Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Mô típ duyên kỳ ngộ qua một số thiên truyện trong thánh tông di thảo và truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.95 KB, 51 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Như hầu hết các thể loại văn học trung đại khác, truyện truyền kỳ
không được khai sinh ở Việt Nam, nhưng ở mảnh đất màu mỡ này nó đã
thực sự hợp thổ nhưỡng để phát triển một cách rực rỡ. Với sự bắt đầu từ những
câu chuyện u linh, chích quáitruyện truyền kỳ đã mở ra một bước phát
triển mới cho văn xuôi tự sự Việt Nam trên cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Bước phát triển ấy được đánh dấu bằng Thánh Tông di thảo tương
truyền là của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Không
phải ngẫu nhiên mà PGS. TS. Nguyễn Đăng Na lại dành cho Thánh Tông di
thảo và Truyền kỳ mạn lục một tình cảm đặc biệt, khi ông cho rằng những
người sáng tác hai tác phẩm này đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự
vào quỹ đạo nghệ thuật, văn học lấy con người làm trung tâm phản ánh [6,
24]. Sở dĩ như vậy bởi đến với thế giới truyền kỳ do Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ mở ra, đã đưa người đọc phiêu diêu trong thế giới huyền ảo ở cả
bốn cõi không gian vừa phi quảng tính, vừa vô định hướng và hành trình trong
thời gian phi tuyến tính với độ đàn hồi ảo hoá có thể co tám thập kỷ vào
một năm hoặc đang từ hiện tại nhảy về quá khứ kiếp trước hoặc bước sang
tương lai kiếp sau. Trong thế giới truyền kỳ, người đọc được tiếp xúc với các
nhân vật chỉ xuất hiện trong tưởng tượng như Nam Tào, Bắc Đẩu, thánh thần,
tiên phật, ma vương, quỷ dữ, bộ tướng Dạ Xoa, tinh các loài vật (động vật và
thưc vật) hiện hữu thành người, biến huyễn khôn lường và được tiếp xúc cả với
những kiếp người trầm luân khổ ải đang sống quanh ta. Đó là thế giới vừa hư
vừa thực, có cả cái thấp hèn và cái cao thượng, có cả ma và thánh, có cả quỷ
và tiên, đồng thời có cả những cái sinh hoạt thường ngày, ái ân, tình dục,
ghen tuông, đố kỵ, lọc lừa [6, 24].

Nguyễn Văn Hải



3

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
Với sức hấp dẫn đặc biệt như vậy, truyện của Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ đã thực sự cuốn hút nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu, độc giả yêu
văn chương và chúng tôi cũng không phải là một ngoại lệ.
Là một sinh viên sư phạm, lựa chọn đề tài này là rất cần thiết, bởi qua
đó chúng tôi sẽ xây dựng được một con đường khoa học, phục vụ đắc lực cho
việc tìm hiểu Thánh Tông di thảo và truyền kỳ mạn lục nói riêng, truyện
truyền kỳ nói chung.
Nhận thấy sức hấp dẫn đặc biệt của Thánh Tông di thảo và truyền kỳ
mạn lục, cộng với yêu cầu của nghề giáo viên trong tương lai, chúng tôi đi
đến thực hiện đề tài: Mô típ duyên kỳ ngộ qua một số thiên truyện trong
Thánh Tông di thảo và truyền kỳ mạn lục. Đây là đề tài hay nhưng khó, vì
vậy, trong quá trình triển khai đề tài chắc chắn sẽ không tránh được những hạn
chế thiếu sót. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này trên con
đường học tập và nghiên cứu tiếp theo.
2. Lịch sử vấn đề

Trong lịch sử nghiên cứu, những giá trị căn bản về nội dung và nghệ
thuật của Truyền kỳ mạn lục đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu một cách
sâu sắc, có hệ thống. Riêng Thánh Tông di thảo do tính chất phức tạp về tác
giả và niên đại ra đời của tác phẩm nên các công trình nghiên cứu vẫn còn
dừng lại ở một số lượng khiêm tốn.
Văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt là văn xuôi tự sự được hình thành
và phát triển từ cái nền của văn học dân gian mà mô típ là một phương diện

nghệ thuật quan trọng. Đặt hai tác phẩm trong mối quan hệ mật thiết với Văn
học dân gian, đã có một vài nhà nghiên cứu, nhận định, người viết được sự gợi
ý trực tiếp từ một số nhận định ấy.
Trên Tạp trí văn học số 11/1968 Bùi Văn Nguyên viết về Truyền kỳ
mạn lục có nhận định: Tuy viết bằng chữ Hán qua nghệ thuật truyền kỳ,

Nguyễn Văn Hải

4

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
nhưng tác phẩm của ông vẫn đượm màu sắc dân gian rõ rệt vì ông đã khéo léo
khai thác những đề tài dân tộc, đặc biệt chú ý đến truyền thuyết dân gian và
ông nhấn mạnh: Các tác giả trong nền văn học ở nhiều nước mượn đề tài
hoặc cốt truyện trong văn học dân gian của nước mình hay nước khác để xây
dựng tác phẩm là chuyện không có gì lạ.
Đinh Gia Khánh, khi xem xét Thánh Tông di thảo đã chỉ ra cả hai yếu
tố vay mượn và sáng tạo của tác giả từ văn học dân gian: Các tác giả có thể
vay mượn mô típ tình tiết, thậm chí cả kết cấu từ kho truyện dân gian, có thể
tiếp thu từ đề tài nội dung, từ kho tư liệu Hán học nhưng lại từ đó mà sáng tác
hoặc ít nhất cũng phóng tác ra những truyện mới [17, 102].
Năm 1997, nghiên cứu về sự phát triển của mô típ từ văn học dân gian
đến văn xuôi tự sự, Nguyễn Đăng Na có một cái nhìn khái quát: Văn xuôi tư
sự không hoàn toàn đoạn tuyệt với truyện dân gian, nó vẫn cần phải dựa vào
các mô típ dân gian để xây dựng nên một loại truyện mới khác với truyện dân
gian về chất. Người ta gọi đó là quá trình văn học hoá truyện dân gian [6,
40]; về nghệ thuật các mô típ thụ thai thần kỳxuống thuỷ phủ, lên

trời, người đẹp có giọng hát hay, duyên kỳ ngộ, người đẹp ở đẳng cấp
trên yêu người xấu ở đẳng cấp dưới là cơ sở cho loại hình truyện các loại
ở giai đoạn tiếp theo nhất là truyện truyền kỳ [6, 23].
Năm 1999, cũng tiếp cận Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục ở
góc độ thi pháp học Trần Đình Sử có nhận xét rằng: Cái gọi là truyền kỳ chủ
yếu là cái kỳ trong tình yêu nam nữ, trong thế gới thần linh ma quỷ. Các mô
típ như người lấy tiên, người lấy ma, người có phép biến hoá, nhiều truyện
đóng khung trong một giấc mơ, một cuộc kỳ ngộ, một cuộc trò truyện [16,
351].
Nhìn chung các nhận định trên đều thống nhất cho rằng truyện truyền
kỳ có vay mượn và sáng tạo trong việc sử dụng các mô típ mang nguồn gốc

Nguyễn Văn Hải

5

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
văn học dân gian trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các nhận định trên mới chỉ
dừng lại ở việc đề xuất, điểm qua mà chưa đi sâu vào khai thác các vấn đề mô
típ trong truyện truyền kỳ nói chung và trong Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ
mạn lục nói riêng, đặc biệt là mô típ duyên kỳ ngộ. Khoảng trống này xuất
phát từ xu hướng chỉ đi sâu vào khai thác khuynh hướng nội dung, tìm tòi các
giá trị biểu đạt về mặt xã hội của nghiên cứu văn học một thời nhất là những
sáng tác văn xuôi tự sự trung đại chứa đầy những yếu tố phức tạp và mang đặc
thù riêng biệt.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên sẽ là những định hướng quý báu giúp
chúng tôi có cái nhìn đúng đắn về tác phẩm, tự tin hơn khi triển khai đề tài

khoá luận: Mô típ duyên kỳ ngộ qua một số thiên truyện trong Thánh Tông
di thảo và Truyền kỳ mạn lục.
3. đối tượng, Phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số thiên truyện sử dụng mô típ
duyên kỳ ngộ trong hai tác phẩm Thánh Tông di thảo tương truyền của Lê
Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Xuất phát từ đặc trưng của văn học trung đại có tính dị bản, để thuận lợi
cho việc nghiên cứu, đề tài chúng tôi chọn văn bản Thánh Tông di thảo do
Nguyễn Bích Ngô - NXB VH Viện Văn Hoá phát hành 1963, và văn bản Tiễn
đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê, Ngô Văn Triện dịch, Trần
Thị Băng Thanh giới thiệu và chỉnh lí - NXB VH, Hà Nội 1999. Đây là những
văn bản được nhiều người biết đến và thường được đa số các nhà nghiên cứu
văn học có uy tín sử dụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu một số thiên truyện trong
Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục. Từ đó đánh giá được những

Nguyễn Văn Hải

6

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
thành công và hạn chế của hai tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu


Nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng những phương pháp cụ thể
sau:
1. Phương pháp khảo sát, thống kê nhằm tìm và tổ hợp những thiên
truyện có cùng sử dụng mô típ duyên kỳ ngộ.
2. Phương pháp so sánh nhằm chỉ ra những nét khác biệt trong nội dung
và nghệ thuật của các thiên truyện, đặc biệt là đối với mô típ duyên kỳ ngộ.
3. Phương pháp phân tích nhằm chỉ ra cái hay cái đẹp về giá trị nội
dung và nghệ thuật của các thiên truyện trong hai tác phẩm
Ngoài ra, người viết còn sử dụng phối hợp một số phương pháp nhằm
đạt hiệu quả tốt nhất cho khoá luận.

Nguyễn Văn Hải

7

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
Phần nội dung
Chương 1: vài nét về tác giả tác phẩm
1.1. Thánh Tông di thảo

1.1.1. Tác giả
Là tác phẩm ra đời từ khá sớm, trải qua mấy trăm năm với những biến
cố thăng trầm của lịch sử, Thánh Tông di thảo cho đến nay vẫn được coi là
nghi án văn chương chưa có kết luận cuối cùng về tác giả và niên đại ra đời
của tác phẩm.
Năm 1958, Nguyễn Đổng Chi khi nói về Thánh Tông di thảo trong bộ

Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam - quyển 2, đã đặt ra vấn đề tác giả của
tác phẩm. Ông khẳng định: Sách phần nào đáng ngờ là ngụy thư từ trước
chưa có tài liệu nói gì về nó cả. hiện nay, chưa có chứng cớ đích xác để cho
không phải là của Lê Thánh Tông? Những điểm nghi vấn ông nêu ra là cơ sở
cho rất nhiều người quan tâm nghiên cứu Thánh Tông di thảo.
Năm 1963, lần đầu tiên Thánh Tông di thảo ra mắt công chúng bằng
bản dịch của Nguyễn Bích Ngô. Hai nhà nghiên cứu Lê Sĩ Thắng, Hà Thúc
Minh trong lời giới thiệu tác phẩm đã tổng hợp ba loại ý kiến xung quanh vấn
để tác giả, năm sáng tác của tác phẩm. Những ý kiến này khá tương đồng với
nhận định của Nguyễn Đổng Chi và vẫn là những băn khoăn trăn trở của giới
nghiên cứu quan tâm đến tác phẩm.
Một số nhà nghiên cứu căn cứ vào lối xưng hô trong sách (dùng đại từ
nhân xưng dư = tôi) cho rằng cách gọi này phù hợp với cách xưng hô của
Lê Thánh Tông trong Thiên Nam dư hạ, mà Thiên Nam dư hạ được xác định
của Lê Thánh Tông nên khẳng định Thánh Tông di thảo là của Lê Thánh
Tông.
Một số nhà nghiên cứu khác dựa trên việc tác phẩm sử dụng những tên
địa danh Hà Nội xuất hiện trong Duyên lạ xứ Hoa, tên học vị (phó bảng cử

Nguyễn Văn Hải

8

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
nhân) chỉ xuất hiện sau đời Lê Thánh Tông; sự kiện lịch sử nạn lụt năm Quý
Tỵ, việc ông vua này không ở ngôi vị Thái tử bao giờ, việc đôi chỗ chứng tỏ
tác giả có mâu thuẫn trong tư tưởng, văn phong một số thiên truyện hơi

yếuđi đến khẳng định tác phẩm không phải của Lê Thánh Tông và sách chỉ
có thể xuất hiện vào cuối đời Nguyễn, có khả năng sau năm Quý Ngọ (1893).
Lại có những nhà nghiên cứu dựa trên văn phong một số thiên truyện
mang khẩu khí thiên tử, một số truyện khác có nội dung tư tưởng xa lạ với tư
tưởng của Lê Thánh Tông, hoặc nội dung mang tư tưởng phản ánh thời thịnh
trị của triều đại Lê Sơ, đã đi đến kết luận Thánh Tông di thảo có một số
truyện của Lê Thánh Tông, một số truyện của người đời sau viết thêm vào.
Như vậy, vấn đề tác giả và năm ra đời của Thánh Tông di thảo đến nay
vẫn còn tồn tại những nghi ngờ, những giả thiết chưa thể lý giải và không ai
tìm được chứng cứ thuyết phục để đi đến kết luận cuối cùng về vấn đề này.
Với tình hình hiện nay, trong khi chờ đợi một chứng cứ khoa học chắc chắn,
chúng tôi vẫn coi toàn bộ Thánh Tông di thảo là sáng tác của Lê Thánh
Tông, hoặc ít ra một số thiên truyện là sáng tác của ông vua tài năng này. Đây
là cơ sở quan trọng để tìm hiểu tác phẩm qua đó khẳng định giá trị tác phẩm
và tài năng sáng tạo của tác giả.
Trên cơ sở giả thuyết nêu trên, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu một số nét cơ
bản về tác giả Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông sinh 25/7/1442, mất 3/3/1497. Người đời từ xưa đến
nay vẫn biết đến Lê Thánh Tông là một ông vua anh minh nhất trong các vị
vua của 11 triều đại phong kiến Việt Nam. Lúc nhỏ Lê Thánh Tông có tên là
Hạo, sau đổi tên là Tư Thành, miếu hiệu là Thánh Tông thuần Hoàng đế, là
ông vua thứ 5 của triều Lê. Lê Thánh Tông lên ngôi từ năm 18 tuổi, trị vì đất
nước 38 năm trải 2 niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1470) và Hồng Đức (1470
- 1497). Sử gia Ngô Sĩ Liên đánh giá: đây là vị vua có tư chất sáng ngời thần
sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc (Đại Việt sử kí toàn thư). Sống ở

Nguyễn Văn Hải

9


K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
thời kỳ lịch sử đầy biến động nhưng với tài năng và tâm huyết của mình Lê
Thánh Tông đã tạo nên một xã hội thịnh trị bậc nhất trong thời kỳ lịch sử
phong kiến Việt Nam. Dưới triều đại ông trị vì, quốc thái dân an, khắp thôn
cùng ngõ hẻm không một tiếng oán sầu, việc học hành của kẻ sĩ được chú
trọng nên đã có 501 người đỗ tiến sĩ. Bản thân Lê Thánh Tông là tấm gương
sáng cho quần thần và nhân dân noi theo.
Không chỉ là một bậc minh quân Lê Thánh Tông còn là bậc danh gia
trong làng bút. Ông yêu thích và say mê sáng tác văn chương. Ông được coi
là vị chủ soái của Tao đàn nhị thập bát tú. Lê Thánh Tông sáng tác nhiều,
các tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao. Dù viết về đề tài thiên nhiên
đất nước hay các vấn đề văn hoá xã hội, Lê Thánh Tông luôn thể hiện tấm
lòng vì dân vì nước. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm của Lê Thánh
Tông như: Anh hoa hiếu trị, Châu cơ thắng trướng, Minh lương cẩm tú,
Quỳnh uyển cửu cavà cùng hàng chục bài thơ vịnh phong cảnh thiên nhiên
khắc trên vách núi rải rác từ Quảng Ninh đến Thanh Hoá.
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông là một bản anh
hùng ca của một nhân vật vĩ đại hiếm có trong lịch sử phong kiến nước nhà.
Một người có học vấn uyên thâm, tinh thông kinh sử, lại là người có trực giác
nhạy bén, bản năng sáng tạo lớn. Là một nhà cai trị quyết đoán sáng suốt, có
tầm nhìn chiến lược nhưng lại có kiến văn quảng bác, ông là nhân tố quan
trọng tạo nên sự hưng thịnh của xã hội phong kiến Việt Nam ngót nửa thế kỉ.
1.1.2. Tác phẩm
Thánh Tông di thảo gồm 19 thiên truyện được chia làm 2 quyển do
người đời sau sưu tầm và đặt tên cho tác phẩm. Quyển thượng gồm 13 truyện:
Truyện Yêu nữ ở Châu Mai, Bài kí dòng dõi con Thiềm Thừ, Bài kí hai
phật cãi nhau, Truyện người hành khất giàu, Truyện lạ nhà thuyền chài,

Truyện hai gái thần, Phả kí sơn quân, Bức thư của con muỗi, Duyên lạ xứ
Hoa, Trận cười ở núi Vũ Môn, Lời phán xử cho anh điếc và anh mù, Ngọc

Nguyễn Văn Hải

10

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
nữ về tay chân chủ, Truyện hai thần hiếu đễ. Quyển hạ gồm 6 thiên truyện:
Truyện chồng dê, Người trần ở Thuỷ phủ, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Bài kí
một giấc mộng, Một dòng chữ lấy được gái thần.
Tác phẩm được mở đầu bằng một lời tựa của một người vời tư cách là
tác giả nhưng không xưng danh, không đề năm biên soạn, có tác dụng định
hướng nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm trong Thánh
Tông di thảo đều tuân theo kết cấu của truyện truyền kỳ: mở đầu giới thiệu
nhân vật, tiếp theo là diễn bến li kỳ xung quanh nhân vật và cuối cùng là kết
quả số phận. Cuối mỗi thiên truyện đều có lời bàn của Sơn Nam Thúc với độ
dài ngắn khác nhau, thường rất cô đọng, hàm súc nhằm bày tỏ thái độ đồng
tình tuyệt đối với những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Lời bàn có ý nghĩa
hướng người đọc vào nội dung cốt lõi nhất của mỗi thiên truyện đồng thời đề
cao tác phẩm ở phương diện nghệ thuật, coi đó như một tài sản vô giá của Lê
Thánh Tông gửi lại cho hậu thế. Lời bàn cũng đánh dấu ý thức phê phán của
tác giả, bên cạnh sáng tác văn học đã có những tiến bộ nhất định.
Như vậy, Thánh Tông di thảo là tác phẩm mở đầu quá trình hoàn thiện
một thể loại văn học mới đó là truyện truyền kỳ. Đây là tác phẩm đầu tiên rũ
bỏ lối ghi chép đơn thuần để tiến tới sáng tạo, hư cấu trong nghệ thuật mở
đường cho một lối sáng tác văn học tiếp theo.

1.2. Truyền kỳ mạn lục
1.2.1. Tác giả
Nguyễn Dữ chưa rõ năm sinh năm mất người Gia Phúc, Hồng Châu nay
là xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông là con trai cả
Nguyễn Tường Phiêu, đỗ tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức 27
(1496). Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng nhớ nhiều, từng ôm ấp ý
tưởng lấy văn chương lối nghiệp nhà. Theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục và Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển, cùng một số bài tựa trong
Truyền kỳ mạn lục về sau thì Nguyễn Dữ có đi thi hương, đậu hương tiến sau

Nguyễn Văn Hải

11

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
thi hội đỗ tam trường và có ra làm tri huyện Thanh Toàn (Bình Xuyên - Vĩnh
Phúc) được một năm. Có lẽ vì đại thế bất an, vì bất mãn với kẻ đương quyền
hơn là vì phải nuôi mẹ già tròn đạo hiếu, Nguyễn Dữ lui về sống ẩn dật từ
đó trải mấy mươi sương không bước chân đến thị thành, viết Truyền kỳ
mạn lục để kí thác tâm sự.
Không giống như Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ chỉ để lại một tác phẩm
là Truyền kỳ mạn lục nhưng được Vũ Khâm Lân đánh giá là Thiên cổ kỳ
bút. Chính Truyền kỳ mạn lục đã đưa Nguyễn Dữ vào vị trí không thể không
nhắc tới trong đội ngũ các tác giả của truyện truyền kỳ Việt Nam. Ông được
mệnh danh là cha đẻ của thể loại truyền kỳ Việt Nam.
1.2.2.Tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục là áng văn hay của bậc đại gia (Phan Huy Chú).

Tác phẩm gồm 20 truyện chia làm 4 tập, mỗi tập 5 truyện. Các truyện đều
được viết bằng văn xuôi xen lẫn một ít văn biền ngẫu và thơ ca. Cốt truyện
chủ yếu được lấy từ những truyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp
xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ
Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Sĩ
Thành ở Làng Gối - Hà Nội). Tác phẩm được mở đầu bằng lời tựa nói về tài
năng, phẩm chất của tác giả đồng thời nêu nên giá trị tư tưởng của tác phẩm.
Kết thúc mỗi thiên truyện đều có lời bình (trừ truyện số 19 - Cuộc nói chuyện
ở Kim Thoa). Khác với lời bàn của Sơn Nam Thúc trong Thánh Tông di thảo,
lời bình các truyện trong Truyền kỳ mạn lục không bàn đến nghệ thuật văn
chương mà chủ yếu bàn về nội dung ý nghĩa tư tưởng của truyện.
Có thể nói, đối với lịch sử văn học Việt Nam, Lê Thánh Tông và
Nguyễn Dữ đã có công lao lớn ở việc đánh dấu bước phát triển mới của văn
học trung đại, đã hoàn toàn đoạn tuyệt với quá trình văn học hoá dân gian và
là cha đẻ của thể loại truyện ngắn theo đúng nghĩa của nó. Từ Lê Thánh Tông
đến Nguyễn Dữ khoảng cách lịch sử không bao xa nhưng đã có sự thay đổi

Nguyễn Văn Hải

12

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
chóng mặt về xã hội và sự gia tăng mạnh mẽ về mặt tư duy nghệ thuật của văn
xuôi tự sự. Đi vào đề tài: Mô típ duyên kỳ ngộ qua một số thiên truyện
trong Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục, chúng ta sẽ thấy rõ sự
chuyển biến, thay đổi ấy.


Nguyễn Văn Hải

13

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp

Chương 2: Giới thuyết chung về mô típ và
mô típ duyên kỳ ngộ trong văn học
2.1. Giới thuyết về mô típ
Xưa nay, nghiên cứu thuật ngữ motif luôn bắt đầu từ cái nền của văn
học dân gian: motif là gì? Ranh giới của nó đến đâu? Quan hệ trong các
motif như thế nào? Người ta cứ lặng lẽ nghiên cứu, so sánh và sắp xếp, phân
tích chúng [12, 57]. Đi vào tìm hiểu mô típ duyên kỳ ngộ, trước hết chúng ta
đi vào xem xét khái niệm motif, nhằm chỉ ra những khái niệm đặc trưng cơ
bản của nó.
Thuật ngữ mô típ - phiên âm tiếng Pháp là motif, tiếng Đức là motive
đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh: moveo - chuyển động; học thuật Trung Hoa
dịch là mẫu đề [1, 208] có nguồn gốc gắn với văn hoá âm nhạc, lần đầu
tiên được ghi trong từ điển âm nhạc (1703) của S. de Brosane, được J. Ư.
Goethe đưa vào từ điển văn học về thi ca tự sự và thi ca kịch nghệ (1797).
Trong Từ điển thuật ngữ văn học Lê Bá Hán và Trần Đình Sử có ghi: tiếng
Hán Việt gọi là mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong
tiếng Pháp có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng, kiểu trong tiếng
Việt nhằm chỉ những thành tố hoặc những bộ phận lớn nhỏ được hình thành
bền vững, được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nhất là trong sáng
tác văn học dân gian. Trong thực tế cuộc sống, người ta hay nói chị A thuộc
típ (tuyp) người X, anh B thuộc típ người Y, hay anh ấy thuộc típ người lí

tưởng mà các cô gái thời nay lựa chọnĐây cũng là một cách hiểu thông tục
về mô típ.
Trong văn học, khái niệm mô típ được hiểu tương đối thống nhất. Mô
típ dùng để chỉ những yếu tố đơn giản nhất, có ý nghiã trong cấu tạo đề tài,
cốt truyện trong tác phẩm. Trong văn học, mô típ đôi khi được hiểu theo nghĩa
là đề tài phụ có ý nghĩa bổ sung tô đậm đề tài chính, cùng với đề tài chính tạo

Nguyễn Văn Hải

14

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
thành một thể thống nhất nghệ thuật phức tạp. Lại Nguyên Ân coi đó là
thành tố bền vững vừa mang tính hình thức vừa mang tính nội dung của văn
học [1, 250].
Vai trò của mô típ đối với sáng tác văn học là không thể phủ nhận. Nó
được tập trung chú ý, lưu ý trong mối quan hệ với cốt truyện, nhân vật, đề tài
và chủ đề tác phẩm. Thực tế ngày nay, nhiều khi người ta sử dụng đồng nhất
hai khái niệm mô típ và chủ đề, mô típ và biểu tượng hoặc không phân biệt
ranh giới rõ ràng giữa mô típ và cốt truyện. ý nghĩa của mô típ còn được
Nguyễn Tấn Đắc nói tới trong Truyện kể dân gian đọc bằng Type và Motif NXB Khoa học xã hội 2001. Có những truyện kể dài chứa đựng hàng tá
motif, lại có những truyện kể sẵn như những mẫu kể trong các chùm về súc vật
có thể chỉ có một mô típ đơn lẻ [3, 11].
Sáng tác văn chương là lĩnh vực độc đáo của mỗi cá nhân, Sự lặp lại là
cái chết của nghệ thuật (V. Huy Gô) nhưng trong nhiều trường hợp sự lặp
lại sẽ tạo ra sức sống, sức cuốn hút cho tác phẩm. Điều đó phụ thuộc vào tài
năng tâm huyết của người nghệ sĩ, họ sẽ tạo ra những tác phẩm có giá trị mà

mô típ là phương thức cơ bản để tạo nên sự độc đáo cũng như nét nổi bật của
tác phẩm.
mô típ với tư cách là phạm trù nghiên cứu văn học được dùng nhiều hơn
cả trong văn học dân gian, nhất là đối với các thể loại tự sự văn học dân gian,
nhưng cũng được dùng cả trong văn học viết mô típ có thể được xuất phát ra
từ một hoặc một số tác phẩm văn học của một số nhà văn hoặc toàn bộ sáng
tác của nhà văn ấy, hoặc trong cả một khuynh hướng văn học, một thời đại
văn học nào đó [1, 250]. Có thể kể đến một số mô típ trong văn học dân gian
như: sự ra đời thần kỳ người đội lốt vật, lốt cọp trong nhiều truyện cổ tích
khác nhau, mô típ quả bầu hoặc bọc trứng sinh ra trong thần thoại của
nhiều dân tộc. Trong ca dao dân ca truyền thống cũng có nhiều mô típ: thuyền

Nguyễn Văn Hải

15

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
bến, trầu cau, thân emđó là những tấm bê tông đúc sẵn được sử dụng theo
kiểu lắp ghép tạo nên tác phẩm.
Trong văn học viết, người ta bắt gặp hầu hết các mô típ của văn học dân
gian, đặc biệt là mô típ duyên kỳ ngộ. Bên cạnh đó, các tác giả còn xây dựng
thêm rất nhiều mô típ chẳng hạn: Mô típ hoá thân (kafka, Ionexco), mô típ
người anh hùng chiến bại trong sáng tác của Hemingway Nói tới vấn đề
này, người viết chủ ý bác bỏ ý kiến cho rằng: mô típ sẽ tạo nên cái chết yểu
cho sáng tác văn học. Bởi tài năng của mỗi tác giả sẽ tạo ra những tác phẩm
mang một sắc thái riêng cho dù có sử dụng cùng một mô típ.
Như vây, có thể hiểu: mô típ là những khuôn dạng, kiểu lớn nhỏ khác

nhau được hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều trong văn học
nghệ thuật.
Những kiến thức cơ bản nêu ra ở đây được coi là khái niệm công cụ
quan trọng có ý nghĩa mấu chốt trong việc giải quyết vấn đề và để có cái nhìn
bao quát hơn về mô típ, tránh cách hiểu lơ mơ dẫn đến những phỏng đoán
thiếu khách quan khoa học, không có sức thuyết phục. Chúng tôi coi đó làm
căn cứ để đi vào tìm hiểu một số thiên truyện trong Thánh Tông di thảo và
Truyền kỳ mạn lục mà phạm vi đề tài đã nêu.
2.2. Mô típ duyên kỳ ngộ
2.2.1. Giới thuyết về mô típ duyên kỳ ngộ
Có thể nói, trong văn học nói chung motif mang một nội dung nhất
định, đảm nhận những chức năng nhất định và mang một công thức cố định,
có mối liên hệ mật thiết với cốt truyện và các khía cạnh nghệ thuật khác. Mô
típ duyên kỳ ngộ cũng vậy.
Theo Từ điển tiếng Việt: duyên là phần do trời định dành cho mỗi
người về khả năng quan hệ tình cảm (thường là mối quan hệ nam nữ, vợ

Nguyễn Văn Hải

16

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
chồng) hoà hợp gắn bó với nhau trong cuộc đời. Trong dân gian chữ
duyên được hiểu là duyên đôi lứa, hạnh phúc gái trai. Ca dao có câu:
Phải duyên thì gắn như keo,
Trái duyên đểnh đoảng như kèo đục vênh.
Kỳ: kỳ lạ. Đặc trưng của thể loại truyền kỳ là dùng yếu tố kỳ ảo làm

phương thức nghệ thuật để truyền tải nội dung: cái gọi là truyền kỳ chủ yếu
là truyền cái kỳ trong tình yêu nam nữ và cái kỳ trong thế giới thần linh ma
quỷ [16, 350]. Chính yếu tố kỳ ảo đã xây dựng nên nhân vật kỳ ảo tạo nên
những cuộc kỳ ngộ.
Ngộ (kỳ ngộ): gặp gỡ một cách may mắn kỳ lạ.
Như vậy, duyên kỳ ngộ là dùng để chỉ mối tình đẹp đến một cách hoàn
toàn ngẫu nhiên không hẹn mà nên giữa các nhân vật.
Có thể hiểu mô típ duyên kỳ ngộ là chỉ những cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa
con người với nhân vật của thế giới siêu nhiên như: thần tiên, ma quỷ hay giữa
các nhân vật trong thế giới siêu nhiên với nhau. Những cuộc gặp gỡ ấy tạo nên
từ những mối nhân duyên giữa hai người với nhau.
Đi vào tác phẩm văn học, mô típ duyên kỳ ngộ được diễn tiến theo một
công thức cố định: gặp gỡ (có thể được tác giả kể chi tiết, có thể được ẩn đi).
Tiếp theo là diễn biến tình cảm trong đôi lứa (thường được các tác giả miêu tả
rất chi tiết). Phần kết là kết quả của mối nhân duyên giữa hai người.
Như vậy, mô típ duyên kỳ ngộ là mô típ đặc biệt trong văn chương, được
nhiều tác giả sử dụng, dưới ngòi bút của họ mô típ này có sự biến hoá linh
hoạt, tạo sự hấp dẫn đặc biệt cho các thiên truyện.

2.2.2. Mô típ duyên kỳ ngộ trong văn học Việt Nam.
Mô típ duyên kỳ ngộ được khởi đầu từ những tác phẩm văn học dân
gian, được thể hiện dưới hình thức những cuộc gặp gỡ bất ngờ, thú vị nhuốm
màu sắc thần kỳ, đặc biệt là ở trong truyện cổ tích. Chúng ta có thể kể đến

Nguyễn Văn Hải

17

K29D Ngữ văn



Khoá luận tốt nghiệp
một số truyện như: Chử Đồng Tử, Tấm Cám, Sọ Dừa, Duyên kỳ ngộtrong
đó mô típ duyên kỳ ngộ được sử dụng như một tình tiết có giá trị, có khi được
sử dụng như một sự kiện chính tạo nên những câu chuyện tình yêu bất ngờ thú
vị.
Trong truyện Chử Đồng Tử, mô típ duyên kỳ ngộ ở đây rõ ràng sắc nét
chi phối toàn bộ cốt truyện. Truyện kể rằng, Chử Đồng Tử là một chàng trai
con nhà nghèo. Cả hai cha con chỉ có duy nhất một cái khố. Khi cha mất,
chàng nhường khố cho cha. Từ đó, chàng phải vùi mình trong cát mỗi khi có
người đi qua. Công chúa Tiên Dung trong một lần du ngoạn ở bãi sông Hồng
đẹp và thơ mộng, khi tắm đã gặp Chử Đồng Tử đang vùi mình trong cát. Cuộc
gặp gỡ bất ngờ, thiên định đã xoá nhoà đẳng cấp ranh giới của hai người. Từ
một chàng trai nghèo, Chử Đồng Tử đã kết duyên cùng công chúa Tiên Dung
xinh đẹp, bất chấp sự phản đối của vua cha. Truyện là bản tình ca đẹp về mối
tình hiếm có trong lịch sử và là ước vọng của bao người nhất là người bình dân
xưa.
ở truyện cổ tích Tấm Cám, cuộc kỳ ngộ giữa nhà vua và cô Tấm có ý
nghĩa mấu chốt giải quyết mọi mâu thuẫn cũng như thể hiện chủ đề tư tưởng
truyện. Từ một cô Tấm bị dì ghẻ hành hạ, bắt nạt nhờ có đôi hài Bụt cho mà
trong buổi xem hội cô đã gặp mặt nhà vua, từ đây cuộc đời Tấm bước sang
trang mới. Tấm được vua đón về cung làm hoàng hậu nhưng cũng chính từ đó
mọi biến cố liên tiếp xảy ra trong đời Tấm do sự ghen ghét của mẹ con Cám.
Truyện kết thúc bằng việc nhà vua gặp Tấm ở quán nước của bà cụ già bên
đường rồi đón nàng về cung sau bao ngày xa cách. Đó là một kết thúc có hậu
cho nhân vật, phù hợp với tư duy dân gian. Như vậy ta thấy, mô típ duyên kỳ
ngộ đã có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề của
truyện: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.
Cũng là cuộc kỳ ngộ giống như trong Tấm Cám, truyện Sọ Dừa kể về
chàng Sọ Dừa xấu xí có duyên với cô con gái út nhà phú ông. Hai cô chị vì


Nguyễn Văn Hải

18

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
chê Sọ Dừa nhà nghèo, lại xấu mà không dám kết duyên cùng chàng, duy chỉ
có cô em út là đem lòng yêu thương Sọ Dừa. Rồi một ngày kia, chàng Sọ Dừa
xấu xí lộ nguyên hình là chàng trai tuấn tú. Hai người sống với nhau hạnh
phúc. Sọ Dừa đỗ đạt làm quan. Trên bước đường công cán đã gặp lại người vợ
hiền một mình trên đảo hoang. Cuộc hội ngộ đồng thời cũng là sự đoàn tụ của
hạnh phúc lứa đôi sau bao ngày xa cách.
Sang đến văn học viết, mô típ duyên kỳ ngộ được thể hiện trong một số
tác phẩm, đặc biệt là truyện Nôm như: Hoa Tiên, truyện Song Tinh, Truyện
KiềuDưới hình thức mô típ tài tử giai nhân, các tác giả đã xây dựng hình
ảnh những nhân vật tự do yêu đương bằng nhưng câu chuyện tình lãng mạn.
Chàng là những Nho sinh đa tài nhưng cũng rất đa tình, nàng cũng là những
mĩ nữ, những giai nhân tuyệt sắc kiểu như Lương Sinh - Dao Tiên, Kim Trọng
- Thuý KiềuNhững cặp trai tài gái sắc đã làm nên những câu chuyện tình
lãng mạn cảm động.
Ra đời nửa cuối thế kỉ 18, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự đã mở đầu
cho truyện Nôm. Lấy nguyên tác từ một câu chuyện, một tiểu thuyết ái tình,
Nguyễn Huy Tự đã xây dựng nên câu chuyện hết sức lãng mạn đẹp đẽ. Trong
đó mô típ duyên kỳ ngộ hay nói chính xác hơn là mô típ tài tử giai nhân kỳ
ngộ được thể hiện rất rõ nét. Lương Sinh là một nho sĩ nhưng anh cũng là một
chàng trai rạo rực trước cảnh xuân và luôn ước mong gặp được cô gái đẹp. Thế
giới nhân vật nữ trong đó là những cô gái tuy kín đáo nhưng khắc khoải, trằn

trọc canh dài vì mơ ước yêu đương. Nỗi khát khao gặp gỡ đau khổ, giận hờn,
tương tư, nỗi tuyệt vọng cho đến niềm vui hạnh phúc đó là những cảm xúc mà
người đọc được nếm trải cùng với nhân vật trong truyện. Xuyên suốt chiều dài
câu chuyện tình là mối tình của Lương Sinh và Dao Tiên. Lương Sinh tha thiết
mong ước hạnh phúc lứa đôi, dối mẹ, lừa cha để đi tìm người đẹp và đã tự do
đính ước không theo sự sắp đặt của cha mẹ. Dao Tiên vô cùng đau khổ khi
biết tin Lương Sinh lấy vợ theo sự sắp đặt của cha mẹ. Chàng thì đau khổ toan

Nguyễn Văn Hải

19

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
bỏ học hành, nàng thì tuyệt vọng toan vứt bỏ tất cả chỉ giữ lại chứng cớ của
tình yêu, chứng cớ của sự bội bạc. Cuộc tình éo le đau khổ ấy tưởng chừng
như tan vỡ nhưng cuối cùng vượt qua bao nhiêu thử thách họ đã đến được với
nhau. Ngọc Khanh là người con gái mà cha mẹ Lương Sinh lựa chọn để làm
vợ cho chàng đã tự tử chết. Trong tình thế đó, nhà vua đã tác hợp cho Lương
Sinh lúc này đang làm quan ở Viện Hàn Lâm với Dao Tiên thành đôi trai tài
gái sắc. Vậy là cuộc hôn nhân theo tiếng gọi của tình yêu đã có một kết thúc
viên mãn theo đúng ý người.
Cùng viết về chuyện tình tài tử giai nhân, kiệt tác Truyện Kiều của
Nguyễn Du lại đem đến cho người đọc xúc cảm về câu chuyện tình Kim
Trọng phong tư tài mạo tót vời với Thuý Kiều một cô gái tài sắc nghiêng
nước nghiêng thành. Cuộc gặp gỡ bất ngờ trong buổi du xuân đã làm nảy nở
mối tình giữa hai người, hứa hẹn một mối tình đầu đơm hoa kết trái toả đầy
hương sắc. Biến cố xảy ra Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, Thuý Kiều

ở lại gia đình gặp tai biến phải bán mình chuộc cha. Tình yêu tan vỡ để lại bao
nuối tiếc cho đôi bạn trẻ. Trong suốt quãng đời 15 năm lưu lạc Kiều luôn nhớ
về Kim Trọng. Còn về phần Kim Trọng, chàng không quên được tình xưa
nghĩa cũ nên đã treo ấn từ quan cất công đi tìm Kiều. Cuối cùng sau quãng đời
gió bụi họ gặp lại nhau, Kim Trong mong nối lại duyên xưa nhưng Kiều từ
chối bởi duyên đôi lứa cũng là duyên bạn vầy. Câu chuyện tình kết thúc để
lại sự ngậm ngùi nuối tiếc cho độc giả.
Mô típ duyên kỳ ngộ, được sử dụng trong truyện truyền kỳ phát triển
rực rỡ kết tinh ở một số tác phẩm như: Truyền kỳ Tân phả, Tục truyền kỳ,
Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lụcở đó xuất hiện nhiều thiên truyện
có những câu chuyện tình yêu đẹp, li kỳ, hấp dẫn. Trong số những tác phẩm
ấy, chúng ta đặc biệt chú ý tới Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục.
Đây là những tác phẩm có khá nhiều thiên truyện có mô típ duyên kỳ ngộ và
các tác giả đã rất thành công trong việc thể hiện mô típ đó.

Nguyễn Văn Hải

20

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
Việc xây dựng mô típ duyên kỳ ngộ trong truyện truyền kỳ nói chung
đặc biệt trong Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục nói riêng bắt nguồn
từ trong các thiên truyện dân gian. Truyện dân gian luôn đầy ắp yếu tố thần
kỳ, nhất là trong truyện cổ tích. ở đó, chứa dựng rất nhiều những cuôc gặp gỡ
kỳ lạ như có bàn tay vô hình sắp đặt. Đó là những cuộc gặp gỡ muôn hình
muôn vẻ giữa những con người thuộc các đẳng cấp khác nhau, những người
thuộc thế giới trần tục với nhân vật của thế giới khác như: tiên, hoa, bướm,

hồn ma. Tiếp xúc với những tác phẩm đó, người đọc luôn có cảm giác ngất
ngây trong thế giới hư ảo thần kỳ, tách khỏi cõi nhân gian phàm tục.
Các nhà nghiên cứu cho rằng truyện truyền kỳ có mô típ bắt nguồn từ
văn học dân gian bên cạnh đó còn xuất phát từ văn học Trung Quốc. Nhìn vào
ảnh hưởng của văn học Trung Quốc với văn học Việt Nam thể hiện qua mối
quan hệ giữa Tiễn Đăng Tân Thoại (Cù Hựu đời Minh) với Truyền kỳ mạn
lục (Nguyễn Dữ), chúng ta sẽ thấy điều này rất rõ. Nguyễn Dữ không chỉ sử
dụng nguồn văn liệu dân gian mà còn vay mượn nhiều điển tích, điển cố, học
tập Cù Hựu cách khắc hoạ trạng thái tâm lý nhân vật và đôi khi vay mượn của
một số đoạn văn. Về nội dung lấy mô típ các nhân vật Trung Quốc rồi chỉnh
sửa lại cho phù hợp với phong tục của người Việt Nam. Trong số 20 truyện
của Truyền kỳ mạn lục, một số nhà nghiên cứu còn chỉ rõ một số truyện có sự
ảnh hưởng của Tiễn Đăng Tân Thoại: cốt truyện Từ Thức lấy vợ tiên hấp thụ
Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm và Lưu Thần Nguyễn Triệu nhập Thiên
Thai trong U Minh Cư của Lưu Khánh.
Như vậy, mô típ duyên kỳ ngộ ra đời từ văn học dân gian sang đến văn
học viết nó đã có sự chuyển biến cả về chất và lượng. Nó không còn là công
thức sáo rỗng mà qua tài năng mỗi tác giả mô típ đó được xây dựng mang
những sắc thái riêng góp phần quan trọng khẳng định giá trị tác phẩm.

Nguyễn Văn Hải

21

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
2.2.3. Khảo sát mô típ duyên kỳ ngộ trong Thánh Tông di
thảo và Truyền kỳ mạn lục.

Dựa trên cơ sở nội hàm khái niệm mô típ duyên kỳ ngộ và việc tìm hiểu
sơ lược về nó trong văn học Việt Nam, chúng tôi đi vào khảo sát hai tác phẩm
Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, và thấy rằng những thiên truyện
sau có sử dụng mô típ duyên kỳ ngộ. Cụ thể là:
Trong Thánh Tông di thảo có 3 truyện: Duyên lạ xứ Hoa, Truyện lạ
nhà thuyền chài, Một dòng chữ lấy được gái thần.
Trong Truyền kỳ mạn lục có 3 truyện: Từ Thức gặp tiên, Cuộc kỳ ngộ
ở trại Tây, Chuyện cây gạo.
Đây là những truyện mà mô típ duyên kỳ ngộ được sử dụng rất tập
trung, nó có vai trò lớn đối với cốt truyện, không gian, thời gian và nhân vật,
chủ đề tư tưởng tác phẩm. Như vậy, với những truyện viết về tình yêu đôi lứa,
hai tác giả đều sử dụng mô típ duyên kỳ ngộ. Nhân vật kỳ ngộ ở đây chủ yếu
là con người ở thế giới trần gian với các nhân vật ở thế giới khác như: tiên,
hồn ma, ong bướm, hoa lá. Các cuộc gặp gỡ ở đây đều có điểm chung là kỳ và
duyên. Duyên vì không phải ai cũng có cơ may hội ngộ. Các cuộc gặp gỡ đều
dẫn đến những cuộc tình sâu sắc có khi là thiên định, viên mãn (Duyên lạ xứ
Hoa), phiêu du đổ vỡ (Từ Thức lấy vợ tiên), say đắm nuối tiếc (Cuộc kỳ ngộ
trại Tây), xót xa oán trách (Cây gạo). Kỳ vì sự việc bất thường, diễn biến li
kỳ có sự giao thoa kỳ ảo, đượm màu sắc huyền thoại, cổ tích giữa hai thế giới
người - tiên, hồn bướm, trần gian - tiên giới, dương gian - thế giới kỳ bí, và kỳ
vì người đọc chỉ được nghe và tưởng tượng về những cuộc gặp gỡ một đi
không trở lại, một thế giới kỳ ảo chưa từng chứng kiến nhưng cũng khó lòng
bác bỏ hay khẳng định sự tồn tại của nó xung quanh ta hay không.

Nguyễn Văn Hải

22

K29D Ngữ văn



Khoá luận tốt nghiệp
Chương 3
Vai trò của việc sử dụng mô típ duyên kỳ
ngộ trong thánh tông di thảo và
truyền kỳ mạn lục
3.1. Vai trò của mô típ duyên kỳ ngộ trong việc xây
dựng cốt truyện.
Trong bài viết Về mối quan hệ giữa mô típ và cốt truyện đăng trên
tạp chí văn học số 2 năm 1987, Nguyễn Ngọc Thường đã chỉ ra mô típ xuất
hiện như là những phần tử đầu tiên tạo thành một tổng thể thế giới hình tượng,
trên cơ sở đó, qua thời đại khác nhau tạo thành những thể loại nghệ thuật
khác nhau. Con người tiếp nhận các sản phẩm đó và chế biến chúng theo xu
thế của xã hội. Và đây chính là nguyên nhân tạo điều kiện cho mô típ có khả
năng phát triển và biến đổi thành phần cốt truyện phù hợp với trình độ tư duy
và khả năng nhận thức của con người. Ông khẳng định: mô típ được xem
như là yếu tố, hạt nhân, sau đó phát triển thành cốt truyện, nghĩa là mô típ là
yếu tố ban đầu và cốt truyện là giai đoạn tiếp theo [12, 58]. ở các tác phẩm
thuộc loại hình văn học dân gian, cốt truyện trước hết là một tập hợp dãy các
mô típ, trong đó phải có một mô típ chủ đạo và hàng loạt các mô típ khác nữa.
Truyện truyền kỳ cũng mang những đặc điểm tương tự.
Theo quan niệm truyền thống, cốt truyện là hình thức sơ đẳng nhất thực
chất là cái vỏ diễn biến từ lúc mở đầu cho đến khi kết thúc truyện. Truyện
truyền kỳ vốn được coi là hình thức ban đầu của truyện ngắn - loại truyện có
cốt truyện. Như vậy, mô típ duyên kỳ ngộ có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác lập, xây dựng cốt truyện. Nhờ có mô típ duyên kỳ ngộ mà cốt truyện được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, và thông qua cốt truyện, mô típ
duyên kỳ ngộ được thể hiện dưới những sắc thái đa dạng độc đáo.

Nguyễn Văn Hải


23

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
Trần Đình Sử khi nhận xét về bố cục cốt truyện truyền kỳ đã cho rằng:
bố cục truyện truyền kỳ thường mở đầu bằng lời giới thiệu nhân vật, họ tên
quê quán, tính tình phẩm hạnh. Kế đó là những phần lạ lùng tức là phần trung
tâm tác phẩm, phần kết kể lí do kể chuyện. Phần đầu và phần kết là công thức
thuộc về mô típ dẫn truyện và kết truyện, ngôn ngữ kịch gọi là mở màn và hạ
màn. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là màn trung tâm xuyên suốt truyện, nối
liền giữa màn dẫn truyện và kết truyện. Trong màn trung tâm, mô típ duyên kỳ
ngộ được coi là màn chính, xương sống cho toàn bộ cốt truyện. Nó được coi là
mô típ mẹ - mô típ trung tâm có vai trò đóng khép cuộc đời nhân vật. Cả hai
tác giả của Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục đều rất quan tâm chú
ý đến phần trung tâm của truyện. ở mỗi thiên truyện mô típ trung tâm duyên
kỳ ngộ quen thuộc đã được các tác giả sử dụng không hề sáo mòn, ngược lại
còn đặc biệt hấp dẫn tạo ra những cốt truyện dàn trải hay hấp dẫn, căng thẳng
hay thong thả, diễn tiến có sức cuốn hút lớn với bạn đọc.
ở truyện Duyên lạ xứ Hoa, mô típ duyên kỳ ngộ người lấy vật quen
thuộc đã được tác giả xây dựng bằng cuộc gặp gỡ giữa Chu Sinh và Mộng
Trang - công chúa nước Bướm dưới hình thức một giấc mơ dài. Cốt truyện đầy
ắp yếu tố kỳ ảo. Trong thế giới thực, Chu Sinh là cậu bé mồ côi cha mẹ từ lúc
mới lọt lòng, được người chú ruột đem về nuôi. Sống với gia đình người chú,
vì sự đay nghiến cay nghiệt của người thím, Chu Sinh phải bỏ về nhà cũ. ở
đây, anh nằm mơ giấc mơ thứ nhất. Anh mơ mình đến nước Hoa, biết được
tiền duyên của mình và được ăn uống no say. Trở về với thế giới hiện thực, sau
ba ngày, Chu Sinh lại nằm mơ và lần này anh được kết duyên cùng công chúa

nước Hoa. Cứ đều đặn một tháng ba mươi ngày thì mười lăm ngày mộng. Một
năm sau Chu Sinh có con. Cuộc sống của Chu Sinh và Mộng Trang thật đẹp
đẽ, hạnh phúc. Nhưng biến cố bất ngờ xảy ra! Giặc Ô Thước kéo đến từng
đàn, hàng ngàn vạn quân tàn phá nước Hoa. Để bảo vệ thần dân, Quốc Mẫu
quyết định dời đô nước Hoa về một nơi khác. Chu Sinh buộc lòng phải chia

Nguyễn Văn Hải

24

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
tay với vợ con. Chàng đành phải chia tay hạnh phúc, tạm biệt những giấc mơ
đẹp để quay về với cuộc sống thực của mình. Trở về đời thường, anh lại bắt
đầu công việc học hành, dùi mài kinh sử. Năm sau, gặp khoa thi Hương, Chu
Sinh đỗ Hương cống. Sau khi vinh quy bái tổ, Sinh được chú lấy vợ cho rồi có
con. Tuy nhiên điều rất đáng chú ý là người con gái Chu Sinh chọn làm vợ lại
có tên là Đồng Nhân. Chu Sinh hiểu ngay giấc mơ trong mộng của mình giờ
đây đã được hiện thực hoá trong cuộc sống đời thường. Ngày tháng trôi qua,
Chu Sinh dần được thăng chức, làm đến tướng Bình Man oai phong. Được cử
đi dẹp giặc, trận đánh mà Chu Sinh chỉ huy diễn ra vào đúng địa điểm đóng đô
của nước Hoa. Ngang dọc khoảng bốn mươi dặm, cây cối um tùm, bốn mùa
đầy hoa. Mười năm trước, khoảng nửa đêm, bỗng có đàn bướm vài vạn con
bay đến tụ hội nơi đây. Hiện giờ, mỗi lần chúng bay lên thì rợp cả một góc
trời. Vì thế mới có tên là Hoa Điệp Sơn. Lời thổ dân nói, Chu Sinh thấy câu
nào cũng đúng như lời trong thơ xưa: Quốc mẫu tức là vua Bướm. Mộng
Trang là con gái Bướm. Ngày xưa Trang Chu Chiêm chiêm bao hoá thành
bướm. Chu Sinh hiểu rõ giấc mơ của mình. Sinh hạ lệnh cho quân không

được làm kinh động Hoa Điệp Sơn. Thắng giặc, anh lại chìm trong giấc mơ
dài và biết rằng mình sẽ làm chúa nước Hoa. Kết thúc truyện, Chu Sinh chuẩn
bị chu đáo cho sự an toàn của nước Hoa rồi bình thản chết, chính thức từ bỏ
cõi thực trở về với thế giới giấc mơ của mình.
Như vậy có thể thấy, mô típ duyên kỳ ngộ được sử dụng xuyên suốt tác
phẩm, câu chuyện được kể một cách thong thả theo diễn tiến cuộc đời nhân
vật, điều đó khiến cho việc xây dựng cốt truyện về một cuộc tình duyên của
con người với loài vật trở nên hấp dẫn mà vẫn rất tự nhiên. Cái tài của tác giả
là ở chỗ, từ mô típ quen thuộc trong dân gian, từ sự kiện lịch sử có thực, ông
đã sáng tạo ra cả một câu chuyện đầy ắp yếu tố kỳ ảo, hấp dẫn về cuộc đời và
chuyện tình của chàng Chu Sinh. Qua từng chi tiết, từng sự kiện, cuộc đời

Nguyễn Văn Hải

25

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
nhân vật trong truyện cứ hiện ra trước mắt người đọc. Có lẽ vì thế mà Duyên
lạ xứ Hoa có dáng dấp của truyện ngắn hiện đại.
Giống như Duyên lạ xứ Hoa, truyện Một dòng chữ lấy được gái thần
cũng có cốt truyện rất hấp dẫn, yếu tố kỳ ảo xuyên suốt thiên truyện. Phần mở
đầu vẫn là công thức quen thuộc giới thiệu danh tính, gốc tích nhân vật: Làng
thần Khê có anh đồ kiết, cha mẹ mất sớm, em trai không có, hai tư tuổi mà
vẫn chưa có vợ. Nhà nghèo quá chỉ có nhờ bút nghiên mà sống. Phần tiếp
theo là diễn biến li kỳ của cuộc gặp gỡ dẫn đến câu chuyện tình yêu đôi lứa và
cuối cùng vẫn là sự đoàn tụ hạnh phúc ở thế giới thần tiên. Tuy nhiên khác với
các thiên truyện đã nêu, Một dòng chữ lấy được gái thần có phần độc đáo

hơn ở chỗ cuộc kỳ ngộ xảy ra do ý định chủ quan của cô gái thần núi. Truyện
mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật của tác giả nhưng bước ngoặt trong cuộc
đời nhân vật chính là sự kiện chuyến viếng thăm với mục đích xin chữ ký của
cô gái con thần núi. Cuộc gặp gỡ bất ngờ đầy thú vị ấy đã khiến anh đồ làng
Thần Khê không khỏi ngỡ ngàng, băn khoăn đặt ra câu hỏi cái tên đồ kiết
này có quan trọng gì, cần chi phải quản cầu đến ta. ắt hẳn ở đây có điều gì
uẩn khúc. Từ cuộc gặp gỡ đầy bí ẩn, anh đồ nảy sinh ý định hỏi cưới cô gái
về làm vợ. Theo tiếng gọi của tình yêu anh đã lên đường đi tìm cô gái. Lần
đầu đi đến tận núi Trường An tìm, chỉ thấy vách núi hiểm trở, toàn lều nhỏ lụp
sụp, anh lủi thủi buồn bã ra về. Lần thứ hai nhờ may mắn anh được lão bộc
dẫn đường đến được động Sơn Thần, gặp được cô gái và đã đạt được ý nguyện.
Sau một thời gian cô gái theo anh đồ xuống núi sông một cuộc sống hạnh
phúc cho đến lúc phải chia xa.
Cốt truyện ở đây diễn tiến rất thong thả, mọi sự kiện, tình tiết liên quan
đến nhân vật cứ từng bước trôi đi. Mỗi sự kiện xảy ra tiếp theo đều gắn với
tâm lí, tính cách nhân vật. Anh hoang mang, lo sợ khi thấy có người con gái
đến bất ngờ trước mặt với vẻ trâm anh đài các, buồn rầu, thất vọng khi không
tìm thấy nơi cô gái ở, anh mạnh dạn bày tỏ tình cảm và sướng vui khi ước

Nguyễn Văn Hải

26

K29D Ngữ văn


Khoá luận tốt nghiệp
nguyện ba sinh của mình thành hiện thực. Việc tập trung khắc hoạ diễn biến
tâm trạng nhân vật khiến cho câu chuyện ở đây rất thật, rất gần gũi với mọi
người. Cũng giống như Duyên lạ xứ Hoa, kết thúc truyện ở đây nhân vật bình

thản tạm biệt cuộc sống trần thế về với thế giới bên kia sống cuộc sống đoàn
tụ hạnh phúc lứa đôi. Như vậy, mô típ duyên kỳ ngộ có vai trò tạo ra một cốt
truyện vừa thong thả vừa dàn trải, khiến cho tính cách của nhân vật được bộc
lộ rõ nét và gợi cho người đọc những ý vị về một tình yêu đẹp.
Cùng lấy mô típ duyên kỳ ngộ làm trung tâm xuyên suốt diễn biến cốt
truyện, nhưng Truyện lạ nhà thuyền chài lại đem đến cho người đọc những
nét riêng biệt trong cách tổ chức, xây dựng cốt truyện. Trong sáu truyện được
chúng tôi đề cập đến, đây có lẽ là truyện có điểm đặc biệt nhất về việc sử dụng
mô típ duyên kỳ ngộ. Điều đó được thể hiện ở việc chi tiết gặp gỡ được ẩn đi.
Tác giả không tập trung khắc họa cuộc gặp gỡ li kỳ giữa Ngoạ Vân và Thúc
Ngư. Tuy vậy, những yếu tố lạ kỳ trong chuyện tình của họ vẫn có sức cuốn
hút độc giả. Truyện mở ra bằng việc giới thiệu gia đình nhà thuyền chài, gần
sáu mươi tuổi mới sinh được cậu con trai đặt tên là Thúc Ngư. Tiếp theo đó tác
giả dành hẳn một dung lượng khá dài trong truyện kể về cuộc sống gia đình
thuyền chài rồi dẫn dắt đến chuyện trai khôn lấy vợ gái ngoan tìm chồng
của Thúc Ngư. Thiên truyện thực sự trở nên hấp dẫn khi gia đình thuyền chài
lạc đến thuỷ cung, ở đây họ chứng kiến nhiều sự việc, gặp gỡ nhiều người lạ
lùng và biết được con trai mình đã tìm đựơc vợ như ý. Gia đình nhà thuyền
chài đón cô gái về nhà. Cuộc sống của họ đầm ấm, khá lên. Tai hoạ bất ngờ ập
đến, đe doạ tính mạng mọi người. Cô gái trong tình thế nguy bách đã biến
mình thành con cá to nằm chắn ngọn nước tràn vào để cứu gia đình. Nhờ đó
mà gia đình Thúc Ngư thoát nạn. Kết thúc truyện, Ngoạ Vân phải từ biệt cuộc
sống trần thế để trở về thế giới thực của mình. Đây là một kết thúc không có
hậu khiến cốt truyện ở đây hợp với lôgíc cuộc sống hơn. Có thể thấy, cốt
truyện lúc đầu diễn tiến rất thong thả, nhưng càng về cuối càng hấp dẫn, đặc

Nguyễn Văn Hải

27


K29D Ngữ văn


×