trẻ đã tự nguyện chấp nhận
quy mô gia đình chỉ có 2 con và tự giác thực hiện bằng việc lựa chọn cho
mình một biện pháp tránh thai thích hợp, an toàn và hiệu quả nhất.
Ủy ban DSGĐ&TE đã chỉ đạo 16 cơ sở (15 xã và 1 thị trấn) thành lập
ban DS - GĐ& TE, tham mưu với ủy ban nhân dân huyện giao chỉ tiêu kế
hoạch DS - DV - KHHGĐ và chỉ tiêu kế hoạch về chăm sóc giáo dục trẻ em
cho các xã. Các ngành đoàn thể tiến hành ký kết hợp đồng trách nhiệm với
trưởng ban dân số, cán bộ chuyên trách và thủ trưởng cơ quan các ban ngành


Khóa luận tốt nghiệp

20

Nguyễn Thị Vân Anh

có liên quan. Củng cố và kiện toàn đội ngũ cán bộ đảm bảo hoạt động đồng
bộ và thống nhất [9]. Duy trì chế độ giao ban hàng tháng từ cấp cơ sở đến cấp
tỉnh, báo cáo kết quả thực hiện công tác DS - GĐ&TE, phản ánh những thuận
lợi và khó khăn trong quá trình thực thi công việc, nhận kế hoạch từ Tỉnh và
Trung ương về triển khai.
Phối hợp với UBDS - GĐ&TE tỉnh tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ
cho toàn bộ đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số ở 16 cơ sở.
Tuyên truyền sâu rộng về Pháp lệnh dân số và Nghị Định 104/2003/NĐ
- CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành 1 số điều của
Pháp lệnh dân số, thường trực Đảng ủy nhiều xã có lịch hàng quý nghe báo
cáo chuyên đề về công tác DS - GĐ&TE trên cơ sở đó thường xuyên nắm bắt

tình hình và giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện kế
hoạch, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao .
UBND huyện tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền chỉ thị 55/CT –
TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cơ sở
với công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em, tiếp tục thực hiện chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh các hoạt động văn hóa vui chơi cho trẻ em.
Tập chung chỉ đạo cơ sở tổng kết 10 năm thi hành luật bảo vệ chăm
sóc.
Công tác thông tin giáo dục tuyên truyền về DS - GĐ&TE từ huyện
xuống khu dân cư thường xuyên được tăng cường bằng nhiều hình thức, kết
hợp nhiều loại hình tuyên truyền như báo cáo các chuyên đề, mở hội nghị tọa
đàm, huy động lực lượng học sinh, thanh niên, phụ nữ dùng băng cờ khẩu
hiệu, loa đài, trống ếch đi tuyên truyền cổ động ở những chiến dịch ở những
nơi vùng sâu, vùng xa, những nơi đông người…… kết hợp tuyên truyền vận


Khóa luận tốt nghiệp

21

Nguyễn Thị Vân Anh

động trực tiếp từng người, từng nhà thông qua nhiều tài liệu tranh ảnh, tờ rơi,
sách báo gia đình và xã hội. Ban DS - GĐTE huyện phối hợp với các ban
ngành đoàn thể tổ chức tuyên truyền chiến dịch truyền thông lồng ghép với
DV - KHHGĐ năm 2005.
Huyện tập trung tuyên truyền Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Có sự phối hợp hoạt động tuyên truyền
vơi các ngành, đoàn thể, tổ chức Chính trị xã hội.
Phối hợp với Hội phụ nữ huyện chỉ đạo cơ sở xây dựng mô hình tổ phụ

nữ không có người sinh con thứ 3+, xây dựng Câu lạc bộ phụ nữ với nhiều nội
dung hoạt động phong phú. Truyền thông các cặp vợ chồng thực hiện
KHHGĐ, chăm sóc giáo dục trẻ em, phát triển kinh tế tăng thu nhập xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Phối hợp với Ban thường vụ huyện đoàn mở hội nghị truyền thông DS
- GĐ&TE với các đồng chí bí thư, phó bí thư chi đoàn và đoàn xã. Các ban
chủ nhiệm câu lạc bộ tiền hôn nhân và câu lạc bộ gia đình trẻ. Phối hợp tổ
chức các hoạt động văn hóa văn nghệ… trong dịp hè cho các cháu
Phối hợp với Mặt trận tổ quốc huyện, xã tổ chức nhiều hội nghị tuyên
truyền vận động những người có uy tín trong cộng đồng, trưởng thôn, trưởng
họ…. Tuyên truyền vân động thực hiện gia đình 1 – 2 con khỏe mạnh để có
cuộc sống ấm no hạnh phúc, góp phần xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn,
xóm, làng.
Phối hợp Hội đồng nhân dân huyện xây dựng mô hình gia đình nông
dân 6 chuẩn mực, mở nhiều hội nghị tuyên truyền vận động nam nông dân
thực hiện KHHGĐ, vai trò của người cha trong việc chăm sóc và giáo dục
con cái góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo.


Khóa luận tốt nghiệp

22

Nguyễn Thị Vân Anh

Phối hợp với ngành văn hóa thông tin tuyên truyền kẻ nhiều panô, áp
phích, khẩu hiệu ở trung tâm huyện, xã. Xây dựng nhiều điểm vui chơi cho
các cháu, gắn tuyên truyền vận động trong các lễ hội. Tích cực vận động mọi
tầng lớp nhân dân sinh đẻ có kế hoạch, bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em,
góp phần xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa.

Phối hợp với ngành giáo dục đào tạo tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
Nghị quyết TW2 (khóa VIII) và đề án 01 của Tỉnh ủy (khóa VII) về công tác
giáo dục trẻ em. Mạng lưới trường lớp từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ
thông các cấp được mở rộng và phát triển.Tiếp tục đưa công tác giáo dục DS GĐ&TE vào trong nhà trường.
Phối hợp chặt chẽ với ngành y tế, đẩy mạnh công tác chăm sóc sức
khỏe sinh sản KHHGĐ đạt hiệu quả thiết thực. Thường xuyên đảm bảo phục
vụ tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh cho trẻ em. Trẻ em dưới 6 tuổi được
khám và chữa bệnh miễn phí tại các cơ sở y tế Nhà nước. Thực hiện tốt
chương trình tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh nguy hiểm cho trẻ em nên số
trẻ em mắc bệnh và tử vong giảm. Đã có những nỗ lực trong việc khắc phục
thiếu dinh dưỡng của trẻ em và bà mẹ mang thai.
Phối hợp với ngành tư pháp từ huyện xuống thực hiện tốt việc đăng ký
khai sinh cho trẻ em.
Bên cạnh những việc đã thực hiện tốt thì công tác DS - KHHGĐ vẫn
còn gặp 1 số khó khăn và hạn chế:
- Về sự lãnh đạo: Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền còn thiếu chặt chẽ và sát sao. Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan chức năng trong kế hoạch chỉ đạo cơ sở. Tăng cường hơn nữa sự phối
hợp có hiệu quả của các ban ngành, đoàn thể trong công tác bảo vệ chăm sóc


Khóa luận tốt nghiệp

23

Nguyễn Thị Vân Anh

và giáo dục trẻ em. Nhận thức của một bộ phận dân cư, nhất là đối với các
dân tộc thiểu số trong đó có cả cán bộ đảng viên chưa đầy đủ về chương trình
dân số, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Chính quyền địa phương chưa kiên quyết

xử lý những trường hợp vi phạm sinh con thứ 3+ nên tỉ lệ sinh con thứ 3+ vẫn
còn cao.
- Về công tác truyền thông DS - GĐ&TE: Công tác thông tin giáo dục
tuyên truyền về DS - GĐ&TE ở một số cơ sở làm chưa sâu, chưa rộng, chưa
thường xuyên liên tục, chưa tạo ra được phong trào quần chúng rộng khắp
nhất là đối với các vùng sâu vùng xa. Thực hiện luật bảo vệ chăm sóc giáo
dục trẻ em chưa được đầy đủ dẫn đến trẻ em bị xâm hại tình dục, lao động
sớm.
Nguồn kinh phí hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất còn hạn chế, cơ sở y tế
chưa đáp ứng được yêu cầu, còn thiếu trang thiết bị chưa đủ điều kiện để
chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Một số nhà văn hóa ở các xã còn thiếu trang
thiết bị.
- Về DV - KHHGĐ: Công tác tuyên truyền vận động trong các độ tuổi
sinh đẻ chưa tích cực, chưa cụ thể và sâu sát, nhất là những đối tượng chưa
thực hiện KHHGĐ. Một số xã chưa có những biện pháp để động viên khuyến
khích những người thực hiện tốt KHHGĐ.
- Về đấu tư kinh phí: Kinh phí đầu tư vào công tác DS - GĐ&TE còn
hạn hẹp và thiếu quan tâm. Các cấp Đảng ủy chính quyền nhận thức chưa đầy
đủ về quan điểm của Đảng là: “Đầu tư cho công tác DS - GĐ&TE là đầu tư
mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao”. Do đó nhiều mục tiêu đề ra chưa
được hoàn thành.


Khóa luận tốt nghiệp

24

Nguyễn Thị Vân Anh

2.2.3. Phương hướng thực hiện công tác DS - KHHGĐ đến năm

2008 và các năm tiếp theo của huyện Chợ Mới – Bắc Kạn
2.2.3.1. Phương hướng
Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền huy
động toàn xã hội tham gia công tác dân số và KHHGĐ. Nâng cao trách nhiệm
và tăng cường sự phối hợp của các cấp ngành, đoàn thể nhân dân, đồng thời
huy động các tổ chức xã hội và các thành phần kinh tế tích cực tham gia công
tác này. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho mỗi gia đình, mỗi người
dân tự nguyện thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Tiếp tục đẩy mạnh mở rộng và đổi mới công tác thông tin giáo dục
tuyên truyền về DS - GĐ&TE nhất là pháp lệnh dân số và Nghị định 104/NĐCP của chính phủ mới ban hành. Phổ biến và triển khai sâu rộng đến mọi
người dân trong cộng đồng, nâng cao vai trò và vị trí trách nhiệm của các tổ
chức đoàn thể xã hội, chi bộ, khu dân cư, dòng họ trong việc thực hiện chính
sách DS - KHHGĐ để xây dựng làng xã văn hóa. Từng bước tiến tới xã hội
hóa DS - KHHGĐ.
2.2.3.2. Những giải pháp
* Lãnh đạo tổ chức quản lý
Tăng cường sự chỉ đạo của cấp trên, sự phối kết hợp của các ngành
đoàn thể. Thường xuyên kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện các chương
trình mục tiêu, phân công từng thành viên, từng cộng tác viên phụ trách từng
xã, thôn , xóm, bản làng để lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác DS - GĐ&TE ở
cơ sở đạt hiệu quả cao. Bố trí cán bộ chuyên trách và cộng tác viên bảo đảm
chất lượng và ổn định, có đủ năng lực chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ.


Khóa luận tốt nghiệp

25

Nguyễn Thị Vân Anh


Thường trực Ban DS - GĐ&TE huyện duy trì chế độ giao ban đổi mới
phương thức giao ban, đối với cán bộ chuyên trách dân số xã, thị trấn và đảm
bảo các cuộc giao ban có chất lượng hiệu quả.
Duy trì báo cáo theo định kì của ngành. Đảm bảo thu thập số liệu,
thông tin báo cáo chuẩn từ mọi địa bàn dân cư trên huyện.
Thường xuyên theo dõi ghi chép các loại sổ sách chuyên ngành kịp thời
đầy đủ và chính xác.
Ban DS - GĐ&TE các xã, thị trấn duy trì sinh hoạt đều hàng tháng,
quý, năm đối với các thành viên, các ngành, cán bộ chuyên trách và cộng tác
viên, nghiệm thu số liệu về sinh tử, đi, đến, kết hôn, ly hôn và tiến độ thực
hiện các biện pháp tránh thai, quản lý, bảo vệ, chăm sóc và bảo vệ giáo dục
trẻ em ở mọi địa bàn dân cư. Báo cáo những vấn đề tồn tại trong quá trình
thực hiện kế hoạch.
Tiến hành bình xét thi đua, khen thưởng phổ biến kinh nghiệm những
mô hình làm tốt các cách làm hay để nhân ra diện rộng.
* Công tác thông tin giáo dục tuyên truyền.
Đẩy mạnh mở rộng và đổi mới công tác thông tin giáo dục tuyên truyền
về DS - GĐ&TE nhất là Pháp lệnh dân số và Nghị định 104/NĐ – CP của
chính phủ mới ban hành. Phân loại từng nhóm đối tượng để tập trung tuyên
truyền vào các vùng sâu, vùng xa, vùng dân trí thấp, có các hình thức tuyên
truyền thích hợp cho các vùng đồng bào dân tộc tổ chức thực hiện có hiệu quả
tiếp tục phát động chiến dịch: Mùa xuân dân số, Thu đông dân số, phát động
những đợt cao điểm thi đua lập thành tích nhân kỷ niệm “Ngày gia đình Việt
Nam 28/6, ngày dân số thế giới 11/7, ngày dân số Việt Nam 26/12”.


×