Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Đọc hiểu tác phẩm tự sự việt nam hiện đại sau năm 1975 trong nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.43 KB, 100 trang )

Khoỏ lun tt nghip

Trng HSP H Ni 2

Trường Đại học sư phạm hà Nội 2
Khoa Ngữ văn
-------------***-----------

Đinh Thị Tuyền

Đọc - hiểu tác phẩm tự sự
Việt nam hiện đại sau 1975 trong
nhà trường THPT theo
đặc trưng thể loại
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Người hướng dẫn khoa học
ThS-GVC. Vũ Ngọc Doanh

Hà Nội 2010

inh Th Tuyn

1

Lp:K32D - Ng Vn


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam
hiện đại sau 1975 trong nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại” tác giả
khoá luận đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và
chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các
thầy, cô trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ Văn và thạc sĩ Vũ Ngọc Doanh –
người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả khoá luận xin được bày tỏ sự biết ơn và lời cảm ơn chân thành
nhất tới các thầy cô.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2010
Tác giả khoá luận

Đinh Thị Tuyền

Đinh Thị Tuyền

2

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


LỜI CAM ĐOAN

Với tư cách là một giáo viên Ngữ Văn tương lai, mong muốn trang bị
cho mình những kiến thức và kĩ năng cần thiết khi bước lên bục giảng. Tôi
xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp Đại học với đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự
sự Việt Nam hiện đại sau 1975 trong nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại” là
công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Kết quả này không trùng với kết quả của bất kì tác giả nào đã công bố.
Nếu sai tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2010
Tác giả khoá luận

Đinh Thị Tuyền

Đinh Thị Tuyền

3

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

DANH MỤC VIẾT TẮT

GV


………………………….. Giáo viên

HS

………………………….. Học sinh

NXB

………………………….. Nhà xuất bản

SGK

………………………….. Sách giáo khoa

ĐH

………………………….. Đại học

BGD

………………………….. Bộ giáo dục

GS

………………………….. Giáo sư

Đinh Thị Tuyền

4


Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỤC LỤC
Mở đầu
1) Lí do chọn đề tài

1

2) Lịch sử vấn đề

2

3) Đối tượng nghiên cứu

4

4) Mục đích nghiên cứu

4

5) Nhiệm vụ nghiên cứu

4

6) Phạm vi nghiên cứu


5

7) Phương pháp nghiên cứu

5

8) Đóng góp của khóa luận

5

9) Bố cục khoá luận

5
Nội dung

Chương 1: Những vấn đề chung
1.1. Cơ sở lý luận

6

1.1.1. Tiếp nhận văn học

6

1.1.1.1. KháI niệm tiếp nhận tác phẩm văn học

6

1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động tiếp nhận văn học


7

1.1.2. Vấn đề thể loại và quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học

11

1.1.2.1. Khái niệm thể loại

11

1.1.2.2. Vai trò của thể loại đối với quá trình tiếp nhận tác

13

phẩm văn học
1.1.3. Đọc – hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại –

14

một con đường tiếp nhận tác phẩm văn học
1.2. Cơ sở thực tiễn

15

1.2.1. Vị trí-vai trò của văn học Việt Nam hiện đại sau 1975

15

trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam


Đinh Thị Tuyền

5

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.2.2. Vị trí – vai trò của Văn học Việt Nam hiện đại sau 1975

16

trong nhà trường phổ thông.
Chương 2:
Đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975 theo
đặc trưng thể loại
2.1. Thể loại tự sự

18

2.1.1. Khái niệm tự sự

18

2.1.2. Cách phân chia thể loại tự sự


19

2.1.3. Đặc trưng của thể loại tự sự Việt Nam sau 1975

20

2.1.3.1. Cốt truyện

20

2.1.3.1.1. Quan niệm về cốt truyện và đặc trưng chung

21

của cốt truyện
2.1.3.1.2. Đặc trưng của cốt truyện trong tác phẩm tự

23

sự Việt Nam sau 1975
2.1.3.2. Nhân vật

28

2.1.3.2.1. Quan niệm và đặc trưng chung về nhân vật

28

2.1.3.2.2. Đặc trưng nhân vật trong tác phẩm tự sự


29

Việt Nam sau 1975
2.1.3.3. Ngôn ngữ

33

2.1.3.3.1. Quan niệm và đặc trưng chung về ngôn ngữ

33

2.1.3.3.2. Đặc trưng về ngôn ngữ tự sự Việt Nam sau

35

1975
2.2. Đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975 trong

38

nhà trường THPT
2.2.1. Đọc – hiểu là gì?

38

2.2.1.1. Quan niệm đọc – hiểu

38

2.2.1.2. Đọc – hiểu tác phẩm văn chương


40

Đinh Thị Tuyền

6

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.2.2. Các cấp độ đọc – hiểu

41

2.2.2.1. Đọc thông - đọc thuộc

41

2.2.2.2. Đọc kĩ - đọc sâu

43

2.2.2.3. Đọc hiểu - đọc sáng tạo

44


2.2.2.4. Đọc đánh giá - đọc ứng dụng

44

2.2.3. Hướng dẫn học sinh Đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt

45

Nam hiện đại sau 1975 trong nhà trường THPT
2.2.3.1. Giúp học sinh nắm được cốt truyện

46

2.2.3.2. Giúp học sinh nhận diện, cảm thụ sâu sắc, đánh giá

50

đúng nhân vật trong tác phẩm
2.2.3.3. Giúp học sinh hiểu và cảm thụ được cái hay trong

54

ngôn ngữ nhân vật và cái ý vị trong lời kể tác giả
Chương 3: Giáo án thực nghiệm

56

1) Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
2) Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)


Đinh Thị Tuyền

Kết luận

82

Tài liệu tham khảo

83

7

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo Quyết định số 3/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/01/2001 của Bộ giáo dục
và đào tạo, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn theo quan điểm tích
hợp, trong đó trọng tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là đọc – hiểu văn bản.
Lí thuyết về đọc hiểu là vấn đề giảng dạy khoa học còn tương đối mới mẻ đối
với môn học Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông. Nó giúp HS thực hiện
thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, hướng tới hiệu quả thực hành, vận dụng
kết nối kiến thức với phần tiếng Việt, làm văn.
Điều 28.2 trong Luật Giáo dục (2005) đã ghi: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS: phù hợp

với từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng
vận dụng vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập với HS”.
Vì vậy, dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp Đọc - hiểu nhằm
đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường THPT, góp phần nâng cao
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Theo chương trình đổi mới cấu trúc chương trình và nội dung SGK
được sắp xếp theo thể loại gắn với các thời kì văn học làm nổi bật đặc trưng
của từng thể loại. Vì vậy, hướng dẫn học sinh đọc – hiểu tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thể loại là một hướng đi tích cực nhằm rèn luyện kĩ
năng: đọc, cảm thụ, phân tích, lí giải, đánh giá tác phẩm một cách hợp lí, sáng
tạo, là cơ sở giúp HS đọc – hiểu tác phẩm.
Để phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chương trình SGK được bổ sung
và mở rộng cả về nội dung và hình thức. Với nhiều tác phẩm mới được đưa
vào giảng dạy, thuộc nhiều thể loại sau 1975: Chiếc thuyền ngoài xa

Đinh Thị Tuyền

8

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

(Nguyễn Minh Châu); “Một người Hà Nội” (Nguyễn Khải); Ai đã đặt tên
cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường); Hồn Trương Ba ra hàng thịt (Lưu
Quang Vũ)… giúp HS có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực cuộc sống, gần

gũi với cuộc sống. Việc lựa chọn tìm hiểu tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975,
người viết muốn giới hạn đề tài nghiên cứu để thấy diện mạo của văn học
hiện đại Việt Nam sau 1975 so với các giai đoạn trước.
2. Lịch sử vấn đề
Đọc – hiểu không còn là vấn đề hoàn toàn mới đối với các nhà khoa
học; các nhà giáo dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà phê bình, nhà
nghiên cứu văn học tốn không ít giấy mực để đề cập đến đọc – hiểu. Vì vậy,
rất nhiều công trình nghiên cứu về đọc – hiểu ra đời: những luận án, luận văn,
chuyên đề, cuốn sách…
Trên bình diện lí luận, hai giáo trình, một của Đại học Tổng hợp do Hà
Minh Đức (chủ biên) đã đề cập đến những đặc trưng chung của thể loại tự sự,
đặc biệt quan tâm nhiều đến truyện và kí; một của Đại học Sư phạm do
Phương Lựu (chủ biên) quan tâm đến: Anh hùng ca; truyện thơ, thơ trường
thiên, truyện ngắn, truyện vừa, truyện ngụ ngôn. Hai cuốn giáo trình đã đề cập
đến những vấn đề thể loại, mỗi cuốn giáo trình nhấn mạnh vào thể loại khác
nhau, nhưng đều nhằm mục đích trang bị cho người đọc những kiến thức về lí
luận cơ bản để tạo ra tiền đề đi vào khai thác và chiếm lĩnh tác phẩm. Tuy
nhiên, hai cuốn giáo trình mới thành công trên lĩnh vực nghiên cứu mà chưa
đề cập đến phương pháp giảng dạy.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể
loại” của Nguyễn Viết Chữ (NXB GD. Hà Nội. 2000) đã vận dụng những
kiến thức lí luận văn học vào việc giảng dạy tác phẩm văn học ở cả ba thể
loại: Tự sự, trữ tình, kịch. Đề cập đến mối quan hệ giữa học và giảng văn hiện

Đinh Thị Tuyền

9

Lớp:K32D - Ngữ Văn



Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nay theo đặc trưng thể loại là hướng đi tích cực giúp HS có kĩ năng nhận biết
và cảm thụ tác phẩm theo thể loại.
Cuốn “Rèn luyện năng lực đọc – hiểu” (2004) của Nguyễn Thanh
Hùng đã nêu một cách khái quát đọc – hiểu là khái niệm khoa học chỉ mức độ
cao nhất của hoạt động đọc. Nhằm trang bị kĩ năng để khai thác tác phẩm văn
chương một cách đúng hướng.
Đọc văn là một hoạt động được tiến hành thường xuyên trong cuộc
sống hiện đại, dù ở lĩnh vực nào đọc – hiểu văn bản là một việc không phải dễ
dàng. Vì vậy cuốn “Kĩ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ Văn” gồm ba cuốn
song hành với SGK Ngữ Văn 10, 11, 12 – Chương trình chuẩn do Nguyễn
Kim Phong (chủ biên). NXB GD. 2006. Theo phương thức cung cấp những tri
thức cần thiết để HS có thể tiếp cận tốt văn bản. Sau đó đưa ra các bước cần
và có tính khả thi của quá trình đọc – hiểu văn bản (một phương án tiếp nhận,
một thể nghiệm phân tích, một cách bình giả…) mà qua thực tiễn dạy học và
nghiên cứu cuốn sách cho rằng hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đọc – hiểu văn
bản. Cụ thể mỗi bài thực hành gồm các phần, mục sau:
Tri thức đọc – hiểu (về tác giả, về tác phẩm, một số khái niệm cần lưu
ý, gợi ý cách đọc.
Yêu cầu đọc – hiểu (mục tiêu đọc – hiểu, tiến trình đọc – hiểu).
Tuy nhiên, cuốn sách cũng lưu ý tuỳ theo đặc trưng thể loại hoặc
phương thức biểu đạt chính của văn bản và một số bài thực hành có thể điều
chỉnh nhất định cho hợp lí và hiệu quả.
Hiện nay, vấn đề đọc – hiểu xuất hiện rất nhiều trên các sách, báo,
phương tiện thông tin đại chúng; trên các tạp chí chuyên ngành: báo văn học
tuổi trẻ; báo giáo dục và thời đại; báo văn nghệ… đã được đưa vào vận dụng

cho HS từ bậc THCS nhằm phát huy tính tích cực, ham học hỏi của HS khi
tiếp cận với văn bản.

Đinh Thị Tuyền

10

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong cuốn “Thi pháp hiện đại” do Đỗ Đức Hiểu đã tập hợp từ hai
cuốn “Đổi mới phê bình văn học” (1994) và đổi mới đọc và bình văn (1999).
Trong đó nội dung trọng tâm là thi pháp truyện và giảng dạy truyện. Nhưng
công trình này mới dừng lại và thành công trên bình diện nghiên cứu, phê
bình, chưa đề cập đến phương pháp giảng dạy.
Cuốn “Tìm hiểu tác giả, tác phẩm văn học” do Nguyễn Trọng Hoàn
(chủ biên) NXB GD. 2006. Cũng đề cập đến việc đọc – hiểu tác phẩm theo
đặc trưng thể loại, nâng cao năng lực tự học cho HS. Trang bị cho HS những
đặc trưng cơ bản của từng thể loại, từ đó giúp HS có kĩ năng nhận biết và cảm
thụ, chiếm lĩnh tác phẩm.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đã đóng góp rất lớn cả về lí luận
và thực tiễn cho hoạt động đọc – hiểu. Với đề tài này tác giả khoá luận một
mặt kế thừa những công trình đi trước, mặt khác vận dụng sáng tạo những kết
quả đó, để khoá luận thực sự trở thành một công trình đắc lực, một tài liệu
tham khảo khi dạy học Ngữ Văn đặc biệt là văn học Việt Nam sau 1975.
3. Đối tượng nghiên cứu

Trên cơ sở lí thuyết tiếp nhận văn học và cơ sở lí luận về thể loại tự sự
Việt Nam hiện đại sau 1975, từ đó ứng dụng vào dạy học đọc – hiểu tác phẩm
tự sự hiện đại Việt Nam sau 1975 theo đặc trưng thể loại. Qua đó, hướng dẫn
HS đọc – hiểu những tác phẩm sau 1975 trong nhà trường THPT cụ thể là lớp 12.
4. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận tiến tới xác lập các hoạt động, các bước dạy học tác phẩm tự
sự hiện đại Việt Nam sau 1975 theo phương pháp đọc – hiểu.
Với đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975
trong nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại” người nghiên cứu hi vọng
góp phần nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm tự sự theo phương pháp đọc
– hiểu nói chung và tác phẩm tự sự sau 1975 nói riêng.

Đinh Thị Tuyền

11

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận cần tiến hành những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu lí thuyết tiếp nhận và đọc hiểu tác phẩm văn học.
Xác lập cách đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975
trong chương trình Ngữ Văn THPT theo đặc trưng thể loại thông qua một số truyện
ngắn ở SGK Ngữ Văn lớp 12.
Thể nghiệm giáo án thực nghiệm.

6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khoanh vùng giới hạn vì vậy tập trung triển khai vào việc xác
định cách đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975 trong
chương trình THPT, cụ thể là lớp 12. Cả tiết học chính và tiết học thêm theo
đặc trưng thể loại tự sự. Điều đó được minh chứng cụ thể qua hai giáo án:
1) Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
2) Một người Hà Nội (Nguyễn Khải).
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp khái quát lí luận.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
7.2. Phương pháp thực nghiệm
8. Đóng góp khóa luận
Đề tài “Đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975 trong
nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại” góp phần bổ sung, hoàn thiện, cụ
thể hoá việc dạy học tác phẩm văn chương theo phương pháp đọc – hiểu,
cũng như góp phần nâng cao chất lượng giờ học đó.
9. Bô cục khoá luận
Gồm 3 phần:
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung gồm:
+ Chương 1: Những vấn đề chung

Đinh Thị Tuyền

12

Lớp:K32D - Ngữ Văn



Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

+ Chương 2: Đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975.
+ Chương 3: Giáo án thực nghiệm.
- Phần kết luận.

Đinh Thị Tuyền

13

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Tiếp nhận văn học
Tác phẩm văn học là “đứa con tinh thần của nhà văn”. Quá trình sáng
tạo của nhà văn trải qua nhiều giai đoạn: từ ý đồ ban đầu của nhà văn cho tới
khi bạn đọc tiếp nhận. Như vậy, tiếp nhận văn học đóng vai trò rất quan trọng
để tạo ra sự thành công của một tác phẩm. Nhưng để tìm ra hướng đi đúng
đắn và phù hợp nhất người đọc, người học cần trang bị cho mình những tri

thức cơ bản về tiếp nhận để từ đó cảm thụ được giá trị của tác phẩm mà nhà
văn gửi gắm và bài học cho chính mình.
1.1.1.1. Khái niệm tiếp nhận tác phẩm văn học
Có rất nhiều ý kiến đề cập đến vấn đề tiếp nhận.
Theo từ điển tiếng Việt: NXB Đà Nẵng 2006 [tr.988].
“Tiếp nhận” là đón nhận cái từ nơi khác, người khác chuyển đến cho
mình.
Trong cuốn giáo trình “Lí luận văn học” do Phương Lựu (chủ biên).
NXB GD.2005. tr221 cho rằng: Sự tiếp nhận văn học là chuyển nội dung văn
bản thành một thế giới tinh thần, biến tác phẩm thành một thế giới tinh thần,
biến tác phẩm thành yếu tố của đời sống ý thức xã hội.
Trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn chương” GS. Nguyễn Thanh Hùng
cho rằng: Tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem lại cho người đọc sự
hưởng thụ và hứng thú trí tuệ hướng vào hoạt động để củng cố và phát triển
một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm
xúc của con người trước đời sống.

Đinh Thị Tuyền

14

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Các tác giả của cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi [tr.235] cho rằng: Tiếp nhận tác phẩm văn học là

hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt
đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, tình cảm,
quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của tác giả cho đến sản phẩm sau khi đọc:
cách hiểu; ấn tượng trong khi nhớ; ảnh hưởng trong hành động sáng tạo; bản
dịch chuyển thể…
Như vậy, có rất nhiều quan niệm đề cập đến vấn đề tiếp nhận tác phẩm
văn học: Nhưng thực chất tiếp nhận văn học chính là một cuộc giao tiếp; đối
thoại tự do giữa người đọc và tác giả thông qua tác phẩm. Vì vậy,để chiếm
lĩnh được giá trị thẩm mĩ của tác phẩm người đọc phải hoà mình vào tác
phẩm, rung động trước nó, đi lại bước đi của nhà văn, lắng nghe, thưởng thức
cái hay cái đẹp; cần huy động kinh nghiệm sống, vốn hiểu biết, trình độ để
khám phá ý nghĩa của từng chữ vốn khô khan thành một thực thể có hồn sinh
động. Dạy đọc – hiểu tác phẩm văn học thì vấn đề tiếp nhận là một khâu rất
quan trọng để tạo nên hiệu quả của giờ học; đem lại hứng thú và kĩ năng
chiếm lĩnh tác phẩm cho HS.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động tiếp nhận văn học
Để tạo nên sản phẩm văn học chịu sự chi phối của các yếu tố: thời đại;
nhà văn; tác phẩm; bạn đọc. Trong đó nhà văn và bạn đọc là yếu tố quan trọng
hàng đầu. Tác phẩm văn học chỉ ra đời khi có sự sáng tạo của nhà văn; mặt
khác tác phẩm văn học chỉ được gọi là tác phẩm khi được bạn đọc tiếp nhận.
Như vậy nhà văn và bạn đọc chi phối rất lớn đến sự thành công của tác phẩm.
a) Con đường làm ra tác phẩm của nhà văn.
Trong quá trình tạo ra tác phẩm thì nhà văn đóng vai trò quan trọng
nhất. Mục đích sáng tác của nhà văn là biến đối tượng khách quan thành đối
tượng chủ quan nhằm thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của xã hội. Quá trình biến

Đinh Thị Tuyền

15


Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đổi đó gọi là quá trình sáng tác. Để làm được điều này đòi hỏi nhà văn phải có
những năng lực và phẩm chất quan trọng. Năng lực và phẩm chất đòi hỏi nhà
văn phải có: một trực giác nhạy bén; tâm hồn giàu cảm xúc. Luôn mở rộng để
đón nhận những âm vang của cuộc đời bằng khả năng quan sát tinh tế và vốn
tích luỹ của cuộc sống.
Năng khiếu bẩm sinh là yếu tố không thể thiếu để hình thành tài năng
văn học. Nhưng nhà văn phải biết trau dồi, rèn luyện về mọi mặt tư tưởng;
tình cảm; bản lĩnh; nhân cách; vốn văn hoá… kết hợp cả năng khiếu văn
chương và năng lực cảm thụ nhà văn sẽ sáng tạo ra tác phẩm có giá trị.
Trong thực tế diễn ra rất đa dạng, sự đa dạng này phụ thuộc vào đặc
điểm tâm lí, cá tính của nhà văn, đặc điểm thể loại mà nhà văn sáng tác. Trên
những nét chung nhất của quá trình sáng tác cũng phải tuân thủ theo các bước
cơ bản sau: Hình thành ý đồ sáng tác -> giai đoạn chuẩn bị -> giai đoạn viết > giai đoạn sửa chữa. Có thể nói rằng con đường làm ra tác phẩm của nhà văn
xét trên bình diện tiếp nhận là tương đối gian khổ để tạo ra nhịp cầu nối kết
giữa tác giả với đời sống và bạn đọc. Thông qua tác phẩm người đọc có thể
hiểu được những điều mà nhà văn muốn gửi gắm.
b) Sự tiếp nhận của bạn đọc
Một tác phẩm chỉ thành công khi được bạn đọc và công chúng đón
nhận.
Tiếp nhận văn học là hoạt động “tiêu dùng” thưởng thức, phê bình văn
học của người đọc thuộc nhiều loại hình, nhiều trình độ khác nhau. Tiếp nhận
văn học là quá trình hoàn thành quá trình sáng tác – giao tế của văn học.
Người đọc là người tiếp nhận văn bản nghệ thuật của nhà văn và cấp

cho nó một số phận lịch sử. Không có người đọc văn bản chỉ tồn tại ở khía
cạnh vật thể, không thể tham gia vào đời sống ý thức xã hội như một nhân tố
tích cực.

Đinh Thị Tuyền

16

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Sự tiếp nhận tác phẩm văn học phụ thuộc vào đặc điểm của bạn đọc. Về
mặt khách quan sự tiếp nhận của bạn đọc phụ thuộc vào đặc điểm nghệ thuật
của tác phẩm (thể loại tác phẩm) phương pháp nghệ thuật của tác giả. Về mặt
chủ quan sự tiếp nhận của bạn đọc phụ thuộc vào chính các đặc điểm cá nhân
của bạn đọc: nỗi niềm của cá nhân khi đọc tác phẩm, trở thành cá tính, trình
độ văn hoá, thời đại đang sống.
Con đường tiếp nhận của bạn đọc: để chiếm lĩnh tác phẩm:
Tác phẩm văn học ra đời là kết quả của quá trình tư duy nghệ thuật,
kinh nghiệm sống, vốn hiểu biết về cuộc sống của nghệ sĩ. Qua đó nhà văn
khái quát đời sống để người đọc nắm bắt một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
Vì thế, tác phẩm văn học chỉ trở thành một sinh thể có hồn, sống động khi có
sự đón nhận của người đọc với tất cả trái tim, tâm hồn, năng lực…
Quá trình tiếp nhận bất kì một tác phẩm văn học nào cũng phải tuân thủ
theo những bước nhất định, tiếp nhận tác phẩm tự sự không nằm ngoài sự quy
định đó; quá trình tiếp nhận tác phẩm tự sự trải qua những bước sau:

* Trước hết: tiếp nhận đòi hỏi người đọc phải biết tri giác; cảm thụ tác
phẩm qua việc nắm vững và hiểu biết về ngôn ngữ, nhân vật, cốt truyện… để
có thể cảm nhận được hình tượng một cách trọn vẹn trong mối liên hệ với các
yếu tố khác. Thực hiện được yêu cầu này là người đọc đã tiến hành xong hoạt
động đọc, đây là sự khởi đầu của quá trình tiếp nhận tác phẩm. Dù là đọc văn
bản theo cách nào đi nữa thì cuối cùng người đọc cần nắm được tác phẩm. Ở
mỗi thể loại có một cách đọc riêng: trữ tình cần chú ý tới cảm xúc, nhịp
điệu…. Thể loại tự sự thì chú ý tới cốt truyện, nhân vật, người kể truyện; Kịch
chú ý tới xung đột kịch. Vì vậy, cần có cách đọc phù hợp với từng thể loại để
tiếp cận tác phẩm đạt được hiệu quả cao nhất.
* Tiếp theo là hoạt động phân tích

Đinh Thị Tuyền

17

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình
thức. Phân tích tác phẩm văn học là thao tác chia nhỏ, tháo gỡ tất cả những
yếu tố có mối quan hệ vốn không thể tách rời nhau trong một chỉnh thể nghệ
thuật, sau đó lắm ghép, tổng hợp lại. Qua phân tích người đọc phát hiện ra ý
đồ của nghệ sĩ thông qua khai thác hình tượng được tác giả kết tinh tư tưởng,
tình cảm của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích người đọc cần xác
định trọng tâm từ đó thâm nhập và khái quát nội dung tư tưởng mà tác giả gửi

gắm.
* Hoạt động cắt nghĩa:
Đây là hoạt động quan trọng của quá trình tiếp nhận. Cắt nghĩa là để
làm rõ ý nghĩa của tác phẩm, không chỉ dừng lại ở ý nghĩa tường minh của tác
phẩm mà phải cắt được nghĩa hình tượng của tác phẩm để từ cái được phản
ánh nhận thức được biểu hiện trong tác phẩm. Thông qua hoạt động cắt nghĩa
nhằm đưa hình tượng trong tác phẩm vào hiện thực đời sống, qua đó người
đọc với những hiểu biết, kinh nghiệm, trình độ, tình cảm… của mình tìm ra
nội dung, ý nghĩa, dụng ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm. Tạo ra sự đa nghĩa
của tác phẩm vì vốn hiểu biết, quan niệm của người đọc là không hoàn toàn
giống nhau.
* Hoạt động bình giá:
Đây là bước cuối cùng của hoạt động tiếp nhận. Quá trình này dựa vào
ba hoạt động trên: hoạt động đọc, phân tích, cắt nghĩa. Hoạt động này tạo điều
kiện bộc lộ cái nhìn chủ quan của mỗi cá nhân người đọc: có thể đồng tình,
phản đối, khen, chê… vẫn có thể chấp nhận được. Tuy nhiên cần tránh khỏi
thái độ phiếm diện, chủ quan, bảo thủ… Vì tác phẩm văn học được tạo ra là
quá trình gian khổ, đặc biệt với những tác phẩm lớn chứa đựng nội dung, tư
tưởng mang tính thời đại, nhân loại nên người đọc không thể đánh giá tuỳ
tiện, theo ngẫu hứng được.

Đinh Thị Tuyền

18

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Như vậy, để chiếm lĩnh tác phẩm văn học người đọc phải huy động
những hiểu biết của mình, tuân thủ những thao tác tiếp nhận để chiếm lĩnh tác
phẩm một cách toàn diện nhất.
c) Những khó khăn khi tiếp nhận tác phẩm văn học
Văn học luôn gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nhất định của từng thời
đại. Vì vậy khi tiếp nhận tác phẩm văn học cũng gặp phải những khó khăn vì
thời đại của tác phẩm mà nghệ sĩ sáng tạo ra với thời đại mà người đọc tiếp
nhận là khác nhau: đòi hỏi người đọc phải có vốn hiểu biết về lịch sử, về văn
hoá, về tư tưởng, quan niệm… của hoàn cảnh mà tác phẩm ra đời, từ đó để
hiểu giá trị tư tưởng nhà văn gửi gắm.
Một khó khăn không nhỏ khi tiếp nhận tác phẩm văn học là sự khác
biệt về phong cách thời đại: như thời trung đại văn chương bị chi phối nhiều
về quan niệm trung quân ái quốc, văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí; thơ mới giai
đoạn (1930 – 1945) thì cái tôi cá nhân được bộc lộ…; sự khác biệt về ngôn
ngữ: trung đại chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán… Bên cạnh đó ngôn ngữ địa
phương, các điển tích, điển cổ… làm người đọc gặp phải rất nhiều khó khăn
khi tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Đặc biệt thời đại công nghệ thông tin hiện nay, không có nhiều thời
gian cho việc cảm thụ tác phẩm văn học: thị hiếu về tiểu thuyết, kể cả truyện
ngắn giảm sút nghiêm trọng.
Với đề tài “Đọc – hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975
trong nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại”, tác giả khoá luận mong
muốn rút ngắn những khoảng cách, những khó khăn thông qua phương pháp
đọc – hiểu theo đặc trưng thể loại.
1.1.2. Vấn đề thể loại và quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học
1.1.2.1 Khái niệm thể loại
Theo từ điển Tiếng Việt:


Đinh Thị Tuyền

19

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Thể loại là hình thức sáng tác văn học, nghệ thuật, phân chia theo
phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn ngữ.
Vậy thể loại văn học được hiểu như thế nào?
Thể loại là một phạm trù của lí luận văn học, chỉ hình thức tồn tại cụ
thể của tác phẩm văn học với những đặc điểm lặp đi lặp lại tương đối ổn định
trong tiến trình lịch sử về các mặt: hình tượng, ngôn ngữ, bố cục, thể thức,
dung lượng. Đây là một khái niệm gộp bao gồm hai khái niệm là “loại” và
“thể”.
Loại: Theo từ điển Hán Việt “loại” được hiểu là “loại hình”. Đó là
phương thức mà người nghệ sĩ sử dụng để nhận thức, khám phá đời sống
khách quan, để tái hiện ra đời sống và sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật.
Thông qua hình tượng nghệ thuật để thể hiện tư tưởng, tình cảm. Đồng thời
loại hình cũng quy định việc giao tiếp với tác phẩm văn học (nhà văn).
Khái niệm “loại” xuất hiện ở phương Tây từ thời Hi Lạp cổ đại, người
đề xướng đầu tiên là Arixtôt. Theo ông loại hình có ba loại cơ bản, tuy ngày
nay có nhiều cách phân chia khác nhau nhưng phần lớn đồng tính với quan
điểm của Arixtôt. Theo ông mỗi loại có những đặc trưng riêng: Tự sự là tác
phẩm văn học sử dụng phương thức kể để tái hiện đời sống; trữ tình thiên về
bày tỏ cảm xúc; kịch tập trung thể hiện thông qua xung đột, hành động.

Loại hình phản ánh tính quy luật của văn học (tính ổn định) vì mọi tác
phẩm đều thuộc một loại nào đó. Đồng thời chỉ ra tính cá biệt của mỗi hình
tượng văn học thể hiện ở những phương diện sau: mang đặc điểm riêng của
một nền văn học; mang đặc điểm riêng của các trào lưu văn học; mang đặc điểm
riêng cá tính của nhà văn.
Thể (thể tài) là phương thức tổ chức hình thức thiên về ngôn ngữ của
tác phẩm. Khái niệm “thể” so với “loại” thì nhỏ hơn, tuy nhiên sự biến động
và số lượng cũng nhiều hơn. Thể tài không chỉ có ba mà nó vô cùng phong

Đinh Thị Tuyền

20

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phú. Ví dụ trong thể loại tự sự có nhiều thể như: Truyện ngắn, truyện vừa,
tiểu thuyết, phóng sự… Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Loại mang tính
ổn định và bền vững, còn thể thường xuyên vận động và biến đổi.
“Thể” và “loại” là hai khái niệm tồn tại độc lập nhưng có mối quan
hệchặt chẽ với nhau: “loại” là khái niệm lớn mang tính phương thức, “thể” là
khái niệm nằm trong “loại”. Vì vậy, người ta thường gộp thành khái niệm kép
“thể loại”.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” [tr.299] thể loại được hiểu là: dạng
thức của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong
quá trình phát triển của lịch sử văn học, thể hiện sự giống nhau về cách thức

tổ chức tác phẩm; về đặc điểm của các loại hình tượng đời sống được miêu tả
và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn với các hiện tượng đời sống ấy.
Như vậy, thể loại là hệ thống chỉnh thể của tác phẩm, nó chỉ ra quy luật
loại hình của tác phẩm, trong đó một nội dung nhất định tương ứng với một
hình thức nhất định. Nó quy định phương thức nhận thức đời sống, quy định
phương thức biểu hiện, quy định phương thức giao tiếp. Vì vậy, khi in tác
phẩm văn học tên tác phẩm và tên thể loại luôn đi liền nhau.
1.1.2.2. Vai trò của thể loại đối với quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học
Thể loại – hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học có vai trò quan
trọng với tiếp nhận tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn học bao giờ cũng là sự thống nhất giữa nội dung (đề tài,
chủ đề, tư tưởng) và hình thức (kết cấu, biện pháp nghệ thuật, lời văn nghệ
thuật). Tuỳ thuộc vào thể loại mà tác phẩm biểu hiện quan hệ thẩm mĩ khác
nhau với hình thức.
Thể loại tạo cho tác phẩm văn học một kênh giao tiếp với người đọc (tự
sự khác với trữ tình; khác với kịch). Vì vậy thông tin về thể loại tác phẩm văn
học rất cần thiết đối với quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học.

Đinh Thị Tuyền

21

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Thể loại tác phẩm văn học là một loại hình của sáng tác và tiếp nhận

văn học, hình thành trên cơ sở của sự lặp đi lặp lại có tính quy luật của các
yếu tố trong tác phẩm, là căn cứ để phân loại tác phẩm. Tính quy luật như một
nguyên tắc để xây dựng thế giới nghệ thuật. Khi nghiên cứu có thể nhận ra sự
kế thừa với giai đoạn văn học trước và vai trò của nó với việc tiếp nhận.
Thể loại văn học thuộc phạm trù lí luận văn học, thuộc khoa học của
văn chương. Lí luận văn học ảnh hưởng trực tiếp đến việc dạy và học trong
nhà trường phổ thông. Tiếp nhận văn học là vấn đề liên quan đến hoạt động
dạy và học – là cơ sở của phương pháp dạy và học thuộc khoa học giáo dục.
Thể loại có tác động lớn đến tiếp nhận văn học, vì tác giả sáng tác theo thể
loại; người dạy dạy theo đặc trưng thể loại, người đọc tiếp nhận theo thể loại.
Vì vậy phương pháp sáng tác của nhà văn quy định đến cách thức cảm thụ của
người học, người đọc.
Để tiếp nhận tác phẩm văn học theo quy luật thẩm mĩ, người tiếp nhận
phải biết tác phẩm đó viết cái gì? viết bằng cách nào? viết như thế nào? Ngoài
ra muốn hiểu sâu tác phẩm phải khám phá và tìm ra con đường nhà văn đã đi.
Nắm được đặc trưng về thể loại để chiếm lĩnh tác phẩm một cách hiệu quả nhất.
1.1.3. Đọc – hiểu tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại – một con
đường tiếp nhận tác phẩm văn học
Đọc – hiểu là hoạt động diễn ra giữa hai thành tố tác động qua lại lẫn
nhau:
Người đọc (chủ thể): thông qua văn bản bằng cảm xúc của mình; khả
năng tri giác, chuyển ngôn ngữ thành những thông tin thẩm mĩ đầy đủ nhất
của hình tượng nghệ thuật.
Văn bản (đối tượng) từ hệ thống tín hiệu là ngôn ngữ trở thành đối
tượng của người đọc, tạo ra sự đồng cảm với tác giả và suy nghĩ của mình. Ví
dụ: thông qua bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu) người đọc cảm nhận được

Đinh Thị Tuyền

22


Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

niềm khao khát sống mãnh liệt, sống hết mình và quan niệm về thời gian, tuổi
trẻ, hạnh phúc của nhà thơ. Đồng thời, rút ra cho mình bài học hãy quí trọng
từng giây, từng phút của đời mình nhất là những tháng năm của tuổi trẻ;
Hay trong “Mùa lá rụng trong vườn” (Ma Văn Kháng) thông qua nhân
vật Hoài và ông Bằng trong chiều 30 tết, người đọc thấy được sự quan sát tinh
tế và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động thay đổi trong tư
tưởng tâm lí con người Việt Nam trong giai đoạn xã hội chuyển mình. Qua đó
người đọc càng trân trọng những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Thông qua đọc, người đọc phát hiện, khám phá được những diễn biến,
sự kiện, xung đột trong tác phẩm, qua đó nắm được nội dung, tư tưởng, dụng
ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm.
Có rất nhiều cách khám phá tác phẩm văn học: nghe kể chuyện đọc,
xem phim; nghe đài… nhưng đọc – hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng
thể loại là một trong những phương pháp hữu hiệu để người học, người đọc
khai thác và chiếm lĩnh tác phẩm. Đồng thời phù hợp với chương trình đổi
mới hiện nay: dạy phần văn theo phương pháp đọc – hiểu là nhiệm vụ trọng
tâm.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vị trí- vai trò của văn học Việt Nam hiện đại sau 1975 trong
tiến trình phát triển văn học Việt Nam
Nền văn học Việt Nam có thể chia ra làm hai giai đoạn lớn:
- Văn học trung đại: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.

- Văn học hiện đại: Từ đầu thế kỉ XX đến hết thế kỉ XX, tiếp nối thế kỉ
XXI.
Tìm hiểu, nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại sau 1975 không thể
tách rời sự vận động biến đổi tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Bởi
một đặc trưng cơ bản của phương pháp sáng tác không thể thiếu đó là tính kế

Đinh Thị Tuyền

23

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

thừa thành tựu của các giai đoạn văn học trước nó. Theo cuốn: “Lịch sử văn
học Việt Nam” tập 3 [tr.39]. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) thì văn học Việt
Nam hiện đại có thể chia làm 5 thời kì nhỏ gắn với hoàn cảnh lịch sử của dân
tộc:
+ Từ 1945 -> 1946: Văn học trong những ngày hội lớn của cách mạng.
+ Từ 1946 -> 1954: Văn học thời kì kháng chiến chống Pháp.
+ Từ 1954 -> 1964: Văn học thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược : Xây
dựng CNXH ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
+ Từ 1964 -> 1975: Văn học trong cao trào kháng chiến chống Mĩ.
+ Văn học sau 1975: Văn học hậu chiến và đổi mới.
Như vậy, văn học bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử đất nước, bám sát
hiện thực đời sống. Lịch sử biến đổi thì văn học thay đổi để phục vụ và đáp

ứng nhu cầu đời sống xã hội. Văn học sau 1975 không nằm ngoại lệ đó.
1.2.2. Vị trí – vai trò của văn học Việt Nam hiện đại sau 1975 trong
nhà trường phổ thông
Trước năm 2007 văn học Việt Nam hiện đại sau 1975 chưa được đưa
vào giảng dạy đại trà, mà chỉ mới được đưa vào giảng dạy thí điểm. Vì vậy,
văn học sau 1975 chưa có được vị trí cho mình. Nhưng văn học luôn gắn với
hoàn cảnh lịch sử của từng thời kì, gắn liền với sự vận động của xã hội. Vì thế
để văn học sau 1975 hoà vào tiến trình phát triển của nền văn học dân tộc,
trên tinh thần đổi mới nội dung và chương trình để thấy được bước đi toàn
diện của nền văn học, vị trí của văn học sau 1975, từ năm học 2007 – 2008
văn học sau 1975 chính thức được đưa vào giảng dạy đại trà ban cơ bản và
ban nâng cao. Vì thế hàng loạt các tác phẩm sau 1975 còn rất mới, xa lạ đối
với HS được đưa vào giảng dạy trong nhà trường thay thế cho hàng loạt các
tác phẩm giai đoạn trước đó. Cụ thể có thể thấy những tác phẩm sau 1975

Đinh Thị Tuyền

24

Lớp:K32D - Ngữ Văn


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

được đưa vào chương trình SGK Ngữ Văn lớp 12 bao gồm những tác phẩm
thuộc nhiều thể loại khác nhau.
Truyện ngắn: “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu); “Một
người Hà Nội” (Nguyễn Khải); Tiểu thuyết: trích đoạn “Mùa lá rụng trong

vườn” (Ma Văn Kháng); Thơ: Đàn ghi ta của Lor-Ca (Thanh Thảo); Đò Lèn
(Nguyễn Duy); Kịch: “Hồn Trương Ba da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ).
Có thể thấy được văn học Việt Nam hiện đại sau 1975 được đưa vào
giảng dạy thuộc đầy đủ các thể loại: tự sự, trữ tình, kịch, với nội dung, tư
tưởng có nhiều điều mới lạ tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn HS. Vì những tác phẩm
này đề cập đến những vấn đề hiện thực cuộc sống gần gũi với thời đại mà các
em đang sống. Đặc biệt thể loại kịch lần đầu tiên đưa vào chương trình đã tạo
ra động lực rất lớn cho HS tìm tòi và khám phá những đặc trưng của thể loại
mới, là cơ sở để khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm mới.
Cùng với dòng chảy của các giai đoạn văn học trước đó, văn học Việt
Nam hiện đại sau 1975 đã và đang tìm được chỗ đứng và ngày càng khẳng
định được vị trí của mình trong tiến trình phát triển của nền văn học Việt
Nam. Với những lợi thế về phong cách, phương pháp sáng tác… kế thừa từ
giai đoạn văn học trước đó; đặc biệt là với hiện thực và các điều kiện kinh tế
xã hội phát triển; nhu cầu của bạn đọc, đã tạo điều kiện rất lớn cho các nhà
văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, những số phận đời tư, những mảnh
đời bé nhỏ không ở đâu xa mà ngay trên mặt đất, ở xung quanh chúng ta. Vì
thế văn học sau 1975 đã trở thành tâm điểm; sự quan tâm lớn đối với các nhà
giáo dục; đối với HS.
Với khả năng phản ánh hiện thực sâu sắc, toàn diện văn học Việt Nam
hiện đại sau 1975 tác động và có vai trò rất lớn đối với hoạt động tiếp nhận và
quá trình nhận thức của HS, ngày càng khẳng định được vị trí của mình không

Đinh Thị Tuyền

25

Lớp:K32D - Ngữ Văn



×