Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn mặt trời đồng xu của nguyễn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.41 KB, 59 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

mở đầu

1. lí do chọn đề tài
1. Nguyễn Bản sinh năm 1931 tại Bắc Ninh, ông từng dạy học và viết
văn tại quê nhà. Về hưu, ông chuyển hẳn xuống Hà Nội. Ông ít khi xuất hiện
trong đám đông mà lặng lẽ mỗi sớm, mỗi chiều bên bàn đọc và viết.
Ông có quan niệm sống và viết rất riêng. Vì sống khá lặng lẽ tại một
ngõ nhỏ của Hà Nội nên văn của ông phảng phất cô đơn, tiềm ẩn, cúc củn
số phận con người trong đường đời, đường tình.
2. Chúng ta nhận thấy rằng: nhà văn Nguyễn Bản chỉ mới xuất hiện trên
văn đàn nhưng ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt, làm hâm nóng
văn đàn, trở thành đề tài trong một số cuộc tranh luận văn chương và được
nhiều bạn đọc chú ý. Các tác phẩm chính của ông gồm: 6 tập truyện ngắn in
riêng và nhiều tuyển tập in chung. Ông cũng là tác giả dịch thuật các cuốn tiểu
thuyết như: Ba chàng ngự lâm, Trà hoa nữ, Hoa đỗ quyên đỏ, Dưới mặt
trời hung bạo, Người đua diều
3. Năm 2007 vừa qua, con người sống lặng lẽ ấy đã làm khuấy động văn
đàn Việt Nam bằng một tập truyện ngắn ám ảnh lòng ngưòi, đó là tập truyện
Mặt trời đồng xu. Tập truyện gồm 20 truyện ngắn, trong đó ánh trăng là một
truyện ngắn hay được giải của Báo văn nghệ năm 1992 và được dịch sang tiếng
Pháp, tiếng Anh; Cơn lũ đạt giải thưởng của Báo văn nghệ năm 2001. Bên cạnh
đó các truyện ngắn còn lại cũng không hề thua kém, mà tuỳ gout từng người,
có người còn thích những truyện này hơn cả ánh trăng. Và không có gì lạ khi
số truyện được giải của ông lên tới số 7, nếu kể cả giải do trưng cầu ý kiến độc
giả cho truyện Bức tranh màu huyết thạch là 8.
Với những thành công đáng kể như vậy, song những bài nghiên cứu về
Nguyễn Bản chưa nhiều, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ và để thành một công trình



Trường ĐHSP Hà Nội 2

1


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

nghiên cứu thì chưa có ai. Vì vậy trong khuôn khổ khoá luận này, người viết
muốn bày tỏ tấm lòng yêu mến chân thành đối với nhà văn và cũng mạo muội
xin được phân tích, đánh giá, bàn luận về một khía cạnh nhỏ liên quan đến tài
năng của nhà văn: Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn Mặt trời đồng
xu của Nguyễn Bản.
Thực hiện đề tài này, người viết mong muốn được đóng góp một phần
nhỏ trong tiếng nói chung khẳng định tài năng của Nguyễn Bản. Đồng thời nó
còn có ý nghĩa rất lớn trong việc tập nghiên cứu khoa học về văn chương của
một sinh viên Ngữ văn sắp tốt nghiệp. Đây cũng chính là tiền đề cho việc tiếp
tục học tập và nghiên cứu sau này.
2. lịch sử vấn đề
Nhân vật là vấn đề cốt lõi của tác phẩm văn chương. Thế giới nhân vật
được nhìn nhận như một phạm trù mỹ học, nó thâu tóm mọi khả năng có thể
có trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Tồn tại với tư cách như một chỉnh thể
nghệ thuật, thế giới nhân vật bao hàm trong đó nhiều vấn đề, nhiều khả năng
và vận động theo quy luật nội tại nhất định. Soi chiếu vào sáng tác từ góc độ
chỉnh thể trên cơ sở thế giới nhân vật, ta sẽ có cơ hội nắm bắt được đối tượng
nghiên cứu trong tính đa diện, đa tầng của nó. Bởi vậy những công trình
nghiên cứu về nhân vật cũng như thế giới nhân vật được giới nghiên cứu, phê
bình đào xới một cách kĩ lưỡng.

Qua khảo sát, chúng tôi thấy các công trình nghiên cứu về Nguyễn Bản
và tác phẩm của ông còn rất ít, mới chỉ xuất hiện một số bài báo và trang web.
Gs. Nguyễn Đăng Mạnh trong lời giới thiệu của tập truyện Nợ trần gian có
viết: Hình như anh có một quan niệm sống riêng và muốn khép kín lòng mình
trước mọi người hồi ấy người ta gọi thế là cá nhân chủ nghĩa, không chịu
hòa mình với tập thể. Về sau này thì tôi hiểu rằng, muốn viết văn, muốn làm
nghệ thuật thì trước hết phải sống sâu sắc với chúng [12; 5].

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

Trong tập Những tâm hồn lạc của Trí Việt, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc
đã bình truyện Sông lấp như sau: Người đàn bà bị chồng ruồng bỏ, vậy mà
vẫn cứ mãi yêu mối tình đầu cay đắng ấy của mình, yêu dai dẳng và khốn khổ.
Ngay cả khi đã có được một người đàn ông khác, một tình yêu mới còn đẹp đẽ,
trọn vẹn nhiều lần hơn vẫn cứ không thể nguôi quên, không chút bỏ nổi những
trì níu, day dứt lạ kì ấy nên người ta đành đổ cho một căn nguyên hư hư thực
thực, đó là linh hồn của dòng sông mà Tôi đã thả trôi hồn mình xuống vào
những khoảnh khắc tuyệt vọng đau đớn nhất trong cuộc đời mình [3; 7].
Trang web Duonghuongqn.wnweblogs.com, Dương Hướng đã bình
truyện của Nguyễn Bản như sau: Truyện nào cũng đầy ắp nỗi lòng đau đáu
yêu thương, khát khao hạnh phúc. Văn ông tinh tế, ý tứ sâu xa mang tầm tư
tưởng lớn thời đại. Ông yêu đắm đuối cái đẹp của ánh trăng, cái đẹp của làn
da chị cứ ám ảnh, đeo đuổi làm khổ ông suốt đời (ánh trăng). Bi kịch dữ dội

và đau đớn, với nhân vật ông Tư, một cán bộ chống Pháp luôn mơ tưởng một
cuộc sống tươi đẹp, ông thành thật, vụng dại, khờ khạo vô cùng. Ông Tư đặt
tên các con là Tưởng, Đạo, Đức, những ước mong chúng có được một tương
lai tươi sáng, nhưng cuối cùng ông phải đi làm đĩ đực (Chuyến ly hương
cuối đời)
Qua những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy, dù đứng dưới góc độ nào,
các nhà văn, nhà nghiên cứu cũng đi đến khẳng định Nguyễn Bản là cây bút
có nhiều hứa hẹn. Và có người còn khẳng định rằng: nhờ các sáng tác của
Nguyễn Bản, nhờ những cuộc tranh luận trên văn đàn đã nâng cấp văn hoá đọc
của độc giả Việt Nam lên một nấc thang mới, có giá trị hơn. Phải chăng năm
2007 là năm lên ngôi của văn hoá đọc.
Bởi vậy, nghiên cứu về: Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn Mặt
trời đồng xu của Nguyễn Bản là một mảnh đất trống cần khám phá. Tuy

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

nhiên, trong giới hạn của một khoá luận, chúng tôi sẽ chỉ đi vào tìm hiểu
những nét chính.
3. Mục đích nghiên cứu
Với khoá luận này, mục đích nghiên cứu của người viết là mong muốn
đóng góp một phần nào đó vào việc tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật cũng
như nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, hấp dẫn trong tập truyện ngắn Mặt
trời đồng xu của Nguyễn Bản một cách cụ thể hơn, sâu sắc hơn. Qua đó, ta

thấy được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Bản trong việc ghi lại những gì xảy
ra xung quanh cuộc sống của con người thời hiện đại.
4. nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận là chỉ
ra các loại nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tập truyện ngắn
Mặt trời đồng xu của Nguyễn Bản ở ba mặt: kết cấu, các biện pháp thể hiện
nghệ thuật và lời văn nghệ thuật.
5. đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, người nghiên cứu lấy tập truyện ngắn Mặt trời đồng xu
(gồm 20 truyện) của Nguyễn Bản làm khách thể nghiên cứu. Từ đó chúng tôi
chọn một phương diện của khách thể là Thế giới nhân vật trong tập truyện
ngắn trên làm đối tượng nghiên cứu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi chủ trương khảo sát hầu hết các tác
phẩm của cả tập truyện. Từ đó, khẳng định sự cách tân của nhà văn trong công
cuộc đổi mới văn học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở về đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, chúng tôi sẽ
kết hợp vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

Trường ĐHSP Hà Nội 2

4


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn


- Phương pháp hệ thống tổng hợp.
- Phương pháp phân tích hệ thống.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp phân loại thống kê.
- Phương pháp so sánh hệ thống.
7. Đóng góp của khoá luận
Về mặt lí luận, với khoá luận này, người viết sẽ làm nổi bật nét đặc sắc
về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Mặt
trời đồng xu của Nguyễn Bản. Đồng thời khoá luận sẽ khẳng định thêm sự
đúng đắn tin cậy của con đường nghiên cứu văn học hiện nay.
Về mặt thực tiễn, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu những
đóng góp mới của Nguyễn Bản trong nghệ thuật tự sự của văn học Việt Nam.
Thông qua đó góp phần khẳng định tài năng và vị trí của Nguyễn Bản trong
nền văn học mới. Đồng thời sẽ giúp người đọc có những kiến giải sâu sắc về
nhà văn này.
8. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tham khảo, khoá
luận được triển khai thành hai chương chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận.
Chương 2: Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn Mặt trời đồng
xu của Nguyễn Bản.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn


nội dung
Chương 1
Cơ sở lí luận
1.1. quan niệm về nhân vật
1.1.1. Khái niệm nhân vật và thế giới nhân vật
1.1.1.1. Khái niệm nhân vật
Về mặt thuật ngữ:
Hiểu theo nghĩa rộng: nhân vật là khái niệm không chỉ được dùng
trong văn chương mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Theo bộ Từ điển tiếng Việt
của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà
Nẵng, 2007, thì nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa: nghĩa thứ nhất đó là
đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn
học. Thứ hai, đó là người có một vai trò nhất định trong xã hội [17; 881]. Tức
là, thuật ngữ nhân vật được dùng phổ biến ở nhiều mặt, cả đời sống nghệ
thuật, đời sống xã hội - chính trị lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày Nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của khoá kuận, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm
nhân vật theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển tiếng Việt định nghĩa như vừa
trích dẫn ở trên, tức là nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Với ý nghĩa như thế của khái niệm nhân vật, ta sẽ trở lại xuất xứ của
thuật nhữ này.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, nhân vật (đọc là persona) lúc đầu mang ý
nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian, chúng ta đã
sử dụng thuật ngữ này với tần số nhiều nhất, thường xuyên nhất để chỉ đối
tượng mà văn học miêu tả và thể hiện.
Đến cuốn Lí luận văn học, Nxb GD, H, 2004 do tác giả Phương Lựu
chủ biên đã định nghĩa khá kĩ về khái niệm nhân vật văn học: nói đến nhân
vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng

Trường ĐHSP Hà Nội 2


6


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

phương tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như: Cám, Tấm, Thạch
Sanh Đó là những nhân vật không tên như: thằng bán tơ, một mụ nào trong
Truyện Kiều Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần
thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang nội
dung ý nghĩa con người (). Khái niệm nhân vật có khi chỉ được sử dụng một
cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật
trong tác phẩm. Nhưng chủ yếu là hình tượng con người trong tác phẩm.
Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để
ta nhận ra [12; 277 278].
Trong cuốn Lí luận văn học, Nxb GD, H, 1993 do Giáo sư Hà Minh
Đức chủ biên lại định nghĩa như sau: Nhân vật trong văn học là một hiện
tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi
chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những
đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách Và cần chú ý thêm
một điều: thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi
rộng lớn hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc
không tên, được khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác
phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính
cách con người Cũng có khi đó không phải lài những con người, sự vật cụ
thể, mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan tới con người,
được thể hiện nổi bật trong tác phẩm [5; 102].
Khái niệm nhân vật văn học còn được định nghĩa trong cuốn Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb GD, H, 2006 của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi với nội dung cơ bản giống với định nghĩa trong cuốn Lí
luận văn học đã nêu: Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong
tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu,
anh Pha), cũng có thể không có tên riêng (). Khái niệm nhân vật văn học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

7


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả,
mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm (). Nhân vật văn học
là một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật
trong đời sống [6; 235].
Nói tóm lại, các nhà văn, các nhà nghiên cứu, nhà lí luận văn học, bằng
cách này hay cách khác khi định nghĩa nhân vật văn học vẫn cơ bản gặp nhau
ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là đối
tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ hai,
đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang
linh hồn con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối tượng
mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã được
khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ tài năng.
Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách được coi là đặc điểm quan
trọng nhất, là nội dung của mọi nhân vật văn học [12; 280]. Đôtxtôiepxki
cũng khẳng định: Đối với nhà văn toàn bộ vấn đề là ở tính cách [12; 280].

Tính cách với ý nghĩa rất lớn như vậy nên trước kia một số giáo trình Nga đã
gọi nhân vật là tính cách. ở đây cần hiểu tính cách là phẩm chất xã hội lịch sử
của con người thể hiện qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm
sinh lý của họ, tính cách cũng là nhân vật nhưng là nhân vật được thể hiện với
một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa đạt đến mức độ là
điển hình [6; 105]. Và tính cách tự nó cũng bao hàm những thuộc tính như có
nét cụ thể, độc đáo của một con người cá biệt nhưng lại mang cả những nét
chung, tiêu biểu cho nhiều người khác ở một mức độ nhất định, đồng thời có
một quá trình phát triển hợp với lôgic khách quan của đời sống.
Như vậy, nhân vật có hạt nhân là tính cách. Trong tác phẩm văn chương
có nhân vật được khắc họa tính cách nhiều hay ít nhưng cũng có nhân vật
không được khắc hoạ tính cách.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

8


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

1.1.1.2. Khái niệm thế giới nhân vật
Thế giới là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết
học, Thế giới có thể hiểu:
- Theo nghĩa rộng là toàn bộ hiện thực khách quan (tất cả những tồn tại
ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người). Thế giới là nguồn gốc của
nhận thức [18; 1083].
- Theo nghĩa hẹp: dùng để chỉ đối tượng của vũ trụ học, nghĩa là bộ
phận thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta đã chia bộ phận

thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực nhưng không có ranh giới tuyệt đối: thế
giới vĩ mô và thế giới vi mô [18; 1083].
Như thế, có thể nói thế giới là một phạm vi rất rộng, một vũ trụ rộng
lớn tồn tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người.
Vậy thế giới nhân vật là gì? Khái niệm thế giới nhân vật là một
phạm trù rất rộng. Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ thống nhân
vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư
tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật
của nhà văn, có tổ chức và có sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của
nghệ sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, thế giới nhân vật cũng là sản phẩm
tinh thần, là kết quả của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện
trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ
thuật, có cấu trúc riêng, có quy luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm
lý, không gian, thời gian, xã hội gắn liền với một quan niệm nhất định của
chúng về tác giả. Thế giới nhân vật là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn
diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác
phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm
của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu với xã hội, với gia đình
Thế giới nhân vật vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con

Trường ĐHSP Hà Nội 2

9


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

người trong văn học chẳng những không giống với con người trong thực tại về

tâm lý, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái quát, tượng trưng.
Trong thế giới nhân vật, người ta có thể phân chia thành các kiểu loại
nhân vật nhỏ hơn (nhóm nhân vật) dựa vào những căn cứ tiêu chí nhất định.
Nhiệm vụ của người tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khoá để bước qua
cánh cửa và bước vào khám phá thế giới nhân vật đó. Do đó nghiên cứu thế
giới nhân vật cũng khác với phân tích hình tượng nhân vật. Trong lịch sử văn
học, có thể nói, mỗi tác giả lớn đều có thế giới nhân vật riêng. Mỗi thể loại
văn học cũng có thế giới nhân vật với quy luật riêng của nó.
1.1.2. Vai trò của nhân vật văn học
Chúng ta biết rằng nhân vật văn học chính là hình ảnh thu nhỏ của con
người. Dưới lăng kính chủ quan của nhà văn, tính cách của nhân vật được
nhào nặn ở mức độ nào đó, nhân vật sẽ trở thành hình tượng về con người và
cao hơn, nếu tính cách được khắc họa ở những nét điển hình thì nhân vật sẽ trở
thành điển hình với con người. Mà theo Biêlinxki: nhà triết học tư duy bằng
phép tam đoạn luận, còn nhà thơ tư duy bằng hình tượng cụ thể của một bức
tranh. Nói rộng ra tức là văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, bằng
những nhân vật cụ thể. Do đó vai trò chức năng đầu tiên, trọng yếu nhất của
nhân vật là làm phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực. Văn học không
thể thiếu vắng nhân vật bởi chỉ có thể qua nhân vật nhà văn mới thể hiện được
nhận thức của mình về xã hội, về con người với những đặc điểm về số phận,
tính cách của nó. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới
riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định [10; 126].
Tính cách của nhân vật mang vai trò đặc biệt quan trọng đối với cả nội
dung và hình thức của tác phẩm văn học. Về nội dung, nhân vật với tính cách
của nó đã trở thành phương tiện để thể hiện tư tưởng của tác phẩm, nó có
nhiệm vụ cụ thể hoá sự thực hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, tức thông qua sự
vận động và mối liên hệ giữa các tính cách, người đọc sẽ đi đến một sự khái

Trường ĐHSP Hà Nội 2


10


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

quát hoá về nhận thức tư tưỏng. Về mặt hình thức, nhân vật với tính cách của
nó đã quyết định phần lớn các yếu tố của hình thức như: kết cấu, các biện
pháp thể hiện nghệ thuật, lời nói nghệ thuật Bàn về luận điểm này Hêghen
cũng đã từng khẳng định: tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa
nội dung và hình thức. Ta cũng cần lưu ý rằng: tính cách nhân vật mang tính
lịch sử, nghĩa là tương ứng với mỗi một thời đại lịch sử các tính cách được tôn
vinh hay coi nhẹ là khác nhau, có thể trong thời này tính cách này được tôn
sùng nhưng thời sau thì không, đôi khi tính cách ấy còn bị phủ định.
Trên đây là một số vai trò, chức năng cơ bản của nhân vật trong tác
phẩm văn chương. Và dường như ở bất cứ một tác phẩm nào cũng hội tụ đầy
đủ những vai trò chức năng cơ bản đó của nhân vật.
1.1.3. Các loại nhân vật văn học cơ bản
Nhân vật văn học là một thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Nhân
vật càng độc đáo thì càng hầu như không có sự lặp lại. Cho nên bộ mặt nhân
vật là rất phong phú. Song nhìn nhận ở phương diện tổng thể trong tác phẩm
văn học, các nhà nghiên cứu lí luận, nghiên cứu văn học đã chia thế giới nhân
vật văn học thành các kiểu loại khác nhau để dễ tiếp nhận, dễ phân tích, đánh
giá theo những tiêu chí như: nội dung cấu trúc, vai trò, chức năng của nhân
vật.
Thứ nhất, dựa vào vai trò của nhân vật đối với nội dung và hình thức tác
phẩm có: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính
đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều và liên quan đến các sự kiện chủ yếu
trong tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Trong

nhân vật chính lại nổi lên nhân vật trung tâm xuyên suốt từ đầu đến cuối tác
phẩm, về mặt ý nghĩa, đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm [12;
282]. Còn lại là các nhân vật phụ đóng vai trò thứ yếu so với nhân vật chính và
nhân vật trung tâm. Nó thường xuất hiện để đối chiếu so sánh làm rõ nhân vật
chính và nhân vật trung tâm.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

11


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm tính cách của nhân vật và lý tưởng xã hội
thẩm mỹ của tác giả lại có thể phân chia thành: nhân vật chính diện (nhân vật
tích cực) và nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực). Hai kiểu nhân vật này
cũng mang tính lịch sử. Trong đó, nhân vật chính diện mang trong mình phẩm
chất đạo đức phù hợp với lý tưởng xã hội thẩm mỹ của tác giả và thời đại,
được nhà văn khẳng định, đề cao. Ngược lại, nhân vật phản diện lại mang
những phẩm chất xấu xa, trái với lý tưởng đạo đức của tác giả và thời đại,
đáng lên án và phủ định.
Thứ ba, dựa vào sự phân chia loại thể theo truyền thống của Arixtôt thì
gồm có nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự, nhân vật kịch. Trong đó nhân vật trữ
tình được thể hiện chủ yếu qua thế giới tinh thần, nội tâm và cảm xúc phong
phú. Nhân vật trữ tình thường không được thể hiện qua hành động hoặc nếu có
xuất hiện hành động thì hành động đóng vai trò khơi gợi tính cảm xúc chứ
không có tác dụng thúc đẩy thành xung đột. Còn nhân vật tự sự là nhân vật
xuất hiện trong tác phẩm tự sự (truyện, tiểu thuyết, ký). Nó thường hiện lên

đầy đủ từ ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ đến thế giới nội tâm bên trong. Nhân
vật tự sự là con người đời thường tham gia vào các tình huống khác nhau của
đời sống để tạo thành chuỗi các tình tiết xung đột trong tác phẩm. Bên cạnh
đó nhân vật kịch là loại nhân vật hiện lên chủ yếu qua hành động, ngôn ngữ,
cử chỉ, lời nói và xung đột, ít được miêu tả cụ thể về ngoại hình. Tuy nhiên
trong khuôn khổ của đề tài này, người viết sẽ không bàn sâu về những loại
nhân vật này.
Ngoài các tiêu chí phân chia nhân vật ở trên còn có một tiêu chí nữa đó
là dựa vào cấu trúc của nhân vật người ta phân loại thành: nhân vật chức năng,
nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Trong phạm vi có
giới hạn của khoá luận, chúng tôi cũng không bàn sâu về những loại nhân vật
này.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

12


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

1.2. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Trong tác phẩm văn chương nghệ thuật, nhân vật ngoài chức năng quan
trọng là phương tiện để người nghệ sĩ gửi gắm ý tưởng nghệ thuật của mình
còn có vai trò quyết định tới phần lớn những yếu tố hình thức của tác phẩm
văn chương. Vì thế, có thể nói: qua mỗi yếu tố của hình thức tác phẩm, ta sẽ
thấy được cụ thể nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn. Cả ba yếu tố: kết
cấu, sự tổng hợp các biện pháp thể hiện nghệ thuật và lời nói nghệ thuật đều
tham gia vào xây dựng nhân vật ở mặt này hay mặt kia. Do vậy, việc tìm hiểu

nghệ thuật xây dựng nhân vật thực chất là xem xét, tìm hiểu ba khía cạnh đó
của hình thức.
1.2.1. Kết cấu
Theo quan niệm của nhóm tác giả của cuốn Lý luận văn học, Nxb GD,
H, 2004, kết cấu là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưmg nghệ thuật
và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng tác phẩm [5;
295].
Trong bài Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu và một cách tiếp
cận riêng, DĐVNVN, số tháng 3 và 4 năm 2000, tác giả Nắng Mai đã có một
quan niệm cụ thể hơn về kết cấu: Kết cấu là việc sắp xếp, lắp ráp chẳng
những kiến trúc trong chiều sâu, mà còn bố cục, bài trí ở bên ngoài, nhằm
tổng hợp những tương quan giữa các yếu tố của tác phẩm gắn kết lại mọi
mảnh vụn rời rạc trong số đó sao cho thành sinh thể toàn vẹn. Kết cấu là yếu
tố không thể hiện trực tiếp trên câu chữ, mà nó là chất kết dính liên kết toàn
bộ các chi tiết rời rạc thành dòng thống nhất. Trong tác phẩm, kết cấu có vai
trò của người đạo diễn thay mặt tác giả tạo nên hệ thống các hình tượng như
là kết quả của sự thống nhất hoàn thiện các yếu tố hình thức nghệ thuật.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

13


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

Từ các quan niệm tương đối giống nhau ở những nét cơ bản của kết cấu
như thế (đều là sự liên kết, lắp ráp, tổ chức các yếu tố hình thức cũng như tư

tưởng tác phẩm), theo chúng tôi việc xem xét, tìm hiểu nội dung của kết cấu
tác phẩm có thể tiến hành ở những phương diện sau:
Trước hết, kết cấu thể hiện ở việc người nghệ sĩ trong tác phẩm của
mình gắn nhân vật này với nhân vật kia, tạo ra quan hệ qua lại giữa chúng. Từ
đó các nhân vật sẽ tự bộc lộ bản chất xã hội - thẩm mỹ của mình.
Kết cấu còn là việc nhà văn gắn liền nhân vật vào hoàn cảnh môi trường
cụ thể, đặc biệt là những tình huống kịch tính, có vấn đề cho nhân vật hoạt
động. Qua đó, nhân vật sẽ thể hiện phẩm chất, nhân cách, cá tính riêng cũng
như chiều hướng con đường đời của nó.
Kết cấu đồng thời còn là việc người nghệ sĩ gắn kết thành dòng thống
nhất những điều xảy ra trước với những điều xảy ra sau trong cuộc đời mỗi
nhân vật. Điều này có tác dụng làm nổi bật vấn đề trung tâm, nội dung tư
tưởng chủ yếu của tác phẩm, cùng chiều hướng con đường đời của các loại
nhân vật.
1.2.2. Các biện pháp thể hiện nghệ thuật
Để xây dựng được các nhân vật trong tác phẩm văn chương một cách
sinh động, hấp dẫn, nhà văn phải mượn đến các thủ pháp nghệ thuật phong
phú, sao cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc càng cụ thể, càng rõ nét,
thông qua càng nhiều giác quan càng tốt. Hệ thống này được coi là thường
xuyên và đầy đủ nhất. Các biện pháp thể hiện nhân vật bao gồm bảy yếu tố:
biện pháp tả; biện pháp kể; đối thoại; độc thoại; tâm tình; triết lý - bàn luận;
biện pháp đặt nhân vật vào những hoàn cảnh xung đột - kịch tính. Việc sử
dụng những biện pháp thể hiện nghệ thuật này gắn liền với việc xây dựng hình
tượng nhân vật toàn vẹn và sinh động.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

14



Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

1.2.2.1. Biện pháp tả
Tả là một hoạt động sáng tạo của nhà văn, đòi hỏi nhà văn phải khéo
kết hợp các danh từ với các tính từ, động từ, khéo kết nối các kiểu câu sao cho
hiệu quả cuối cùng là đối tượng được miêu tả hiện lên một cách cụ thể trước
sự hình dung của bạn đọc và tác động trực tiếp vào trí tưởng tượng của người
đọc càng bằng nhiều giác quan càng tốt. Biện pháp này rất hữu dụng trong
việc cụ thể hoá đối tượng. Nó không chỉ giúp cho người đọc hình dung về hình
thức, vẻ bên ngoài của đối tượng, mà cùng với dụng ý của nhà văn còn hé mở
cả những điều thầm kín sâu xa bản chất bên trong của đối tượng.
Tuy nhiên, với từng loại nhân vật, đặc biệt với từng dụng ý nghệ thuật
và từng tài năng sáng tạo riêng, mỗi nhà văn lại có cách sử dụng biện pháp thể
hiện nghệ thuật này ở mức độ và hình thức khác nhau. Song mục đích cuối
cùng của biện pháp tả là để cho ngoại hình nhân vật, dáng vẻ và hành động,
cử chỉ của nó, môi trường thiên nhiên - xã hội bao quanh (vừa sinh ra nó, vừa
lưu giữ dấu vết của nó) hiện lên cụ thể trước sự hình dung tưởng tượng bằng
cả năm giác quan của độc giả [15; 26].
1.2.2.1. Biện pháp kể
Trong sáng tác văn học nghệ thuật, biện pháp kể liên quan trực tiếp đến
tính thời gian của tác phẩm văn chương. Giống như tả, kể cũng là một hoạt
động sáng tạo của nhà văn, cụ thể kể chính là hình thức trần thuật lại các sự
kiện, biến cố xảy ra trong quá trình phát triển của đối tượng làm cho tác phẩm
trở thành một dòng chảy các sự kiện, biến cố, chi tiết, hoạt động và làm cho
đối tượng miêu tả có một quá trình phát triển riêng, sinh động, không lặp lại.
Qua biện pháp kể, quan hệ giữa các nhân vật với môi trường hay các hành
động, cử chỉ, ý nghĩa của nhân vật được xâu chuỗi, nối kết một cách lôgic với
nhau. Nếu biện pháp tả tạo ra không gian nghệ thuật thì biện pháp kể tạo ra

thời gian nghệ thuật cho tác phẩm. Trong tác phẩm có nhiều cách kể, có thể kể
theo trình tự thời gian hoặc xáo trộn trình tự thời gian. Có thể nhà văn trực tiếp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

15


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

đóng vai trò làm người kể chuyện, nhưng cũng có thể để nhân vật kể chuyện.
Do vậy, kể không chỉ là một biện pháp thể hiện nghệ thuật đơn thuần mà còn
được nâng cao thành một phương thức tạo ra tác phẩm như một câu chuyện.
Lúc đó, các biện pháp thể hiện nghệ thuật khác chỉ đóng vai trò bổ trợ cho
biện pháp kể.
Có thể nói, kể là biện pháp thể hiện nghệ thuật chủ đạo của loại tác phẩm
tự sự.
1.2.2.3. Biện pháp đối thoại
Đối thoại trong văn chương là hình thức nhà văn để các nhân vật trò
chuyện, trao đổi, thậm chí tranh luận gay gắt với nhau về một vấn đề nào đó.
Các mối quan hệ giữa các nhân vật càng đa dạng, các nhân vật đối thoại càng
nhiều thì càng bộc lộ các đặc điểm thuộc về tính cách, cá tính, nghề nghiệp,
giai cấp, lứa tuổi, của mình... Hơn nữa, sự bộc lộ đó còn thể hiện qua nội dung
lời nói, qua cả cách nhân vật đối thoại. Biện pháp này giúp bạn đọc như nghe
thấy nhân vật nói năng với lối tư duy và ứng xử riêng trong những tình huống
cụ thể đôi khi lời đối thoại còn được tác giả giới thiệu kèm theo giọng nói,
cách nói (Nắng Mai, 2000, Tính nghệ thuật, một đối tượng nghiên cứu và
một cách tiếp cận riêng, DĐVNVN số tháng 3 + 4, 2000.)

Tuỳ mỗi loại văn, biện pháp này được sử dụng với mật độ đậm hay nhạt
khác nhau. Thơ trữ tình hầu như không sử dụng đối thoại, kịch thì sử dụng
đậm đặc đối thoại, còn các tác phẩm văn xuôi tự sự thì việc sử dụng biện pháp
đối thoại rất đa dạng, linh hoạt.
Đối thoại tạo sự khu biệt hoá, cá tính hoá các nhân vật. Có nghĩa là,
những đặc điểm riêng trong lời nói mỗi nhân vật (cách nói, lời nhân vật hay
dùng, cử chỉ, điệu bộ kèm theo), có tác dụng phân biệt người này với người
kia. Biện pháp này giúp độc giả như nghe thấy nhân vật nói năng, tư duy ứng
xử trong từng tình huống cụ thể. Đôi khi lời đối thoại bộc lộ cả quan điểm, thế
giới quan, nhân sinh quan của nhân vật.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

16


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

1.2.2.4. Biện pháp độc thoại
Để khắc hoạ rõ nét tâm lý, tính cánh nhân vật, người nghệ sĩ đã sử dụng
biện pháp độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm cho biết tiếng nói thầm thì, ý
nghĩ sâu kín chỉ riêng nhân vật với mình bên trong. Đó là lúc nhân vật thật
nhất [14; 26]. Trong tác phẩm, biện pháp này thường được sử dụng khi nhân
vật rơi vào hoàn cảnh éo le, nhiều kịch tính, xung đột, rơi vào trạng thái cô
lập, đòi hỏi nhân vật phải băn khoăn, trăn trở để đưa ra quyết định cuối cùng.
Cùng với những biện pháp khác cho thấy hình thức bên ngoài của nhân vật,
biện pháp độc thoại nội tâm hoàn thiện nhân vật ở mức độ cao hơn: đó là
chiều sâu tâm hồn nhân vật. Đây cũng là ưu thế của văn chương so với các loại

hình nghệ thuật khác. Nếu như hội họa, điêu khắc nói rõ ngoại hình vóc dáng
của đối tượng, âm nhạc chỉ tác động trực tiếp vào thính giác để người tiếp
nhận tự suy ra hoàn toàn cái hồn của đối tượng thì nhờ độc thoại nội tâm văn
chương có khả năng vượt trội trong việc miêu tả đời sống tâm lý - cái trừu
tượng khó nắm bắt của đối tượng. Những suy nghĩ tình cảm tinh tế của nhân
vật sinh động hay không tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo của nhà văn, chứ
không bị hạn chế như việc sáng tạo trong các ngành nghệ thuật khác.
1.2.2.5. Biện pháp để nhân vật tâm tình
Tâm tình là hình thức nhân vật bày tỏ thành lời những suy nghĩ tâm tư
của mình (hay của tác giả) với nhân vật khác. Thường thì lời tâm tình cũng
chính là lời đối thoại, nhưng với một sắc điệu khác, một giọng điệu khác,
điềm đạm, thâm trầm và giàu cảm xúc hơn, suy tư hơn. Qua biện pháp nghệ
thuật này, ta có cái nhìn vào chiều sâu nhân vật, thấy được niềm đam mê, nỗi
vui sướng hay tuyệt vọng, những tâm sự, bức xúc của nhân vật. Theo tác giả
Nắng Mai: biện pháp để nhân vật tâm tình dù trong thơ trữ tình hay ở kịch và
truyện cũng có tác dụng khơi sâu, đồng thời bộc lộ bản chất tâm hồn cũng như
đời sống tình cảm riêng tư của nó [15; 26].

Trường ĐHSP Hà Nội 2

17


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

1.2.2.6. Biện pháp triết lý bàn luận
Bàn luận như là đoạn trữ tình ngoại đề nảy sinh với mục đích giúp bạn
đọc thấy rõ tầm quan trọng của hành động nào đấy [15; 26].

Hình thức của biện pháp này thường là để các nhân vật tự bàn luận,
nhưng thực chất đó chính là điểm nhấn trực tiếp của nhà văn để lưu ý bạn đọc
một nội dung quan trọng nào đó. Nhà văn dừng lại để cho các nhân vật đưa ra
ý kiến nhận xét đánh giá cùng chiều hoặc trái chiều, thể hiện những điểm nhìn
phong phú về một đối tượng hoặc nội dung xã hội thẩm mỹ cụ thể. Tham gia
vào quá trình bàn luận này, người đọc sẽ tự tìm ra nội dung tư tưởng, chủ đề,
chiều sâu tư tưởng của nhà văn.
Nếu bàn luận là đoạn trữ tình ngoại đề thì triết lý được xem như một
hình thức diễn đạt ngắn gọn, độc đáo, một chân lý sống, một kinh nghiệm
sống nào đó dưới dạng những luận đề mang nội dung tự nhiên, tất yếu, có tính
quy luật. Nhà văn xoáy sâu vào những vấn đề mà mình quan tâm bình luận về
nó, từ đó khái quát những quy luật của bản chất đời sống. Triết lý có khi do
chính nhân vật nói ra (theo quan niệm của nó), cũng có khi do chính tác giả
trực tiếp diễn đạt, song đôi lúc là lời nửa trực tiếp khó phân biệt lời tác giả hay
lời nhân vật. Nhưng dù ở hình thức nào, nó cũng có tác dụng xoáy sâu vào nội
dung thông báo và bộc lộ những đặc điểm, những tính cách cá nhân.
1.2.2.7. Biện pháp tạo xung đột kịch tính
Đây là biện pháp mà ở đó người nghệ sĩ đặt nhân vật của mình vào
những tình huống xung đột mang kịch tính. Xung đột này thể hiện ở sự mâu
thuẫn giữa hai hay nhiều nhân vật với nhau. Mâu thuẫn mang tính triết học.
Nó luôn được đẩy lên, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết. Biện pháp nghệ
thuật này sử dụng triệt để mâu thuẫn để làm nguyên tắc xây dựng các mối
quan hệ tương tác giữa các nhân vật. Trong tác phẩm, khi sử dụng biện pháp
này, tác giả thường tạo dựng những tình huống, những hoàn cảnh điển hình
cao độ có các mâu thuẫn. Đó có thể là một trạng thái tình cảm cao độ, một

Trường ĐHSP Hà Nội 2

18



Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

nghịch cảnh trái ngang, một tình huống éo le trớ trêu hay sự hiểu lầm mà dẫn
đến mâu thuẫn.
Quá trình: khác biệt - mâu thuẫn - xung đột - giải toả là một mạch vận
động. Biện pháp này làm cho quá trình ấy vận động. Phẩm chất, nhân cách
của nhân vật được bộc lộ qua cách giải quyết mâu thuẫn, như thế cũng có
nghĩa là tính quy luật chiều hướng con đường đời được thể hiện rõ ràng. Có
nhiều cách giải quyết xung đột khác nhau: lời nói, hành động, cử chỉ.
Theo giới nghiên cứu, mục đích của biện pháp này là để nhân vật dễ
dàng bộc lộ cá tính cùng bản chất sâu xa của mình, vừa đem lại cho bạn đọc
cảm giác như được trực tiếp chứng kiến khoảnh khắc giàu tính xã hội thẩm mỹ
của đời sống.
1.2.3. Lời nói nghệ thuật
Lời nói nghệ thuật hay còn gọi là lời văn nghệ thuật trong tác phẩm văn
học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, H, 2006 thì: Lời văn nghệ
thuật là dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật tạo thành cơ sở
ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học (). Lời văn nghệ thuật có tính chất
cố định, tính độc lập hoàn chỉnh trong bản thân nó có tính vĩnh viễn [6; 161].
Lời nói nghệ thuật còn mang tính hình tượng, tính biểu cảm, tính tổ chức cao
và phục vụ cho cấu trúc hình tượng của tác phẩm.
Trong tác phẩm văn học, lời nói nghệ thuật bao gồm hai thành phần
chính là lời nói gián tiếp của người kể chuyện và lời nói trực tiếp của nhân vật.
Mỗi yếu tố này trong tác phẩm có đặc điểm riêng và có nhiệm vụ nghệ thuật
cụ thể khác nhau.
Lời người kể chuyện khá phổ biến ở các tác phẩm tự sự (ở đây là lời tác
giả hay nhân vật kể) là phương tiện hết sức cơ bản để bộc lộ chủ đề tư tưởng

của tác phẩm, đồng thời nêu bật tính cách của nhân vật. Nó tạo nên ở bạn đọc
một thái độ nhất định đối với vấn đề được nói tới. Ngôn ngữ người kể chuyện
đóng vai trò chủ đạo trong việc dẫn dắt câu chuyện, từ những manh nha của

Trường ĐHSP Hà Nội 2

19


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

mâu thuẫn, xung đột đến từng bước giải quyết chúng trong tác phẩm. Lời nói
trực tiếp của nhân vật (lời nhân vật đối thoại hay độc thoại) phản ánh diễn biến
của sự việc, thể hiện xung đột và sự cởi mở, thể hiện vị trí xã hội, nghề nghiệp,
tính tình, tư cách, dục vọng của nhân vật và diễn biến của nó.
ở tác phẩm văn chương, mỗi yếu tố của lời nói nghệ thuật có ý nghĩa
khác nhau nhưng cùng bổ sung, hỗ trợ cho nhau để đạt tới dụng ý nghệ thuật
của tác giả. Lời nói trực tiếp của nhân vật có vai trò khắc hoạ những đặc điểm
thuộc tính của nhân vật. Nó lại được thể hiện thông qua ngôn ngữ của tác giả.
Và chính ngôn ngữ người kể chuyện có kết hợp với lời nhân vật đưa lại tính
hoàn chỉnh thống nhất của một chỉnh thể nghệ thuật.
Nói tóm lại, qua sự phân tích ba yếu tố của hình thức tác phẩm: kết cấu,
các biện pháp thể hiện nghệ thuật, lời nói nghệ thuật như trên, chúng tôi thấy
mỗi yếu tố đều góp phần vào việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Vì vậy,
tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là tìm hiểu ba mặt thuộc hình
thức tác phẩm văn học.

Trường ĐHSP Hà Nội 2


20


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

Chương 2
Thế giới nhân vật trong tập truyện ngắn
mặt trời đồng xu của nguyễn bản
2.1. các loại nhân vật trong tập truyện ngắn mặt trời
đồng xu của nguyễn bản
Nhân vật trong tác phẩm văn chương hết sức phong phú và đa dạng. Có
nhiều cách phân loại thế giới nhân vật văn xuôi Nguyễn Bản. Hoặc theo lứa
tuổi của nhân vật (thế hệ trẻ, thế hệ trung niên, thế hệ già). Hoặc có thể phân
loại theo giới tính, theo thành phần, nghề ngiệp, xã hộiCó cách phân loại
nhân vật theo thời kì sáng tác của tác giả, gắn với cảm hứng chủ đạo một thời.
Cách phân chia nào cũng có lý và là một phương diện loại biệt để dễ nhận
diện. Tuy nhiên cũng cần tổng hợp để có một cách phân loại hợp lý và khoa
học hơn. Phải chăng đó là cách phân loại nhân vật xuất phát từ cách nhìn
nhận, quan niệm về con người và cùng với nó là khuynh hướng tìm tòi, phát
hiện những nguyên mẫu nhân vật trong thực tại đời sống gắn với những thời kì
sáng tác lớn, nhỏ của nhà văn. Có thể nói thế giới nhân vật trong tập truyện
ngắn Mặt trời đồng xu của Nguyễn Bản vô cùng phong phú, đa dạng. Song
trong khuôn khổ của một khoá luận, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào tìm hiểu một
số loại nhân vật cơ bản sau:
2.1.1. Nhân vật tha hoá
Theo Từ điển tiếng Việt, Tha hoá được hiểu là bị biến chất thành xấu
đi [17; 1126].

Nhân vật tha hoá là nhân vật suốt ngày bận rộn với những toan tính dục
vọng, ham muốn cá nhân. Và trong cuộc sống mưu sinh đó không ít kẻ ngã
gục, họ không còn giữ được cái bản chất và thiên lương trong sáng nữa. Tâm
hồn họ bị vẩn đục, suy nghĩ thì tăm tối nhỏ nhen, hành động trở nên bỉ ổi, sự
tha hoá biến chất trở thành sự thực tất yếu và phổ biến. Với tâm lý thực dụng

Trường ĐHSP Hà Nội 2

21


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

như thế, con người không chỉ tăm tối trong suy nghĩ và hành động mà còn trở
nên độc ác, lạnh lùng và tàn nhẫn.
Trong tác phẩm văn học, dạng thức nhân vật tha hoá xuất hiện tương
đối phổ biến. Dưới sự tác động của hoàn cảnh xã hội, con người dễ bị tha hoá.
Đó là quy luật và là nỗi đau quằn quại của cả nhân loại.
Trong tập truyện ngắn Mặt trời đồng xu, nhân vật tha hoá được
Nguyễn Bản xây dựng nhằm thể hiện sự hoài nghi và sự đổ vỡ niềm tin nơi
con người và cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên nhân vật tha hoá trong sáng tác
của Nguyễn Bản ít nhiều tự ý thức được sự tha hoá của mình. Nhân vật hiếm
khi bị đặt trước sự lựa chọn nghiệt ngã của cuộc sống mà được nhà văn tái
hiện như một lối sống riêng của những con người còn có khả năng giữ được
bản lĩnh trước sự tác động của môi trường sống.
ở truyện ngắn Chuồn chuồn đi đón cơn mưa, nhân vật xưng Tôi
(người chồng) là điển hình của sự tha hoá. Nhà văn Nguyễn Bản đã khéo léo
đặt anh ta bên cạnh một người vợ hoàn hảo để làm nổi bật sự tha hoá của nhân

vật. Có được người vợ như vậy, những tưởng anh ta sẽ cảm thấy tự hào, hãnh
diện và rất mực trân trọng. Song thật bất ngờ khi chính anh ta lại là căn
nguyên của sự rạn vỡ hạnh phúc gia đình. Hắn ngu muội đắm chìm trong cuộc
tình lãng mạn với người phụ nữ khác. Đồng nghĩa với nó là anh đang trượt dài
trên cái dốc của sự tha hoá. Tưởng như hạnh phúc gia đình sẽ bị phá vỡ bởi tay
người chồng. Ngược lại người vợ lại quá vĩ đại, vĩ đại đến mức chính người
chồng mất nết cũng phải khẳng định: Vợ tôi, mỗi khi nhắc đến mọi người đều
hết lời khen ngợi [3; 99]; Đấy vợ tôi như thế mà bảo tôi bỏ ư?[3; 94]. Bởi vậy
cho nên trước sự thúc dục của nhân tình là anh hãy bỏ vợ đi thì anh luôn lờ đi
cho xong chuyện. Có thể nói khuyết điểm, sự tha hoá của người chồng được
lấp đầy bằng cả một tấm lòng rất mực chu đáo, tốt bụng, nhân hậu cao cả của
người vợ. Điều đó khiến anh cảm thấy hổ thẹn và tự ý thức được sự hư hỏng và
mất nết của mình để kịp thời dừng lại. Câu chuyện kết thúc cũng là lúc cuộc

Trường ĐHSP Hà Nội 2

22


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

tình vụng trộm giữa anh và Thành tan vỡ, chỉ còn lại hình ảnh cái tổ chuồn
chuồn trong suy nghĩ. Còn tổ ấm gia đình anh được gìn giữ và sẽ được vun
đắp bởi bàn tay của hạnh phúc vợ chồng.
Giống như nhân vật người chồng trong truyện ngắn Chuồn chuồn đi
đón cơn mưa thì trong truyện ngắn Mùi tóc Thảo, người chồng cũng đang
trên đà của sự tha hoá. Xuất phát từ những kỉ niệm êm đềm về cô gái Tày lai
Mán, tiếp đó là sự xuất hiện của Thảo - cô gái cùng đoàn xe ngựa, có vẻ đẹp tự

nhiên, tình cờ và đặc biệt là mùi tóc khiến cho gã đàn ông luôn mê man, thấp
thỏm và sợ nó tuột đi, trôi đi. Anh ta hăm hở lao theo thách thức và khao khát
được chiếm lĩnh mùi tóc Thảo. Anh sẵn sàng bỏ ngoài tai lời giáo huấn của
chú Năng: Con Hân nó xích cổ mày [3; 237]. Hân chính là vợ anh, hiện đang
là bà chủ tịch Thị trấn, nhưng anh có cần gì đâu ngoài mùi tóc Thảo. Càng
ngày anh càng lún sâu vào sự tha hoá và sống buông thả cùng tình yêu đắm
say, mạnh mẽ, phóng túng rất đàn ông của mình.
Bên cạnh đó, độc giả còn bắt gặp các nhân vật tha hoá khác như: Mão
trong truyện Sông lấp, người đàn bà trong Cơn giông cuối mùa, Phượng
trong Mùa chim lợn Sự tha hoá của họ là kết quả của sự phức tạp trong xã
hội hiện đại. Trước guồng quay chóng mặt của cuộc sống, con người cũng bị
cuốn theo. Song Nguyễn Bản đủ tỉnh táo để không quá tô hồng hay bôi đen
nhân vật. Ngược lại tỏ ra rất tìm tòi, sáng tạo trong việc miêu tả kiểu nhân vật
này.
Bằng tài năng nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Bản đã gửi gắm vào đời
những chân dung nhân vật tha hoá vừa có đường nét gân guốc sắc cạnh, giàu
chất tạo hình vừa có tầm khái quát cao. Những nhân vật mang đậm dấu ấn
sáng tạo của nhà văn. Những nhân vật ấy gắn bó mật thiết với thời họ sống và
còn để lại không ít dư âm trong lòng các thế hệ bạn đọc. Xây dựng nhân vật
tha hoá, Nguyễn Bản muốn phơi bày tất cả những mặt trái của cuộc sống con
người thời hiện đại. Đồng thời đó cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh, buộc con

Trường ĐHSP Hà Nội 2

23


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn


người phải suy ngẫm để có thái độ sống đúng đắn trước những đổi thay của
cuộc sống, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường và sự chi phối của đồng
tiền. Đó chính là giá trị nhân sinh sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm tới bạn
đọc.
2.1.2. Nhân vật bi kịch
Truyện ngắn của Nguyễn Bản giống như một ngôi nhà bí ẩn. Kẻ dừng
chân đôi ba phút chỉ thấy đựơc những sự cồng kềnh, những góc nổi trội và tồi
tàn của nó, kẻ nán lại lâu sẽ nhìn thấy bên cạnh đó lẩn khuất trong cái ngóc
ngách là những nhân vật bi kịch. Họ đang phải gồng mình trước những cơn
giông của cuộc đời.
Khái niệm bi kịch đã được biết đến nhiều trong văn học. Thông
thường nhân vật rơi vào bi kịch là do sự xô đẩy của hoàn cảnh khách quan và
chủ quan. Nhân vật đứng trước sự lựa chọn hoặc sống thì phải chà đạp lên
nguyên lý, đạo đức sống hoặc muốn giữ mình trong sạch thì phải chọn cái
chết. Giờ đây bi kịch của nhân vật trong tập truyện Mặt trời đồng xu rơi vào
bi kịch vừa mang tính ngẫu nhiên vừa mang tính sắp đặt.
Theo Brecht: các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không giản đơn là
bản dập của những con người sống mà là những hình tượng khắc họa phù hợp
với ý đồ tư tưởng của tác giả. Nguyễn Bản vốn là một nhà văn trải nghiệm và
có kinh nghiệm sống phong phú. Bởi vậy mà việc khám phá chiều sâu tâm lý
con người được nhìn nhận ở một góc độ khá sắc sảo. Điều đó được thể hiện
độc đáo trong việc khai thác con người bi kịch.
Người phụ nữ lấy chồng Tàu trong truyện ngắn Nợ trần gian là nhân
vật bi kịch điển hình của tập truyện. Điểm xuất phát, đúng hơn là tình huống
bi kịch của con người rất đỗi đời thường đó là số phận hẩm hiu, lỡ làng của
người phụ nữ. Chị Bùi chỉ có một ước mơ hết sức giản dị là có một đứa con
nhưng cũng không được. Trong hoàn cảnh xã hội ấy, chị Bùi chỉ là đại diện
cho rất nhiều phụ nữ khác cùng chung cảnh ngộ. Không chỉ nhà nghèo, thiếu


Trường ĐHSP Hà Nội 2

24


Khoá luận tốt nghiệp

Phạm Thị Hào K31D Ngữ văn

hụt về nhan sắc mà bi kịch đau đớn nhất là: làm đàn bà mà không được làm
mẹ, nếu muốn kiếm con phải mất một chỉ vàng, nhưng cũng chỉ được của
thằng đánh giậm [3; 12]. Trước dòng đời đưa đẩy, chị đã trôi dạt nơi xứ người
và lấy một anh chồng Tàu. Cuộc sống tuy nghèo khổ song chị còn có niềm an
ủi là hai đứa con trai; đồng nghĩa với ước nguyện làm mẹ của chị đã thành.
Chỉ có điều hạnh phúc ấy rất mỏng manh, nó có thể tuột khỏi tầm tay lúc nào
không hay.
Hay trong truyện ngắn Mặt trời đồng xu, anh thanh niên vì ôm ấp
mộng văn chương và vì sự bồng bột của tuổi trẻ mà rơi vào bi kịch của
một trí thức. Anh ta phải đem danh giá bố mẹ, ông bà ra tín chấp đổi lấy một
bữa ăn. Kỉ niệm cuối cùng còn sót lại chỉ là mặt trời đồng xu và bữa cơm ngon
nhất đời. Còn nhân vật Hoàng trong truyện ngắn ánh trăng vì một đời mải
mê kiếm tìm hình mẫu người phụ nữ lý tưởng từ thuở thiếu niên cũng đã rơi
vào bi kịch.
Ngoài ra, chúng ta còn bắt gặp kiểu nhân vật bi kịch trong các truyện
ngắn khác như: ông Tư trong Chuyến ly hương cuối đời, cô gái trong Tầm tã
mưa ơi, người phụ nữ trong Cơn lũ Tuy nhiên bi kịch của các nhân vật
trong sáng tác của Nguyễn Bản khác biệt so với bi kịch của Chí Phèo trong
truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ở tính chất và mức độ. Bi kịch trong
truyện Chí Phèo là khi nào xã hội thực dân phong kiến còn tồn tại thì chừng
ấy còn có những Chí Phèo khác. Còn bi kịch trong sáng tác của Nguyễn Bản

là khi nào con người còn chưa vượt qua cái nhỏ nhen, ích kỉ và thù hận thì
chừng ấy con người sẽ tự đẩy mình vào vòng luẩn quẩn. Qua sáng tác của
Nguyễn Bản, chúng ta thấy một điều: chính con người mới là nguyên nhân
trực tiếp gây ra bi kịch của mình và muốn thoát ra khỏi bi kịch đó đòi hỏi con
người phải hành động. Con người ta chỉ trực tiếp trải qua điều đó mới thấu
hiểu và nhìn nhận nó đúng đắn. Cô Bùi trong Nợ trần gian phải trải qua cuộc

Trường ĐHSP Hà Nội 2

25


×