Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận văn học hiện đại ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.2 KB, 83 trang )

trường đại học sư phạm hà nội 2
khoa ngữ văn
**********

Bùi Thị Phương

Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận
văn học hiện đại ở trường
Trung học phổ thông

khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn

Hà nội 05-2010


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp với đề tài: "Dạy đọc hiểu văn bản
nghị luận văn học hiện đại ở trường Trung học phổ thông", tác giả khóa luận
đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và chỉ bảo tận
tình của các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn và TS. Bùi
Minh Đức - người hướng dẫn trực tiếp.

Tác giả khoá luận xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
trọng tới các thầy cô.

Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2010

Tác giả khoá luận
Bùi Thị Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong khoá luận là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nào.

Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2010
Tác giả khoá luận
Bùi Thị Phương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS.TS:

Giáo sư tiến sĩ

PGS.TS:

Phó giáo sư tiến sĩ

Th.S:

Thạc sĩ

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh


VB:

Văn bản

VBNL:

Văn bản nghị luận

VBNLHĐ:

Văn bản nghị luận hiện đại

VBNLVHHĐ:

Văn bản nghị luận văn học hiện đại

TPVH:

Tác phẩm văn học

THCS:

Trung học cơ sở

PTTH:

Phổ thông trung học

VD:


Ví dụ

CH:

Câu hỏi

DKTL:

Dự kiến trả lời

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

PBVH:

Phê bình văn học


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong đời sống muốn người khác tin và làm theo bất cứ một vấn đề
nào đó thì chúng ta đều phải sử dụng những lí lẽ và dẫn chứng cùng các lập
luận logic để tạo sức thuyết phục. Làm như thế tức là chúng ta đang sản sinh
ra VBNL. Có thể nói, VBNL là một trong những loại VB thông dụng, phổ

biến trong đời sống xã hội nói chung và mỗi cá nhân nói riêng. Vì vậy, yêu
cầu được đặt ra là phải nắm vững khái niệm cũng như đặc trưng của VBNL
để vận dụng đạt hiệu quả cao trong giao tiếp.
1.2. Khoa học dạy văn đã có các công trình nghiên cứu về VBNL, về
vấn đề đọc hiểu VBVH nhưng vẫn chưa đưa ra được quan điểm thống nhất về
đọc hiểu và quy trình dạy đọc hiểu VBVH đặc biệt VBNLVHHĐ. Đây là lí do
người viết mong muốn tiếp tục nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện quy
trình dạy đọc hiểu đó.
1.3. Trong chương trình SGK Ngữ văn THPT đổi mới lần này, số tiết
dành cho VBNL, đặc biệt là VBNLVHHĐ chiếm một số lượng đáng kể
(Bảng thống kê ở phần phụ lục). Trong khi đó, thực tiễn dạy đọc hiểu VBVH
đặc biệt là VBNLVHHĐ nhìn chung vẫn diễn ra một cách khô khan, cứng
nhắc, không thu hút, khơi dậy được sự hứng thú cũng như tính tích cực, sáng
tạo của HS. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nâng cao chất lượng các tiết học
VBNL (đặc biệt là VBNLVHHĐ) đặt ra cấp thiết. Đồng nghĩa với nó, chúng
ta cần quan tâm, chú trọng hơn nữa tới quy trình dạy đọc hiểu VBNL nói
chung và VBNLVHHĐ nói riêng.
1.4. Chương trình SGK Ngữ văn mới được biên soạn theo trục thể loại.
Cùng với nó là quan niệm mới mẻ về vấn đề dạy đọc hiểu văn học. Chính
thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới về phương pháp dạy đọc hiểu


VBNL nói chung và VBNLVHHĐ nói riêng. Do vậy, việc xây dựng một quy
trình đọc hiểu về VBNL đặc biệt là VBNLVHHĐ theo hướng đổi mới là cần
thiết.
1.5. Là người GV Ngữ văn trong tương lai nên bản thân người viết
cũng mong muốn có một vốn kiến thức lí luận cũng như kĩ năng nhất định,
thiết thực để phục vụ cho giảng dạy VBNL (đặc biệt là VBNLVHHĐ) sau
này.
Vì tất cả các lí do trên, người viết quyết định chọn đề tài khoá luận tốt

nghiệp là: Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận văn học hiện đại ở trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề về văn bản nghị luận
VBNL là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu từ lâu. Trong
cuốn Một số vấn đề nghị luận ở cấp 2 - tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
chu kì 1992 - 1996, các tác giả đã đưa ra những đặc trưng cơ bản của VBNL
cùng với các yêu cầu về chất lượng của VBNL. Đồng thời các tác giả cũng đã
đề cập đến một số kiểu bài nghị luận ở cấp 2 cũng như những tiềm năng đào
tạo và giáo dục nhân cách cho HS của VBNL.
Các tác giả Nguyễn Trí, Giang Khắc Bình, Nguyễn Trọng Hoàn trong
cuốn Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn THCS cũng đã chỉ ra các
nét khái quát chung về VBNL. Điều đáng lưu ý các tác giả trong cuốn sách
này còn tuyển chọn đưa vào những bài văn nghị luận xuất sắc, tiêu biểu,
chuẩn mực bao gồm cả nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
Có thể nói, với công trình trên, việc nghiên cứu VBNL đã có thành tựu
nhất định. Nó là cơ sở xây dựng lí thuyết dạy VBNL ở trường THPT.
2.2. Vấn đề đọc hiểu
Vấn đề đọc hiểu là vấn đề thời sự được rất nhiều người quan tâm và đã
có không ít những công trình nghiên cứu về vấn đề này.


GS.TS Trần Đình Sử là người đã có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề
đọc hiểu. Trong bài viết Dạy học văn là dạy học sinh đọc hiểu văn bản, tác
giả đã nêu ra tầm quan trọng của việc dạy đọc hiểu VB trong trường phổ
thông đồng thời đưa ra quan niệm về đọc hiểu và khẳng định đọc hiểu diễn ra
theo hai bước: hiểu thông báo và hiểu ý nghĩa của VB. Còn trong bài viết Đọc
hiểu là một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay,
tác giả đã khẳng định đọc hiểu là một khâu đột phá trong nội dung cũng như
phương pháp của quá trình đọc.
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong bài viết Đọc hiểu văn chương đã

cho rằng đọc hiểu văn chương là hoạt động thu nhận kiến thức, bản chất của
nó là đọc để tạo ra nguồn nhận thức và nhận thức.
PGS.TS Nguyễn Thái Hoà trong bài viết Vấn đề đọc hiểu và dạy đọc
hiểu trên Diễn đàn văn học đã đưa ra quan niệm đọc hiểu là phương pháp dạy
học đồng thời tác giả còn đề xuất phương pháp dạy đọc hiểu và nội dung dạy
đọc hiểu.
TS.Nguyễn Trọng Hoàn với bài viết Đọc hiểu văn bản Ngữ văn ở
THCS đã đưa ra quan điểm về đọc hiểu trong dạy học tích hợp Ngữ văn ở
THCS. Theo quan điểm này, tác giả bài viết cho rằng đọc hiểu VB là hoạt
động có tính chất đầu mối của một quy trình dạy học tích hợp Ngữ văn hướng
tới sự phát triển đồng bộ.
Có thể nói, với các bài viết như vậy, các nhà nghiên cứu đã đề xuất
được các quan niệm khác nhau về đọc hiểu và khẳng định tầm quan trọng của
đọc hiểu trong việc dạy học hiện nay. Đó là cơ sở để người viết xây dựng quy
trình dạy đọc hiểu VBNL nói chung và VBNLVHHĐ nói riêng.
2.3. Vấn đề dạy văn bản nghị luận ở trường Trung học phổ thông
Trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, tác giả
Trần Thanh Đạm đã đưa ra khái niệm và các đặc trưng của văn chính luận


đồng thời đề xuất các yêu cầu về nội dung bài giảng văn chính luận. Bên cạnh
đó, tác giả còn đưa ra một số điểm lưu ý khi giảng bài nghị luận về văn học.
Đó là khi dạy bài nghị luận văn học không chỉ cung cấp kiến thức mà còn
phải bồi dưỡng khả năng cảm thụ văn học và rèn luyện kĩ năng làm bài văn
nghị luận văn học cho HS.
Th.S Trần Đình Chung trong công trình nghiên cứu Dạy văn bản Ngữ
văn theo phương thức biểu đạt đã xây dựng một chương riêng về phương
pháp dạy học VBNL trong SGK Ngữ văn THCS. Trong chương này, Th.S
Trần Đình Chung đã đưa ra các đặc trưng của VBNL đồng thời định hướng
việc dạy các VBNL dân gian, trung đại, hiện đại. Đặc biệt, Th.S Trần Đình

Chung đã chỉ rõ VBNLHĐ có các đặc trưng riêng. Trên cơ sở các đặc trưng
đó, tác giả cũng đã đề xuất phương pháp dạy học tương ứng. Cuối cùng, tác
giả đã khái quát lại ba yêu cầu dạy học VBNLHĐ. Đó là phải phù hợp với đặc
trưng của VBNL, đáp ứng được quan điểm dạy học tích hợp và quan điểm
dạy học tích cực.
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu của người đi trước cùng vốn
hiểu biết cá nhân, tác giả khóa luận sẽ xây dựng một quy trình đọc hiểu
VBNLVHHĐ dựa trên đặc trưng thể loại và phù hợp với quan niệm đổi mới
về dạy và học hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống lí luận dạy đọc hiểu
VBNLVHHĐ ở trường THPT. Từ đó khắc phục những hạn chế trong thực
tiễn dạy học VBNL (đặc biệt là VBNLVHHĐ).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và xác định nội dung lí luận:
+ Khái niệm, đặc trưng của VBNL nói chung và VBNLVHHĐ nói
riêng


+ Đọc hiểu văn học.
- Xây dựng quy trình dạy đọc hiểu VBNLVHHĐ
- Vận dụng các kiến thức lí luận vào thiết kế các giáo án thực nghiệm
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học VBNLVHHĐ. Bao gồm: VBNLVHHĐ, hoạt động
dạy VBNLVHHĐ, hoạt động học VBNLVHHĐ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn trong thể loại: VBNLVHHĐ
- Trong phạm vi tư liệu: SGK Ngữ văn THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
+ Phương pháp hệ thống hoá lí thuyết
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm
7. Đóng góp của khoá luận
7.1. Lí luận
Khoá luận góp phần hoàn thiện hệ thống lí luận dạy học VBNLVHHĐ
trong trường THPT.
7.2. Thực tiễn
Khoá luận đóng góp vào giải quyết những khó khăn mà thực tiễn dạy
học VBNLVHHĐ trong nhà trường đang gặp phải.
8. Bố cục
Ngoài phần tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục của khoá luận gồm:
- Mở đầu
- Nội dung: Gồm 3 chương:


+ Chương 1: Văn bản và văn bản nghị luận
+ Chương 2: Quy trình dạy đọc hiểu văn bản nghị luận văn học hiện đại
ở trường Trung học phổ thông
+ Chương 3: Thực nghiệm dạy đọc hiểu văn bản nghị luận văn học hiện
đại ở trường Trung học phổ thông
- Kết luận


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
VĂN BẢN VÀ VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
1.1. Văn bản và văn bản văn học

1.1.1. Văn bản
Theo Từ điển Tiếng Việt, VB là bản viết hoặc in mang nội dung nhất
định thường để lưu lại (văn bản chữ Nôm, văn bản kí kết giữa hai nước...), là
chuỗi kí hiệu ngôn ngữ hay nói chung những kí hiệu thuộc một hệ thống nào
đó làm thành một chỉnh thể mang một nội dung ý nghĩa trọn vẹn.[10; 1360]
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm VB được hiểu theo nghĩa
rộng "... là bất cứ chuỗi kí hiệu nào có khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa
được, bất kể là có do kí hiệu ngôn ngữ tạo thành hay không. Do đó, một nghi
thức, một điệu múa, một nét mặt, một bài thơ... đều là VB”.
Khái niệm VB còn được hiểu theo nghĩa hẹp “VB là một chỉnh thể, một
khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một thông báo mà tác
giả (người phát) gửi tới người đọc, người xem (người nhận). Nghĩa của VB
được xác định bởi quan hệ của nó với thực tại ngoài VB với các VB khác, với
từng cá nhân, với kí ức và các phẩm chất khác nữa của người phát và người
nhận thông báo”.[5; 395].
Trên cơ sở các quan niệm trên, VB được hiểu là sản phẩm của hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó là tập hợp hệ thống các kí hiệu ngôn ngữ
được tổ chức theo hình thức chặt chẽ, hướng tới nội dung thông báo trọn vẹn,
nhằm mục đích nhất định trong giao tiếp. Căn cứ vào nội dung thông tin của
VB, VB được chia làm hai loại:
- VB thông thường (VB chức năng): Chứa đựng nội dung thông
thường, khi hiểu nghĩa của VB (nghĩa ngôn từ) thì hiểu được thông tin chứa
đựng trong VB.


- VBVH (văn bản nghệ thuật): Chứa đựng nội dung thông tin thẩm mĩ.
1.1.2. Văn bản văn học
VBVH là một tổ chức nghệ thuật gồm từ, câu, nhóm, đoạn nhằm tạo
thành một thế giới nghệ thuật mang tính khái quát, nhằm phản ánh đời sống
và biểu hiện sự cảm thông trước đời sống của tác giả, nhằm thức tỉnh những

thái độ, tình cảm nhất định đối với thực tại đời sống thông qua việc xây dựng
nhân vật, không gian, thời gian, qua việc sắp xếp các chi tiết để tạo thành bức
tranh đời sống sinh động nhằm biểu hiện quan niệm về con người của tác giả.
[9; 8]
Theo người viết, VBVH trước hết là một loại VB nên nó mang đầy đủ
tính chất của một VB thông thường, cũng có chức năng truyền đạt, bảo quản
thông tin. Nhưng nó là VB của các TPVH nên nó có thêm một số đặc trưng
riêng biệt nằm ở phẩm chất nghệ thuật của nó. Đó là những đặc trưng nghệ
thuật có tính chất đặc thù của loại hình nghệ thuật ngôn từ.
1.1.3. So sánh văn bản và văn bản văn học
Trước hết, VB và VBVH đều là tập hợp kí hiệu ngôn ngữ được tổ chức
một cách chặt chẽ, thể hiện một nội dung thông báo trọn vẹn, nhằm mục đích
thông tin trong giao tiếp, cùng dùng ngôn ngữ làm phương thức biểu đạt.
Tuy nhiên, giữa VB và VBVH có sự khác biệt rõ nét:
Về phương diện ngôn ngữ: Nếu ngôn ngữ của VB thông thường mang
tính khái niệm, khoa học thì ngôn ngữ trong VBVH có đặc trưng riêng (tính
cảm xúc, tính hàm súc, tính hình tượng, đa nghĩa).
Về nội dung thông tin: Nếu VB thông thường có nội dung thông tin
khoa học thì VBVH mang nội dung thông tin thẩm mĩ.
Về sự tác động: Nếu VB thông thường tác động đến lí trí người đọc,
đem đến cho người đọc những hiểu biết về các lĩnh vực trong đời sống thì


VBVH không chỉ tác động đến lí trí người đọc mà còn tác động vào tình cảm,
tư tưởng thẩm mĩ của người đọc.
Về sự tiếp nhận: Vì VB thông thường có nội dung thông báo tường
minh nên sự tiếp nhận của độc giả là tương đối giống nhau. Còn VBVH với
nội dung thông tin đến người đọc không chỉ là một mà còn là nhiều nên sự
tiếp nhận của người đọc là không như nhau. Hơn nữa, sự tiếp nhận VBVH
còn phụ thuộc vào năng lực tưởng tượng cũng như kinh nghiệm, vốn sống,

trình độ của người đọc. Chính vì vậy, bao nhiêu độc giả đọc VBVH thì sẽ có
bấy nhiêu cách hiểu.
Tóm lại: VBVH mang đầy đủ đặc điểm của một VB thông thường
nhưng nó còn có những đặc trưng riêng. Vì vậy, nó là dạng VB đặc biệt, độc
đáo.
1.1.4. Phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn học
1.1.4.1. Khái niệm tác phẩm văn học
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả khẳng định: “TPVH là
công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập thể sáng tạo, nhằm
thể hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sống con người, biểu hiện
tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại”.[5; 290]. Theo khái niệm
này, các tác giả đã đưa ra các đặc trưng của TPVH với chất liệu đặc thù là
ngôn từ, phương thức biểu hiện đời sống đặc thù là hình tượng nghệ thuật.
1.1.4.2. Phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn học
Nếu VBVH chỉ là hệ thống các kí hiệu ngôn ngữ cố định, những con
chữ vô hồn trên trang giấy thì TPVH là kết quả tiếp nhận của độc giả, và là
cái vô hình tồn tại trong thế giới tinh thần của người đọc. TPVH là phần tinh
thần, cái không thể nhìn thấy được bằng thị giác mà phải là sự tổng hợp của
của mọi giác quan, có khi lấy cả hồn mình ra để cảm nhận. VBVH chỉ trở
thành TPVH khi có người đọc nó.


1.2. Văn bản nghị luận
1.2.1. Khái niệm
Văn nghị luận là thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, sự ra đời của
văn nghị luận được đánh dấu bởi những cuốn Kinh Thi, Luận ngữ... Ở nước
ta, văn nghị luận đã xuất hiện trong dòng văn học dân gian dưới hình thức
những câu tục ngữ của nhân dân lao động.
Xoay quanh khái niệm VBNL tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau.
Trong cuốn Từ điển bách khoa của Mĩ, các tác giả đã khẳng định văn nghị

luận thuộc dạng thức văn không hư cấu (form of nonfiction). Điều này có
nghĩa văn nghị luận không dùng đến một hoạt động cơ bản của tư duy hình
tượng - hư cấu mà văn nghị luận dựa vào tư duy logic để trình bày tư tưởng,
quan điểm nào đó của người viết. Theo quan điểm này, văn nghị luận cũng là
một TPVH nhưng không dùng đến hư cấu.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả khẳng định văn chính
luận là một dạng của văn nghị luận: "...viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc
nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau (chính trị, kinh tế, triết học, văn hoá...).
Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá
tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi
ích một tầng lớp, một giai cấp nhất định. Chính vì thế, tác phẩm chính luận
bao giờ cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng, lập trường công dân rõ ràng.
Tình cảm sôi sục, luận chiến quyết liệt, và tính khuynh hướng công khai là
dấu hiệu quan trọng của phong cách chính luận. Tất cả những cái đó làm cho
giọng điệu cấu trúc và chức năng của lời văn tuyên truyền, hùng biện".[5;
400].
"Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm bàn bạc, thảo luận với người
khác về thực tại đời sống xã hội, bao gồm những vấn đề về văn hoá, triết học,
đạo đức, lịch sử, chính trị, văn học nghệ thuật..." [1; 4]. Văn nghị luận luôn


“...xem trọng năng lực lập luận dựa trên quy tắc logic và đặc điểm tư duy,
nhưng nó vẫn không loại trừ hình thức mĩ cảm của tư tưởng" và "nét nổi bật
trong văn nghị luận là hệ thống lí lẽ, dẫn chứng đầy đủ, tiêu biểu, để làm
sáng tỏ một vấn đề nào đó nhằm thuyết phục người đọc, người nghe, hiểu rõ
vấn đề tin vào tính minh xác của sự lập luận và tán thành với quan điểm tư
tưởng của người viết và để người đọc có thể vận dụng chúng vào cuộc sống
xã hội và cá nhân."[1; 6]
Trên cơ sở các quan niệm trên, khái niệm VBNL được hiểu trước hết là
thể loại văn học không dùng đến hư cấu tưởng tượng. Về nội dung: Nó thể

hiện trực tiếp tư tưởng, quan điểm, thái độ của người viết về các vấn đề của
đời sống văn hoá nhân sinh (chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hoá...). Về hình
thức thể hiện: Các nội dung của VBNL được trình bày bằng hệ thống lí lẽ,
dẫn chứng tiêu biểu, với những lập luận chặt chẽ, thuyết phục và bằng một
thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn, có màu sắc biểu cảm.
1.2.2. Các đặc trưng của văn bản nghị luận
1.2.2.1. Người viết phát biểu một cách trực tiếp tư tưởng, quan điểm,
thái độ, tình cảm về các vấn đề của cuộc sống
Trong mối tương quan so sánh VBNL với các loại VB khác, đặc biệt là
loại VB có sử dụng tư duy hư cấu - hình tượng, nét khác biệt đầu tiên dễ dàng
nhận thấy: Nếu các loại VB khác tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết
thường được thể hiện một cách kín đáo thông qua các hình tượng thẩm mĩ thì
VBNL những điều đó lại được trình bày một cách trực tiếp tường minh, đầy
đủ để người đọc dễ dàng nhận ra.
VD: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một
vang lên để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám
mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt


hình rõ rệt trên nền trời... Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng vẳng
tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào..."
Trên đây là đoạn văn miêu tả được trích trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
của Thạch Lam. Trong đoạn văn này, tình cảm, thái độ, tư tưởng của tác giả
không được thể hiện trực tiếp mà được gửi gắm đằng sau bức tranh thiên
nhiên buổi chiều phố huyện.
Trong khi đó, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã giãi bày trực tiếp
tâm trạng của tác giả: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau
như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức sao chưa được xả thịt, lột da, nuốt
gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa. Ta cũng cam lòng...". Người đọc dễ dàng cảm nhận

được tình cảm yêu nước, căm thù giặc sâu sắc của tác giả Trần Quốc Tuấn.
Với Đại cáo bình Ngô - áng thiên cổ hùng văn của dân tộc Việt Nam,
quan điểm nhân nghĩa cũng được Nguyễn Trãi thể hiện một cách trực tiếp:
"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo..."
"... Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo..."
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, tác giả Hoài Thanh cũng trực tiếp thể
hiện quan điểm, nhận định riêng, độc đáo của mình về cái tôi của thời đại Thơ
mới: "... Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một
thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như
Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha,
rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu...".


Có thể nói, người viết phát biểu một cách trực tiếp quan điểm, thái độ,
tư tưởng về một vấn đề nào đó là đặc trưng đầu tiên của văn nghị luận.
1.2.2.2. Văn nghị luận thuyết phục người đọc bằng hệ thống luận điểm,
luận cứ xác đáng, tin cậy và bằng cách lập luận chặt chẽ, hùng hồn
a. Luận điểm trong văn bản nghị luận
Luận điểm là tư tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề cơ bản
đặt ra trong bài văn cần phải làm sáng tỏ để thuyết phục người đọc, người
nghe, thường được thể hiện dưới hình thức những câu văn ngắn gọn với
những phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định.
Luận điểm phải được diễn đạt sáng rõ, dễ hiểu nhất quán trong một
hoặc hai câu văn khẳng định hoặc phủ định. Giá trị của luận điểm thể hiện ở
tính đúng đắn, chân thật, phù hợp với thực tiễn.
Luận điểm có vai trò giường cột trong VBNL, để hiểu rõ hơn điều này

đặt luận điểm trong mối quan hệ so sánh với luận đề, luận cứ.
Trước hết, luận đề là vấn đề bao trùm cần được làm sáng tỏ, được đem
ra bàn luận, bảo vệ, chứng minh trong toàn bộ bài viết và nó thường thể hiện
ở ngay nhan đề. Trong khi đó, luận điểm có vai trò quan trọng, triển khai và
làm sáng rõ luận đề.
Tuy nhiên, để khẳng định hay phủ định các luận điểm, người ta dùng hệ
thống các luận cứ. Mà luận cứ là các lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho
luận điểm. Cụ thể, lí lẽ là những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận, nêu ra là
được sự đồng tình. Dẫn chứng là sự việc, số liệu, bằng chứng để xác định cho
luận điểm. Sự khác nhau giữa luận điểm và luận cứ được hệ thống hoá bằng
bảng so sánh sau:


Luận điểm

Luận cứ

- Là ý kiến mà người viết tin là đúng - Là lẽ phải và sự thật hiển nhiên mà
đắn, trong khi đó người đọc còn có cả người viết và người đọc đều thừa
thể chưa tỏ tường.

nhận.

- Là điều cần được chứng minh, - Là cái dùng để chứng minh, thuyết
thuyết phục.

phục.

- Quyết định đến sự lựa chọn các luận - Bị chi phối, quy định bởi luận điểm.
cứ.

Từ sự phân tích trên, cấp độ của một VBNL được mô hình hoá như sau:

Luận đề

Luận điểm

Luận cứ

Lí lẽ

Dẫn chứng

Tuy nhiên, không phải cứ VBNL nào có luận điểm cũng là VBNL hay
mà điều quan trọng quyết định một VBNL hay là các luận điểm phải độc đáo,
mới mẻ, sâu sắc. Nếu chỉ dừng lại ở những luận điểm cũ đã quen thuộc thì sẽ
không tránh khỏi sự nhàm chán, đơn điệu. Do vậy, yêu cầu đặt ra với các luận
điểm trong VBNL phải là các ý hay. Mà ý hay được hiểu trước hết là những ý
đúng, ý sâu, rồi tiếp đó phải là những ý mới, ý riêng, tập trung làm nổi bật


luận đề. Đồng thời, nó phải có cơ sở đạo lí và khoa học vững chắc, có sức
thuyết phục với người đọc, người nghe.
VD: Luận điểm mở rộng trong bài viết Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc của Phạm Văn Đồng: "Trên trời có những
vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình
Chiểu cũng vậy.” Có thể nói, đây là một ý hay, độc đáo trong bài viết này.
VBNL còn có luận điểm chính và luận điểm phụ. Trong đó, luận điểm
chính thường được dùng làm kết luận của VB, là cái đích mà nghệ thuật lập
luận dẫn dắt người đọc đạt tới. Còn luận điểm phụ thường được dùng làm

luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng trong quá trình lập luận.
Tóm lại: VBNL không thể không có luận điểm hay nói khác đi luận
điểm là điểm tựa lớn nhất của toàn bộ VBNL.
b. Lập luận trong văn bản nghị luận
Khái niệm lập luận trong VBNL được các tác giả SGK Ngữ văn 7
khẳng định là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận
điểm được nổi bật và có sức thuyết phục. Bao gồm các suy lí, quy nạp, diễn
dịch, phân tích, chứng minh, so sánh sao cho luận điểm đưa ra là hợp lí,
không thể bác bỏ.
Trong cuốn Văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn THCS, các
tác giả cũng đã đưa ra khái niệm của lập luận là cách nêu ra các luận điểm
mở rộng dẫn đến luận điểm chính, là cách nêu luận cứ dẫn đến luận điểm.
[12; 18]. Từ các cách hiểu trên, lập luận trong VBNL được hiểu một cách
ngắn gọn là cách tổ chức lí lẽ, dẫn chứng để làm nổi bật luận điểm.
Lập luận trong mối quan hệ so sánh với luận điểm được cụ thể như sau:
Nếu luận điểm là nội dung, là lời nói thì lập luận là hình thức thể hiện nội
dung và chính là cách nói. Có thể nói, nghệ thuật lập luận là vô cùng quan


trọng. Bởi lẽ, cùng một nội dung, cùng hướng đến một đích giống nhau nhưng
với cách nói khác nhau, cách lập luận khác nhau sẽ dẫn đến những kết quả
khác nhau.
Yêu cầu của lập luận phải logic, chặt chẽ. Tính logic, chặt chẽ được tạo
nên bởi việc sử dụng những lí lẽ rõ ràng, những chứng cứ hiển nhiên được
người đọc, người nghe công nhận.
VD: Trong truyện Khéo can được vua (trích Cổ học tinh hoa), Án Tử
đã đã thuyết phục vua Cảnh Công nước Tề tha chết cho người chăn ngựa vì
không may làm chết con ngựa quý của vua bằng cách lập luận sắc sảo, mẫu
mực: "... Nhà ngươi có ba tội đáng chết, vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết
là một tội đáng chết. Lại để chết ngựa quý của vua là hai tội đáng chết. Để

vua mang tiếng vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm
họ ai nghe thấy cũng oán vua, các nước chư hầu ai nghe thấy cũng khinh vua,
ngươi làm chết ngựa vua mà đến nỗi dân gian đem lòng oán hận, nước ngoài
có bụng dòm dỏ là ba tội đáng chết. Ngươi đã biết chưa. Bây giờ hãy tạm
giam ngươi vào ngục..."
Tuy nhiên, yêu cầu của lập luận trong VBNL không chỉ logic, chặt chẽ
mà còn phải mang màu sắc đối thoại, tranh luận. Màu sắc đối thoại, tranh luận
thể hiện khi người viết thường giả định là người đọc, người nghe không đồng
tình với ý kiến của mình để từ đó lập luận ngược lại. Người viết dùng tất cả lí
lẽ và dẫn chứng hòng đánh đổ luận lí của đối phương và buộc đối phương
phải tâm phục, khẩu phục. Yêu cầu này của lập luận làm tăng sức thuyết phục
của VBNL.
VD: Trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, màu sắc đối thoại,
tranh luận thể hiện rất rõ: "... Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà
trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm
mưu lược nhà binh, dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý ngàn vàng


khôn chuộc và lại vợ con bìu ríu, việc quân cơ trăm sự ích chi, tiền của tuy
nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù,
chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm
cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng
nào!". Trong đoạn văn này, Trần Quốc Tuấn đang đối thoại, tranh luận với
tướng sĩ nhằm mục đích bác bỏ thú vui vô bổ của họ, kêu gọi họ tập trung vào
rèn luyện võ thuật, mưu lược để đương đầu với kẻ thù.
Thực tế viết văn có rất nhiều cách lập luận khác nhau. Tuy nhiên, một
số cách lập luận thường xuất hiện trong VBNL:
- Lập luận theo hướng tổng phân hợp
- Lập luận theo hướng diễn dịch: Luận điểm được đưa ra trước, các lí lẽ
và dẫn chứng được nêu ra sau.

- Lập luận theo hướng quy nạp: Là cách lập luận đi từ luận cứ đến luận
điểm, từ luận điểm mở rộng đến luận điểm chính.
- Lập luận so sánh: Là cách tổ chức lí lẽ, dẫn chứng theo phương thức
đối chiếu hai hay nhiều sự vật hoặc là các mặt trong cùng một sự vật để chỉ ra
sự giống và khác nhau. Từ đó, làm rõ đặc điểm một sự vật hoặc mỗi sự vật
được đem ra so sánh.
- Lập luận phân tích: Trên cơ sở nêu ra và phân tích, đánh giá các luận
cứ, người viết dẫn dắt người đọc đến luận điểm cần nhận thức.
- Ngoài ra, còn có các cách lập luận khác: nêu câu hỏi, lập luận móc
xích, lập luận tương đồng và lập luận tương phản...
Tóm lại: Nghệ thuật lập luận có vai trò quan trọng trong VBNL. Người
viết có thể sử dụng một cách lập luận nhưng cũng có thể sử dụng kết hợp
khéo léo hai hay nhiều cách lập luận để tạo nên sức hấp dẫn, thuyết phục của
VBNL.


1.2.2.3. Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm; cú pháp rõ ràng,
chặt chẽ và giọng điệu mang tính hùng biện, có sức lôi cuốn mạnh mẽ
a. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện không thể thiếu trong VBNL. Yêu cầu đầu
tiên đối với ngôn ngữ của VBNL là phải trong sáng, chính xác, rành mạch, có
khi phải "dùng từ với một cách chính xác đến nghiệt ngã" (M.Gorki). Bởi lẽ,
ngôn ngữ trong VBNL phải diễn tả trung thành, sáng rõ, chính xác làm nổi
bật điều người viết muốn thể hiện. Đặc điểm này của ngôn ngữ được biểu
hiện ở việc sử dụng hệ thống từ lập luận, những từ có vai trò liên kết các ý,
các vế, các đoạn trong VBNL tạo nên tính chặt chẽ trong lập luận.
VD: Trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác giả sử dụng từ
ngữ lập luận hết sức chặt chẽ và chuẩn xác. Từ "tuy vậy" để liên kết hai đoạn
văn gồm đoạn trên với nội dung tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với đồng
bào ta, còn đoạn dưới viết về việc làm nhân đạo của đồng bào ta với người

Pháp ở Việt Nam. Cách dùng từ như vậy rất chính xác vừa có tác dụng liên
kết vừa nhấn mạnh được nội dung thông báo.
VBNL tác động chủ yếu đến lí trí của người đọc bằng hệ thống lập luận
nhưng không vì thế mà bỏ qua yếu tố ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh,
những yếu tố trữ tình tác động vào tình cảm của người đọc, người nghe. Bởi
lẽ, việc sử dụng yếu tố ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh đem lại hiệu quả
thuyết phục cao. Có thể nói, trong VBNL việc sử dụng ngôn ngữ vừa chính
xác vừa gợi cảm đã tác động cả vào lí trí và tình cảm của người đọc nên sức
thuyết phục của VBNL tăng lên gấp đôi.
VD: Trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, khi tố cáo tội ác của
thực dân Pháp, tác giả không chỉ dùng từ ngữ lập luận chính xác mà còn sử
dụng ngôn từ giàu hình ảnh, có sức gợi cảm cao, tác động mạnh mẽ vào trái


tim độc giả. Do vậy, sức tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp mạnh mẽ, quyết
liệt hơn: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu"
"Chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ"
c. Câu văn
Xuất phát từ hai đặc trưng trên của VBNL nên câu văn trong VBNL ít
dùng loại câu mô tả, trần thuật, kể lể sự việc như trong văn miêu tả, văn kể
chuyện mà chủ yếu là câu khẳng định hoặc phủ định với nội dung hầu hết là
các phán đoán, nhận xét, đánh giá sâu sắc, chắc chắn.
VD: Trong bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã viết:
"Nhưng ta trách gì Xuân Diệu, Xuân Diệu nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất
cho thời đại, chỉ nói cái khổ sở, thảm hại nhất của hết thảy chúng ta."
"... Đó, tất cả bi kịch đương diễn ra ngấm ngầm dưới những phù hiệu
dễ dãi trong hồn người thanh niên."
Những câu văn đó là những lời phán đoán, nhận xét nhưng cũng rất độc
đáo, riêng biệt của Hoài Thanh về bi kịch của cái "tôi" trong thời đại Thơ
mới.

Bên cạnh những câu văn chặt chẽ, mạch lạc như vậy thì trong VBNL
còn sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, có sức mạnh lôi cuốn và nhiều khi
có ngữ điệu độc đáo.
VD: Những câu văn rất ấn tượng, lôi cuốn của Hoài Thanh trong Một
thời đại trong thi ca khi viết về các hướng mà Thơ mới khai thác, đào sâu vào
cái tôi: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoắt lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu
không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về
hồn ta cùng Huy Cận".


Đặc điểm này của câu văn góp phần không nhỏ vào hiệu quả tạo nên
tính thuyết phục của những VBNL cũng như đem lại chất trữ tình cho những
áng văn nghị luận.
c. Giọng điệu
Giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng của VBNL bởi nó
góp phần tạo nên sức thuyết phục của VBNL. Hiệu quả thuyết phục của giọng
điệu thể hiện rõ nhất trong các áng văn nghị luận chính trị xã hội. Giọng điệu
rất đa dạng và luôn biến đổi linh hoạt phù hợp với nội dung nghị luận và đích
nghị luận
VD: Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, giọng điệu luôn biến
đổi linh hoạt, phù hợp từng đích nghị luận của tác giả. Khi tác giả viết về tư
tưởng nhân nghĩa, lịch sử văn hóa nghìn năm của dân tộc thì giọng điệu tràn
đầy sự tự hào, tự tôn dân tộc. Khi nêu lên tội ác của giặc Minh thì giọng sục
sôi căm thù. Khi miêu tả cuộc kháng chiến chống quân Minh với những thắng
lợi liên tiếp thì giọng điệu hùng hồn, sôi nổi, mạnh mẽ. Cuối cùng là lời tuyên
ngôn độc lập thì giọng điệu khảng khái, dứt khoát, tràn đầy lạc quan hi vọng
vào tương lai.

1.2.3. Phân loại văn bản nghị luận
Dựa trên các tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân chia VBNL
khác nhau.
- Dựa trên tiêu chí loại hình văn học và giai đoạn văn học, chia VBNL
làm 3 loại: VBNL dân gian (tục ngữ); VBNL trung đại (cáo, biểu, chiếu,
hịch...); VBNL hiện đại (tuyên ngôn, phê bình văn học...)
- Dựa trên tiêu chí nội dung, đề tài chia VBNL thành 2 loại: VBNL văn
học và VBNL xã hội.
1.2.4. Văn bản nghị luận văn học hiện đại
1.2.4.1. Khái niệm


VBNLVHHĐ là VBNL mang đầy đủ các đặc trưng của VBNL như đã
phân tích ở trên. Tuy nhiên, đây là những sáng tác nghị luận từ đầu thế kỉ XX
đến nay, được khoanh vùng trong mảng nội dung, đề tài cụ thể là các vấn đề
về văn học.
1.2.4.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận văn học hiện đại
a. Văn bản nghị luận văn học hiện đại phong phú về đối tượng nghị
luận và đa dạng về cách thức lập luận
Trong VBNLVHHĐ, người ta có thể nghị luận về các vấn đề của văn
học như: tác gia văn học, tác phẩm văn học, khuynh hướng văn học, trào lưu
văn học...
VD: Nghị luận về tác phẩm văn học: Chó, sói và cừu trong thơ ngụ
ngôn La Phôngten (SGK Ngữ văn 9)...
Nghị luận về tác gia văn học: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong văn nghệ của dân tộc (Phạm Văn Đồng); Thương tiếc nhà văn
Nguyên Hồng (Nguyễn Đăng Mạnh)...
Nghị luận về trào lưu văn học: Một thời đại trong thi ca (Hoài
Thanh)...
Nghị luận về văn học nghệ thuật: Ý nghĩa văn chương (Hoài Thanh),

Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi), Mấy ý nghĩ về thơ (Nguyễn
Đình Thi)...
Chính sự phong phú về đề tài kéo theo sự đa dạng của các hình thức lập
luận như: giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp...
VD: “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc”, tác giả Phạm Văn Đồng vận dụng nhiều phép lập luận như: phép lập
luận so sánh, phép lập luận tổng-phân-hợp, phép lập luận có tính chất đòn
bẩy...


b. Bố cục của văn bản nghị luận văn học hiện đại rất đa dạng nhưng
thường gồm có ba phần: mở bài-thân bài-kết bài
Bố cục của VBNLVHHĐ thường gồm ba phần: mở bài, thân bài, kết
bài. Phần mở bài là đoạn văn ngắn trong đó toát lên vấn đề cần nghị luận
(luận điểm chính). Phần thân bài trình bày các nội dung nghị luận tức là phân
tích bằng các luận điểm, luận cứ cụ thể để làm rõ luận điểm chính của bài
văn. Phần kết bài thường liên hệ vấn đề nghị luận với đời sống nhận thức của
người đọc.
VD: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
(Phạm Văn Đồng) rất tiêu biểu cho bố cục ba phần như trên.
c. Văn bản nghị luận văn học hiện đại sử dụng ngôn ngữ hàng ngày và
mang đậm dấu ấn chủ quan của người viết
- VBNLVHHĐ sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, cách hành văn gần gũi,
đời thường, dễ hiểu, không sử dụng nhiều điển tích, điển cố như trong VBNL
trung đại.
- VBNLVHHĐ in đậm dấu ấn chủ quan của người viết
VD: Cùng là nghị luận văn học, nhưng Hoài Thanh trong các bài viết
của mình thể hiện một phong cách viết phê bình tài hoa, hóm hỉnh lấy hồn ta
để hiểu hồn người với lời văn gợi cảm, gợi nghĩ qua các hình ảnh ẩn dụ. Còn
Nguyễn Đình Thi qua các bài viết của mình thì thể hiện một phong cách phê

bình độc đáo, sắc sảo với lời văn giàu tính phân tích, tổng hợp, so sánh...
Tóm lại: VBNLVHHĐ bên cạnh những đặc điểm chung của VBNL còn
có đặc trưng riêng. Những đặc trưng này là cơ sở định hướng cho người viết
xây dựng quy trình dạy đọc hiểu VBNLVHHĐ.
1.2.4.3. Thống kê các văn bản nghị luận văn học hiện đại trong
chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thông


×