Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Các từ viết tắt
Viết đầy đủ
1
ĐV
Động vật
2
ĐVNS
Động vật nguyên sinh
3
HS
Học sinh
4
SGK
Sách giáo khoa
5
GV
Giáo viên
6
GD - ĐT
Giáo dục – Đào tạo
7
TV
Thực vật
8
THPT
Trung học phổ thông
Lê Thị Tám
1
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỉ XXI, thế kỉ của nền văn minh nhân loại, thế kỉ của cuộc cách mạng
lớn của thời đại như: cách mạng truyền thông, cách mạng tin học, cách mạng
công nghệ… và sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật đang tác động
mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội, sự nghiệp giáo dục phải luôn gắn liền
với thực tiễn đời sống xã hội.
Nhận thức được xu thế đó, Đảng ta khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu”. Để thực hiện quan điểm này nhà nước đã xây dựng
chiến lược phát triển GD – ĐT 2001 – 2010. Trong đó mục tiêu quan trọng
trong chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 chính là: “Đổi mới mục
tiêu, nội dung, phương pháp và chương trình giáo dục”. Nhằm nâng cao dân
trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nguồn lực chất lượng cao phục vụ sự công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong khi đó phần lớn GV ở vùng sâu vùng xa vẫn dạy học theo phương
pháp cũ: GV truyền đạt kiến thức, HS nghe và ghi nhớ, HS học một cách máy
móc, thụ động. Vậy làm thế nào để HS có thể học tích cực bằng hành động
của chính mình trước những tình huống, những vấn đề cụ thể, đặc biệt là
những vấn đề thực tế cuộc sống vô cùng phong phú. Người học phải tự mình
tìm hiểu, phân tích, xử lý tình huống, giải quyết vấn đề để tạo ra những con
người năng động sáng tạo, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Do đó đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cấp bách, có thể đổi mới
nhiều phương pháp khác nhau như ứng dụng công nghệ thông tin. Xuất thân
từ vùng miền núi còn khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn thì phương pháp
dạy học truyền thống vẫn là một ưu thế. Trong các phương pháp dạy học
Lê Thị Tám
2
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
truyền thống đó, một trong những phương pháp có tác dụng nhiều mặt đó là
phương pháp vấn đáp. Để phát huy được phương pháp vấn đáp GV cần xây
dựng được hệ thống câu hỏi và sử dụng câu hỏi một cách hợp lý.
Để làm phong phú thêm tài liệu tham khảo cho GV phổ thông đồng thời
để rèn luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng câu hỏi của bản thân, tôi đã đi sâu
nghiên cứu đề tài: “ Xây dựng và sử dụng câu hỏi để dạy học chương II –
Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 THPT (Ban cơ bản)”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng câu hỏi để dạy học chương II - Cấu trúc tế bào,
Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản).
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng được hệ thống câu hỏi một cách hợp lí sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy HS học 10 nói chung và chương II - Cấu trúc tế
bào (Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản) nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống câu hỏi phục vụ dạy học Chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh
học 10 – THPT (Ban cơ bản).
Nội dung chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 – THPT (Ban cơ
bản)
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các tài liệu có liên quan làm cơ sở lí luận cho việc xây
dựng và sử dụng câu hỏi
5.2. Nghiên cứu thực trạng xây dựng và sử dụng câu hỏi thuộc chương
II - Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 - THPT (Ban cơ bản) của một số GV ở một
số trường THPT
Lê Thị Tám
3
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
5.3. Phân tích cấu trúc các bài thuộc chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh
học 10 – THPT (Ban cơ bản) làm cơ sở cho việc xây dựng và sử dụng câu
hỏi
5.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi để dạy chương II - Cấu trúc tế bào,
Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản)
5.5. Thiết kế giáo án có sử dụng một số câu hỏi đã xây dựng vào một số
bài cụ thể thuộc chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 – THPT (Ban cơ
bản)
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu tài liệu có liên quan làm cơ sở lí luận cho đề tài như: Lí
luận dạy học sinh học, phương pháp dạy học tích cực, Kĩ thuật dạy học …các
tài liệu về câu hỏi khác như: SGK, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng…
6.2. Điều tra
Điều tra tình hình xây dựng và sử dụng câu hỏi thuộc chương II - Cấu
trúc tế bào, Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản) của một số GV ở trường
THPT làm cơ sở thực tiễn cho đề tài.
6.3. Phương pháp chuyên gia
Xin ý kiến nhận xét, đánh giá của một số chuyên gia hoặc những người
có quan tâm đến câu hỏi, về giá trị thực tiễn của câu hỏi trong dạy học.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lí luận về xây dựng và sử dụng câu hỏi
- Xây dựng được hệ thống câu hỏi làm phương tiện để tổ chức dạy học
chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 - THPT (Ban cơ bản)
Lê Thị Tám
4
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
- Thiết kế được một số giáo án có sử dụng câu hỏi đã xây dựng làm tài
liệu tham khảo cho sinh viên và GV phổ thông
Lê Thị Tám
5
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG
VÀ SỬ DỤNG CÂU HỎI TRONG DẠY HỌC SINH HỌC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm câu hỏi trong dạy học
1.1.1.1. Bản chất câu hỏi
“Hỏi” là nêu ra điều mình muốn người khác trả lời về vấn đề nào đó.
Trong dạy học, Aristotle là người đầu tiên biết phân tích câu hỏi dưới góc độ
logic và lúc đó ông cho rằng đặc trưng câu hỏi là buộc người hỏi phải lựa
chọn các biện pháp có tính trái ngược nhau. Do đó con người phải có phản
ứng lựa chọn hoặc cách hiểu này hoặc cách hiểu khác. Tư tưởng quan trọng
bậc nhất của ông còn nguyên giá trị đó là “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó
chứa đựng cái đã biết và cái chưa biết ”
Câu hỏi = Cái đã biết + Cái chưa biết
Như vậy trong đời sống cũng như nghiên cứu khoa học con người chỉ
nêu ra những thắc mắc tranh luận khi biết chưa đầy đủ cần biết thêm. Còn khi
không biết gì hoặc biết tất cả về sinh vật nào đó thì không có gì để hỏi về sinh
vật đó nữa. Do đó tương quan giữa cái đã biết và cái chưa biết thúc đẩy mở
rộng hiểu biết của con người. Con người muốn biết một sự vật hiện tượng nào
đó dứt khoát chỉ biết khi người đó đặt được câu hỏi: Đó là cái gì? Nó Như thế
nào? Vì sao?...
Đề Các cho rằng, không có câu hỏi thì không có tư duy cá nhân cũng
như tư duy nhân loại. Ông cũng nhấn mạnh dấu hiệu bản chất của câu hỏi là
phải có mối liên hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết. Phải có tỉ lệ phù hợp
giữa hai đại lượng đó thì chủ thể nhận thức mới xác định phương hướng mình
Lê Thị Tám
6
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
phải làm gì để trả lời câu hỏi đó. Khi chủ thể nhận thức đã định rõ được cái
mình đã biết và cái mình chưa biết thì lúc bấy giờ mới đặt được câu hỏi và
đến lúc đó thì câu hỏi mới thực sự trở thành sản phẩm của quá trình nhận
thức.
1.1.1.2. Vai trò của câu hỏi
Trong dạy học câu hỏi có vai trò:
- Khi dùng câu hỏi để mã hóa thông tin SGK thì câu hỏi và việc trả lời
câu hỏi là nguồn tri thức mới cho HS.
- Câu hỏi có tác dụng định hướng tri thức mới, phát huy tính tích cực,
chủ động sáng tạo trong học tập của HS.
- Hệ thống câu hỏi có vấn đề được đặt ra trong bài học chứa đựng các
mâu thuẫn sẽ đặt HS vào tình huống có vấn đề, HS đóng vai trò là chủ thể của
quá trình nhận thức. Chủ động giành lấy kiến thức thông qua trả lời các câu
hỏi, từ đó khắc phục lối truyền thụ một chiều.
- Câu hỏi giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách có hệ thống.
- Giúp cá thể hóa cách học một cách tối ưu, tạo điều kiện cho HS tự học
và rèn luyện phương pháp học.
- HS được dạy cách lắng nghe và học hỏi người khác, biết làm việc tập
thể phát huy sức mạnh tập thể kết hợp với làm việc độc lập.
- Dạy học bằng câu hỏi còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt bằng lời nói. HS
thông qua việc phát biểu tại lớp sẽ phát huy được kĩ năng diễn đạt, lập luận
logic, xử lí thông tin một cách nhanh nhạy khi đó thông tin không còn là tri
thức chết nữa. Thông tin được tích lũy sẽ dần dần tạo điều kiện phát sinh các
ý tưởng.
Lê Thị Tám
7
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
- Dạy học bằng câu hỏi giúp GV đánh giá HS về mặt kiến thức, thái độ,
vì câu hỏi là biện pháp phát hiện, tự phát hiện thông tin ngược về kết quả
nhận thức.
- Dạy học bằng câu hỏi khắc phục được tình trạng nhớ máy móc, HS
được tham gia với vai trò như những nhà khoa học phát hiện ra kiến thức. Do
đó giờ học không còn trở nên nặng nề, giảm tải cho HS.
Như vậy dạy học bằng câu hỏi vừa giúp HS lĩnh hội được tri thức một
cách chủ động, vừa rèn cho các em các thao tác tư duy độc lập, tích cực, sáng
tạo, vừa rèn luyện phương pháp học tập. Câu hỏi là phương tiện tổ chức dạy
học tích cực. Do đó, GV khi tổ chức dạy học bằng bất kì phương pháp tích
cực nào thì đều rất cần chuẩn bị câu hỏi gợi mở giúp HS tự lực đối với mục
tiêu hoạt động.
1.1.1.3. Các loại câu hỏi
Câu hỏi và bài tập rất đa dạng và được phân loại theo nhiều cách khác
nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Trong dạy học, khi xây dựng và lựa
chọn câu hỏi phù hợp với nội dung dạy học để có thể phát huy được tính tích
cực học tập của HS thì GV phải nắm vững các loại câu hỏi.
* Dựa vào năng lực nhận thức người ta có thể có nhiều cách phân loại
khác nhau:
- Cách một: có hai loại chính
+ Loại câu hỏi đòi hỏi tái hiện các kiến thức, sự kiện, nhớ và trình bày
một cách có hệ thống, có chọn lọc.
+ Loại câu hỏi đòi hỏi sự thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
hệ thống hóa, vận dụng kiến thức.
Lê Thị Tám
8
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Theo Gall (1984) gọi loại thứ nhất là câu hỏi sự kiện và loại thứ hai là
câu hỏi cao hơn về nhận thức. Theo hướng dạy học phát huy tính tích cực
trong học tập của HS thì GV cần chú trọng loại câu hỏi thứ hai, nhưng cũng
không nên xem nhẹ loại câu hỏi thứ nhất. Vì không tích lũy kiến thức sự kiện
đến một mức độ nhất định thì khó mà tư duy sáng tạo. Mặt khác GV phải cố
gắng tìm tòi phát triển loại câu hỏi yêu cầu cao về nhận thức, hiện nay còn
quá ít ỏi trong các tiết học ở trường phổ thông.
- Cách 2: Có 6 loại câu hỏi, theo Benjaminbloom (1956) đã đề ra một
thang 6 mức câu hỏi (6 loại câu hỏi) tương ứng với 6 mức chất lượng lĩnh hội
kiến thức.
1- Biết: Câu hỏi yêu cầu HS nhắc lại một số kiến thức đã biết, HS trả lời câu
hỏi bằng sự tái hiện và lặp lại.
Ví dụ: Thế nào là vận chuyển thụ động?
Khuyếch tán là gì?
2- Hiểu: Câu hỏi yêu cầu HS tổ chức, sắp xếp lại các kiểu kiến thức đã học
và diễn đạt điều đã biết theo ý mình chứng tỏ đã thông hiểu chứ không phải
chỉ biết và nhớ.
Ví dụ: Em hãy so sánh thành phần cấu trúc của tế bào thực vật và tế bào
động vật?
Em hãy phân biệt tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực?
3- Áp dụng: Câu hỏi yêu cầu HS áp dụng những kiến thức đã học vào một
tình huống mới khác với tình huống trong bài
Ví dụ: Tại sao khi muối dưa bằng rau cải, lúc đầu rau quắt lại, sau vài
ngày rau trương to lên?
Lê Thị Tám
9
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
4- Phân tích: Câu hỏi yêu cầu HS phân tích nguyên nhân hay kết quả của
một hiện tượng, tìm kiếm bằng chứng cho một luận điểm.
Ví dụ: Giải thích tại sao Ti thể lại được coi là nhà máy năng lượng của tế
bào?
5- Tổng hợp: Câu hỏi yêu cầu HS vận dụng phối hợp các kiến thức đã có để
giải đáp các vấn đề khái quát hơn bằng suy nghĩ sáng tạo của bản thân.
Ví dụ: Làm thế nào để khi xào rau muống không bị quắt dai mà vẫn xanh
dòn?
6- Đánh giá: Câu hỏi yêu cầu HS nhận định, phán đoán về ý nghĩa kiến thức,
giá trị của tư tưởng, vai trò của một học thuyết…
Ví dụ: Kích thước nhỏ đem lại ưu thế gì cho tế bào nhân sơ?
Thực tế phổ biến là đa số GV đang sử dụng câu hỏi ở mức 1 và 2.
Muốn phát huy tính tích cực của học tập của HS, cần phát triển loại câu hỏi ở
các mức từ 3-6.
1.1.2. Xây dựng câu hỏi
1.1.2.1. Nguyên tắc xây dựng câu hỏi
Hiệu quả của câu hỏi trong dạy học phụ thuộc rất nhiều vào việc xây
dựng câu hỏi như thế nào. Do đó khi xây dựng câu hỏi trong khâu nghiên cứu
tài liệu mới cần chú ý một số nguyên tắc sau:
1. Đảm bảo nội dung khoa học, cơ bản, chính xác của kiến thức.
Câu hỏi, bài tập dùng để mã hóa nội dung bài học nên chúng cần được
xây dựng đảm bảo tính chính xác, khoa học. Do đó phải nắm vững kiến thức
thì khi xây dựng câu hỏi mới đảm bảo được nội dung khoa học, chính xác của
kiến thức mà HS cần lĩnh hội.
2. Phát huy tính tích cực học tập của HS
Lê Thị Tám
10
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Mâu thuẫn là động lực chủ yếu của quá trình phát triển mọi sinh vật, nên
mâu thuẫn cũng là động lực chủ yếu của quá trình nhận thức, học tập. Từ mâu
thuẫn khách quan chuyển thành mâu thuẫn chủ quan dưới dạng câu hỏi, bài
tập trong dạy học đó chính là vấn đề học tập. Vấn đề học tập là những tình
huống có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết và mâu thuẫn
này đòi hỏi phải được giải quyết. Khi giải quyết được vấn đề nghĩa là đã giải
quyết được câu hỏi, bài tập, HS lĩnh hội tri thức mới.
Vậy xây dựng câu hỏi, bài tập thì điều quan trọng là câu hỏi, bài tập
phải phát huy được tính tích cực học tập của HS. Muốn vậy câu hỏi, bài tập
đó phải là những tình huống có vấn đề, được HS chấp nhận như một “vấn đề
học tập” mà HS cần và có thể giải quyết được, kết quả là HS lĩnh hội được tri
thức mới, phát triển tư duy, phát triển tính tích cực học tập của HS.
3. Phản ánh được tính hệ thống và khái quát
Nội dung kiến thức từng phần, từng chương và từng bài đều được trình
bày theo một trình tự logic có hệ thống. Tính hệ thống đó được quy định bởi
chính nội dung khoa học và bởi logic hệ thống của bản thân hoạt động tư duy
của HS. Do đó, câu hỏi, bài tập xây dựng khi sử dụng phải theo một trình tự
logic hệ thống cho từng nội dung SGK, cho một bài, chương, một phần, cả
chương trình môn học.
Mỗi câu hỏi hay một nhóm câu hỏi xây dựng sao cho khi trả lời HS sẽ
nhận được một lượng kiến thức nhất định theo một hệ thống và một chủ đề
trọn vẹn.
4. Phù hợp với trình độ, đối tượng HS
Tùy trình độ, đối tượng HS mà xác định câu hỏi về số lượng và chất
lượng cho phù hợp. Nói cách khác câu hỏi phải vừa sức với HS để hạn chế sự
Lê Thị Tám
11
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
chán nản từ phía người học. Trong mỗi tiết học hay phần học câu hỏi đặt ra
phải đi từ dễ đến khó, nội dung yêu cầu của câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng,
chính xác.
1.1.2.2. Quy trình xây dựng câu hỏi
Để xây dựng được câu hỏi phục vụ cho dạy học có thể thực hiện theo
quy trình gồm 5 bước sau:
Bước 1: Xác định rõ mục tiêu kiến thức
Bước2 : Liệt kê và sắp xếp cái cần hỏi
Bước 3: Diễn đạt cái cần hỏi bằng câu hỏi hoặc bài tập
Bước 4: Xác định nội dung trả lời cho từng câu hỏi
Bước 5: Chỉnh sửa lại nội dung và hình thức diễn đạt của câu hỏi để đưa
vào sử dụng
1.1.3. Yêu cầu sư phạm của câu hỏi
- Câu hỏi phải diễn đạt được điều cần hỏi.
- Câu hỏi phải có tác dụng kích thích tư duy HS.
- Câu hỏi phải mã hóa được lượng thông tin quan trọng.
- Câu hỏi cần diễn đạt gọn gàng, rõ ràng, súc tích, chứa đựng hướng trả
lời.
1.1.4. Sử dụng câu hỏi
1.1.4.1. Câu hỏi ở các khâu của quá trình dạy học
Câu hỏi được dùng trong các khâu khác nhau của quá trình dạy học như:
Sử dụng câu hỏi trong khâu dạy bài mới
Sử dụng câu hỏi trong khâu ôn tập, củng cố
Sử dụng câu hỏi trong khâu kiểm tra đánh giá
Lê Thị Tám
12
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Tuy vậy, ở đây ta quan tâm đến việc xây dựng câu hỏi để tổ chức các
hoạt động dạy học trong khâu nghiên cứu tài liệu mới: trong khâu dạy bài
mới, câu hỏi lại được sử dụng trong những phương pháp khác nhau nhưng
quan trọng nhất là phương pháp vấn đáp.
Phương pháp vấn đáp là phương pháp trong đó GV đặt ra một hệ thống
các câu hỏi để HS lần lượt trả lời, thảo luận trên lớp để có thể lĩnh hội được
nội dung của bài học. Trong phương pháp này, hệ thống các câu hỏi của thầy
đóng vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội kiến thức của HS. Trật tự
logic của câu hỏi, hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra kiến thức.
1.1.4.2. Sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực của HS
Dùng câu hỏi để định hướng vấn đề học tập.
Khi nghiên cứu một vấn đề chứa đựng nhiều nội dung, GV cần định
hướng cho người học bằng câu hỏi giúp người học xác định được vấn đề nào
là cơ bản, đặc điểm nào là bản chất, cần tập trung đi sâu vào những khía cạnh
nào của vấn đề,…
Ví dụ: Khi dạy bài 11, Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản) “ Vận chuyển
các chất qua màng sinh chất”, GV có thể định hướng vấn đề học tập như sau:
chúng ta đã biết cấu trúc của màng tế bào, vậy cấu trúc đó phù hợp với chức
năng vận chuyển qua màng sinh chất như thế nào? Có những hình thức vận
chuyển nào qua màng? Các hình thức vận chuyển đó có gì giống và khác
nhau? Chúng ta cùng nhau tìm câu trả lời khi học bài hôm nay.
Dùng câu hỏi để hướng dẫn HS quan sát.
Để định hướng cho HS trong quá trình quan sát, GV cần xây dựng các
câu hỏi để người học biết mình cần phải quan sát cái gì và cần rút ra kết luận
gì khi quan sát.
Lê Thị Tám
13
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Ví dụ: Khi dạy bài 8, Sinh học 10 – THPT (Ban cơ bản) “ Tế bào nhân
thực”, GV có thể sử dụng câu hỏi để hướng dẫn HS quan sát.
+ Quan sát hình 8.1a, liệt kê các bào quan của tế bào động vật từ ngoài
vào trong?
+ Quan sát hình 8.1, cho biết vị trí của lưới nội chất hạt và lưới nội chất
trơn? Chúng có thông thương với nhau không?
+ Quan sát hình 8.2, cho biết con đường đi của các chất trong tế bào?
Dùng câu hỏi để phát triển kĩ năng tư duy.
Trong dạy học, ngoài hướng tới mục tiêu về mặt kiến thức cần phải
hướng tới mục tiêu về mặt tư duy. Đó là việc rèn luyện cho người học kĩ năng
quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu trượng hóa.
Ví dụ:
+ Vì sao trong tế bào chất ribôxôm phân bố chủ yếu trên lưới nội chất
và tập trung nhiều nhất ở miền gần nhân? (khả năng suy luận)
+ Vì sao lục lạp là bộ máy quang hợp của tế bào? (khả năng tổng hợp)
+ So sánh diện tích màng trong và màng ngoài ty thể? Sự khác nhau đó
có ý nghĩa gì?
Dùng câu hỏi để tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu SGK.
Dùng câu hỏi để tổ chức hoạt động nghiên cứu SGK của HS không chỉ
rèn luyện cho các em biết cách đọc sách mà còn rèn luyện cho các em kĩ
năng, kĩ xảo khi đọc sách và tài liệu tham khảo, làm cơ sở cho phương pháp
tự học, chủ động lĩnh hội kiến thức, phát huy tính tích cực học tập của HS.
Các câu hỏi này được xây dựng dựa trên nền tảng nội dung kiến thức SGK
cho từng bài học. Trong một thời điểm nhất định, phương pháp này nhằm
định hướng cho quá trình nghiên cứu SGK của HS theo ý đồ, kinh nghiệm
Lê Thị Tám
14
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
của GV. Các câu hỏi này được xây dựng theo một hệ thống logic để từ việc
thực hiện các câu hỏi này HS tự lĩnh hội được kiến thức, tự nghiên cứu.
Ví dụ:
Quan sát hình 8.2 SGK cho biết chức năng quan trọng của bộ máy Gôngi?
Dựa vào SGK hãy cho biết cấu trúc và chức năng của không bào?
1.1.4.3. Sử dụng câu hỏi trong bài lên lớp
* Chuẩn bị câu hỏi trong bài soạn
Để phát triển các phương pháp dạy học tích cực, trong khâu soạn bài cần
coi trọng khâu chuẩn bị câu hỏi. Tùy đặc điểm trình độ HS, tùy phương pháp
được chọn mà quyết định số lượng và chất lượng câu hỏi cho phù hợp.
Cần tránh khuynh hướng hình thức, đặt câu hỏi ở những vấn đề dễ hỏi
chứ không phải ở chỗ cần hỏi. Cũng cần tránh tùy tiện đặt câu hỏi tức thì tại
lớp mà không chuẩn bị. Mỗi bài học cần có câu hỏi then chốt nhằm vào mục
đích nhận thức xác định, trên cơ sở đó, khi lên lớp sẽ phát triển thêm câu hỏi
phụ tùy theo diễn biến của tiết học.
Những đặc điểm sau đây cần chú ý về mặt kĩ thuật:
- Đặt câu hỏi cho khớp với nội dung chính trong bài
- Cần quan tâm đến trình tự logic của câu hỏi đặc biệt khi áp dụng
phương pháp vấn đáp phát hiện. Ở giai đoạn đầu có thể bố trí các câu hỏi
kiểm tra sự kiện trước, tiếp đó là những câu hỏi có yêu cầu cao về năng lực
nhận thức. Như vậy bài học dễ thành công hơn, nhất là khi HS chưa quen với
phương pháp dạy học tích cực.
- Sau khi soạn bài xong nên kiểm tra lại xem câu hỏi có phù hợp với
trình độ HS không, có đủ rõ ràng chính xác không. Những GV chưa có kinh
nghiệm cần coi trọng khâu này…
Lê Thị Tám
15
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
* Nêu câu hỏi trên lớp
Việc nêu câu hỏi trên lớp phải thu hút được sự chú ý, kích thích được
hoạt động chung của cả lớp. Sau đó mới chỉ định một HS nào đó trả lời. Khi
một HS trả lời cần yêu cầu cả lớp chăm chú nghe, phát biểu ý kiến nhận xét
bổ sung.
Hiện nay có tình trạng đa số HS rụt rè, nói rất nhỏ không đủ cho các bạn
nghe, biến cuộc đàm thoại giữa thầy với cả lớp thành cuộc đàm thoại giữa
thầy với một trò, hạn chế tác dụng của phương pháp vấn đáp.
Cần chú ý sau khi nêu câu hỏi cho cả lớp, hãy để một thời gian thích hợp
rồi hãy chỉ định HS trả lời.
Cũng cần lưu ý đảm bảo cho HS trong lớp được bình đẳng trước cơ hội
tiếp nhận câu hỏi và tham gia trả lời các câu hỏi của thầy.
* Phản ứng của GV trước câu trả lời của HS.
GV phải chăm chú theo dõi câu trả lời của HS, nếu cần thì đặt thêm câu
hỏi phụ để gợi ý trả lời, tránh vội vàng nôn nóng cắt ngang câu trả lời của HS
khi không cần thiết. Phải động viên khuyến khích HS, tránh những lời nói,
hành vi thiếu tôn trọng nhân cách của HS. Phải chú ý uốn nắn, bổ sung câu trả
lời của HS cho cả lớp nghe. Các nhà sư phạm cho rằng nhận xét của GV về
câu trả lời của HS được như sau thì tốt:
- Tập trung vào năng lực của HS chứ không hướng vào bản tính cá nhân,
phê phán có tính xây dựng chứ không công kích.
- Chỉ rõ hướng phấn đấu tiến lên. Nếu GV chỉ nhận xét là trả lời sai mà
không nói rõ sai ở chỗ nào, sửa chỗ sai ấy như thế nào thì làm sao HS tiến bộ
được?
Lê Thị Tám
16
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
- Tạo ra một không khí trong lớp học chấp nhận có thể thiếu sót để HS
không quá sợ khi trả lời, các HS yếu kém không mặc cảm về trình độ của
mình.
- Khuyến khích, động viên sự cố gắng của HS. Nếu GV tin ở sự cố gắng
của HS thì các em thêm nỗ lực phấn đấu không nản chí.
- GV nên trân trọng mỗi tiến bộ nhỏ của HS tuy nhiên không nên lạm
dụng quá lời khen.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Để xác định được thực trạng của việc xây dựng và sử dụng câu hỏi
trong dạy học chúng tôi đã điều tra kĩ năng xây dựng và sử dụng câu hỏi của
GV dạy Sinh học tại một số trường THPT.
* Nội dung điều tra
- Phương pháp dạy học của GV.
- Kĩ năng xây dựng câu hỏi của GV.
- Kĩ năng sử dụng câu hỏi của GV.
- Những khó khăn khi xây dựng và sử dụng câu hỏi.
* Đối tượng điều tra
Điều tra một số giáo viên ở một số trường THPT ở Tuyên Quang ( trường
THPT Tân Trào, THPT Nguyễn Văn Huyên).
* Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu thăm dò (nội dung phiếu thăm dò xem ở phụ lục). Ngoài ra tôi
còn tiến hành dự giờ, tìm hiểu giáo án, trao đổi với một số giáo viên.
* Kết quả điều tra
- Phương pháp dạy học mà phần lớn GV vẫn sử dụng phương pháp
thuyết trình, một số giáo viên sử dụng phương pháp vấn đáp, một số giáo viên
Lê Thị Tám
17
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
sử dụng phương pháp trực quan tuy nhiên số câu hỏi đặt ra ít chủ yếu tập
trung vào các chủ đề lớn của bài học. Một số GV có thể tìm tòi câu hỏi phát
huy tính tích cực sáng tạo của HS nhưng chưa nhiều, chưa thường xuyên.
Trong giáo án cũng chưa thể hiện được sự quan tâm đến phản ứng của HS
trước mỗi câu hỏi. Do đó câu hỏi đưa ra chưa phù hợp với trình độ nhận thức
của HS, chưa thể hiện được logic tìm tòi kiến thức của HS.
- Kĩ năng xây dựng câu hỏi của GV: Phần lớn GV chưa có kĩ năng xây
dựng câu hỏi, chưa xây dựng câu hỏi theo một quy trình nhất định, chủ yếu
đặt câu hỏi một cách ngẫu nhiên và thường tham khảo câu hỏi trong SGK,
sách thiết kế bài giảng.
- Kĩ năng sử dụng câu hỏi: Chủ yếu sử dụng câu hỏi vào khâu kiểm tra
đánh giá, sử dụng câu hỏi trong khâu dạy bài còn ít, sử dụng câu hỏi cũng
chưa phát huy được tính tích cực của HS, chủ yếu yêu cầu HS liệt kê kiến
thức, chưa khai thác câu hỏi ở mức độ tư duy khác nhau, chưa định hướng sử
dụng câu hỏi vào việc định hướng các vấn đề học tập. hướng dẫn HS quan
sát, tổ chức cho HS tự nghiên cứư SGK.
- Khó khăn trong quá trình xây dựng và sử dụng câu hỏi: Đa số các GV
đều trả lời là chưa có lí thuyết về xây dựng và sử dụng câu hỏi, nên số câu hỏi
xây dựng chưa nhiều, câu hỏi ở mức độ tư duy cao còn ít, chủ yếu tập trung
câu hỏi ở 2 mức hiểu, biết. Câu hỏi đôi khi còn tối nghĩa, không rõ ràng, câu
hỏi dễ quá hoặc khó quá.
* Nguyên nhân
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Nhiều GV còn ngại khó, sợ mất thời gian, ngại suy nghĩ đầu tư cho
chuyên môn của mình.
Lê Thị Tám
18
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
+ Nhiều GV cho rằng chỉ nên đặt câu hỏi cho HS giỏi, còn HS bình
thường thì hỏi chỉ làm mất thời gian.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Mâu thuẫn giữa khối lượng kiến thức của mỗi bài học với thời gian
của mỗi tiết dạy.
+ Tâm lí của HS coi Sinh học là môn phụ nên không hứng thú và lười
học, lười suy nghĩ. Mặt khác, HS đã quen học thuộc nội dung mà chưa chú ý
phân tích nội dung, chứng minh bản chất nội dung.
Như vậy, từ thực trạng về kĩ năng xây dựng và sử dụng câu hỏi của GV
dạy phổ thông và từ nguyên nhân của thực trạng đó tôi đã tiến hành nghiên
cứu đề tài này nhằm xây dựng và sử dụng câu hỏi để làm phương tiện tổ chức
các hoạt động dạy học trong Chương II - Cấu trúc tế bào, Sinh học 10 –
THPT (Ban cơ bản) nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
Lê Thị Tám
19
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2. XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG CÂU HỎI ĐỂ DẠY HỌC
CHƯƠNG II - CẤU TRÚC TẾ BÀO, SINH HỌC 10 – THPT
(BAN CƠ BẢN)
2.1. Phân tích nội dung
2.1.1. Khái quát nội dung phần Sinh học tế bào
Nội dung phần II: Sinh học tế bào đi sâu vào trình bày cấu tạo của tế
bào (thành phần hoá học, cấu trúc, các bào quan và các hoạt động sống của tế
bào, trao đổi chất và năng lượng trong tế bào, các hình thức phân bào). Toàn
bộ nội dung nói trên được trình bày trong 4 chương:
Chương I: Thành phần hoá học của tế bào
Chương này chủ yếu nói đến cấu trúc và chức năng của thành phần hoá
học của tế bào. Tế bào được cấu tạo từ rất nhiều thành phần trong đó chia ra
làm hai nhóm chính là: Các hợp chất vô cơ (muối, các iôn, H20) và các hợp
chất hữu cơ (gluxit, lipit, prôtêin, axit nuclêic).
Chương II: Cấu trúc tế bào
Nội dung chương này là trình bày khái quát về tế bào (tế bào nhân
chuẩn, tế bào nhân sơ). Sau đó đi sâu vào tế bào nhân chuẩn: Màng sinh chất,
tế bào chất và bào quan, nhân và sự vận chuyển các chất qua màng tế bào.
Chương III: Chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào
Đây là hoạt động sống cơ bản của tế bào – dấu hiệu đặc trưng của sự
sống phân biệt giới vô cơ và giới hữu cơ. Bao gồm quá trình trao đổi chất và
năng lượng của tế bào như quang hợp, hô hấp hay chính là các hoạt động
phân giải tổng hợp chất hữu cơ của tế bào. Tất cả phản ứng sinh hoá diễn ra
trong tế bào đều chịu sự xúc tác của enzim phản ứng nhanh hơn và triệt để cơ
thể mới huy động nguồn năng lượng triệt để.
Lê Thị Tám
20
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
Chương IV: Phân bào
Cơ thể sinh trưởng và phát triển được là nhờ các quá trình phân bào của
tế bào. Phân bào gồm hai hình thức trực phân (không có tơ vô sắc) và giảm
phân (có tơ vô sắc) bao gồm nguyên phân và giảm phân, hình thức phân bào
chủ yếu của tế bào nhân chuẩn. Nhờ nguyên phân mà số lượng tế bào tăng lên
qua các thế hệ tế bào. Đồng thời vẫn duy trì ổn định được bộ nhiễm sắc thể
lưỡng bội (2n) của loài. Giảm phân tạo ra các giao tử đơn bội (n) tham gia
vào quá trình thụ tinh. Thụ tinh phục hồi bộ NST 2n của loài thông qua sự kết
hợp của hai giao tử đực và cái.
2.1.2. Phân tích nội dung chương II
a. Vị trí của chương
Đây là chương thứ hai của phần Sinh học tế bào, được sắp xếp sau
chương I– Thành phần hoá học của tế bào.
Kiến thức chương II liên quan mật thiết với kiến thức chương I. Sau khi
HS đã biết được các thành phần tham gia vào cấu tạo tế bào và chức năng của
từng phần đó, thì sang chương II các em sẽ rõ hơn chức năng của chúng trong
việc cấu trúc nên từng thành phần của tế bào, các bào quan. Các thành phần
đó liên hệ với nhau như thế nào. Đồng thời kiến thức chương II đặc biệt các
bài 8, 9, 10, 11 còn là kiến thức cơ sở để HS tiếp thu kiến thức chương III,
IV.
b. Logic chương.
Nội dung của chương và các bài của chương được bố trí theo một logic
chặt chẽ khoa học.
Bài đầu tiên của chương là bài 7: Tế bào nhân sơ. Qua bài này HS sẽ
được giới thiệu những kiến thức chung nhất về cấu tạo tế bào; hiểu tại sao lại
Lê Thị Tám
21
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
phân chia tế bào thành tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực; để thấy rõ sự khác
nhau đó, thì lần lượt đi sâu nghiên cứu cấu trúc cụ thể tế bào nhân sơ và tế
bào nhân thực.
Các bài tiếp theo của chương đi sâu vào cấu trúc tế bào nhân chuẩn.
Cụ thể chương II gồm 6 bài, 5 bài lí thuyết và 1 bài thực hành.
Bài 7: Tế bào nhân sơ
Bài 8: Tế bào nhân thực
Bài 9: Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Bài 10: Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Bài 11: Vận chuyển các chất qua màng sinh chất
2.1.3. Phân tích nội dung các bài trong chương
Bài 7. Tế bào nhân sơ
Đây là bài đầu tiên của chương II – Cấu trúc tế bào – phần hai: Sinh học
tế bào, là bài rất quan trọng, cần dạy tốt để làm cơ sở học bài sau. GV giúp
HS hiểu thế giới sống được cấu tạo từ hai loại tế bào là tế bào nhân sơ và tế
bào nhân thực; hiểu được tế bào nhân sơ có đặc điểm và cấu trúc như thế nào
để so sánh các bài tiếp theo của chương.
Để nghiên cứu về tế bào nhân sơ, trước hết phải nắm các đặc điểm
chung của tế bào nhân sơ. GV cần lưu ý HS hiểu tại sao tế bào lại cần có kích
thước nhỏ. Cấu tạo của tế bào nhân sơ, GV cần lưu ý giúp HS nắm đựơc tế
bào nhân sơ có cấu tạo đơn giản thể hiện ở đặc điểm. Trong tế bào chất không
có hệ thống nội màng chia tế bào thành các khoang nhỏ. Tế bào không có các
bào quan bao bọc mà chỉ có ribôxôm với kích thước nhỏ.
Ngoài ra, cũng cần cho HS thấy hầu hết các loài vi khuẩn đều có các
thành tế bào. Biết được các đặc điểm khác nhau này, chúng ta có thể lấy các
Lê Thị Tám
22
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
loại thuốc kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, mà không làm tổn
thương đến tế bào người.
Bài 8. Tế bào nhân thực
Đây là bài thứ hai của chương, nhưng là bài có kiến thức khác so với bài
đầu tiên của chương. Sau khi học xong bài này một phần sẽ giúp HS so sánh
được điểm khác biệt giữa tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực.
GV có thể giải thích cho HS hiểu tại sao lại gọi là tế bào nhân thực. Tế
bào nhân thực là tế bào có vật chất di truyền được bao bọc bởi màng nhân.
Trong bài này GV không nên chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức,
mà nên tập trung vào rèn luyện kĩ năng cho HS. Về nội dung kiến thức HS có
thể tự đọc SGK. GV có thể giới thiệu sơ qua về đặc điểm, chức năng của:
Nhân tế bào, hệ thống lưới nội chất, ribôxôm và bộ máy gôngi. GV cần chú ý
tạo ra các hoạt động về thí nghiệm chuyển nhân. Để HS thấy đựơc bằng cách
nào đó mà các nhà khoa học đã chứng minh được vai trò của nhân tế bào.
Bài 9. Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Là bài tiếp theo của bài 8 Tế bào nhân thực. Nhằm giới thiệu tiếp cấu
trúc, chức năng của các thành phần cấu tạo nên tế bào nhân thực đó là: Ti thể,
lục lạp, không bào lizôxôm. Là bài khá đơn giản GV cần tổ chức các hoạt
động rèn kĩ năng cho HS hơn là việc nhắc lại kiến thức SGK.
Cần cho HS nắm được cấu trúc của Ti thể và Lục lạp đó là hai lớp
màng bên trong chứa ADN và Ribôxôm.
Chức năng của Lục lạp là tổng hợp nên các phân tử đường và tinh bột
thông qua quá trình quang hợp.Chức năng của Ti thể là tổng hợp nên ATP
thông qua quá trình hô hấp tế bào. Ti thể có thể ví như nhà máy điện của tế
bào. Còn Lục lạp như nhà máy cung cấp nguyên liệu cho nhà máy điện.
Lê Thị Tám
23
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
SGK không giới thiệu tất cả các bào quan còn lại của tế bào nhân thực,
mà chỉ giới thiệu thêm hai loại bào quan là Không bào và Libôxôm.
Không bào là bào quan rất quan trọng đối với thực vật. Một số tế bào
động vật cũng có Không bào làm nhiệm vụ tiêu hoá thức ăn gọi là Không bào
tiêu hoá hay làm nhiệm vụ bơm nước ra khỏi tế bào như Không bào co bóp.
Lizôxôm là bào quan rất quan trọng ở các tế bào động vật. (ở tế bào thực
vật một bào quan làm nhiệm vụ tương tự như Lizôxôm được gọi là
Peroxixôm).
Khi tế bào bị tổn thương không thể phục hồi được thì Liôxôm
tự vỡ và giải phóng các enzim phân huỷ luôn tế bào, hoặc khi tế bào bạch cầu
của người bắt giữ vi khuẩn lây bệnh bằng con đường thực bào thì sau đó
Lizôxôm giải phóng enzim phân huỷ tế bào vi khuẩn.
Bài 10. Tế bào nhân thực (tiếp theo)
Là bài tiếp theo của bài 9 Tế bào nhân thực. Bài 10 sẽ hoàn thiện kiến
thức cơ bản về tế bào nhân thực
Đây cũng là một bài quan trọng, giúp HS có cái nhìn hoàn chỉnh về
toàn bộ cấu trúc và chức năng của các thành phần cấu tạo nên tế bào nhân
thực.
Trọng tâm chính của bài là màng sinh chất. Các bộ phận như khung
xương tế bào và thành tế bào chỉ cần giới thiệu sơ qua.
Khung xương tế bào chỉ có ở tế bào nhân thực. Cấu trúc này có thể ví
như 1 hệ thống khung giàn giáo được tạo thành từ vi ống, vi sợi và sợi trung
gian.
Chức năng của khung xương tế bào là làm giá đỡ cho các bào quan của
tế bào, tạo hình dạng cho tế bào động vật. Các vi ống còn là con đường cao
tốc vận chuyển các chất trong tế bào từ nơi nọ đến nơi kia. Các chất sau khi
Lê Thị Tám
24
Khoa Sinh - KTNN
Khóa luận tốt nghiệp
tổng hợp được bao gói trong túi tiết rồi vận chuyển vào vi ống. Các Vi ống và
Vi sợi cũng như sợi trung gian còn giúp tế bào di chuyển và qua đó tế bào có
thể tự mình di chuyển hoặc thay đổi hình dạng. Khung xương tế bào không
vững chắc mà có thể dễ dàng thay đổi làm biến đổi hình dạng tế bào.
Cấu trúc màng sinh chất , cần làm cho HS hiểu rõ màng sinh chất có cấu
trúc khảm động như thế nào?
Màng sinh chất của tất cả các loại tế bào cũng như màng của các bào
quan đều được cấu tạo từ thành phần chính là Photpholipit hai lớp và các loại
prôtêin.
Cần chú ý là: Phân tử Photpholipit có một đầu có một nhóm phôtphát ưa
nước và một đầu có axit béo kị nước. Vì thế hai lớp phôtpholipit trong màng
luôn quay hai đuôi kị nước vào nhau và hai đầu ưa nước ra ngoài để tiếp xúc
với môi trường nước.
Prôtêin của màng sinh chất gồm hai loại Prôtêin xuyên màng và Prôtêin
bề mặt. Prôtêin xuyên màng là loại xuyên suốt 2 lớp phôtpholipit của màng
sinh chất, còn Prôtêin bề mặt là Prôtêin chỉ bám bề mặt màng sinh chất . Các
prôtêin có thể liên kết với các chất khác nhau như cacbôhiđrat và lipit để thực
hiện các chức năng khác nhau. Chức năng của màng sinh chất phụ thuộc
nhiều vào thành phần hoá học của nó, đặc biệt là các loại Prôtêin của màng
sinh chất. Các Prôtêin của màng có thể thực hiện các chức năng vận chuyển
các chất, thụ thể thu nhận thông tin, các dấu chuẩn để nhận biết ra nhau, các
Prôtêin làm nhiệm vụ ghép nối tế bào thành mô, các enzim…
GV cần giải thích rõ đặc điểm cấu trúc của màng sinh chất nên nó chỉ
cho một số chất nhất định ra vào tế bào. Do vậy, người ta nói rằng màng sinh
Lê Thị Tám
25
Khoa Sinh - KTNN