Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.08 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG :
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠO LẬP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU
TƯ.
I. TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ.
1. Nguồn vốn đầu tư:
2. Phân loại vốn đầu tư:
3. Tạo lập vốn đầu tư:
4. Thu hút vốn đầu tư:
5. Sử dụng vốn đầu tư:
II. TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ ĐẾN CHẤT
LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TÊ.11/18/2008
1. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và do đó tác
động tích cực đến tăng trưởng:
2. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến năng suất nhân tố tổng hợp và do
đó tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế:
3. Tác động của của việc sử dụng vốn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH – HĐH:
4. Tác động của hoạt động sử dụng vốn đầu tư đến khả năng nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế:
5. Tác động của vốn đầu tư đến chất lượng và giá thành sản phẩm:
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ.
1. Tính thuận chiều trong mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn
đầu tư:
2. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là cơ sở duy trì sự tăng trưởng kinh tế, đẩy
mạnh tạo lập vốn và tăng khả năng thu hút vốn:
PHẦN II : THỰC TRẠNG TẠO LẬP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 – 2008.
I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG:
1. Đầu tư trong nước :
1.1.Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước:
1.2. Vốn đầu tư từ doanh nghiệp:


1.3. Vốn đầu tư từ tiết kiệm dân cư:
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
2.2. Tình hình triển khai thực hiện dự án đầu tư nước ngoài:
II. Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư:
1. Khả năng tạo lập vốn ngày càng được cải thiện tạo điều kiện tốt để thu hút
vốn ngày càng nhiều.
2. Khả năng thu hút vốn ngày càng gia tăng:
2.1 Thực trạng tình hình thu hút vốn của nước ta :
2.2 Nguồn vốn thu hút đầu tư ngày càng gia tăng cả về chất lẫn lượng:
2.2.1 Nguồn trong nước:
2.2.2 Nguồn nước ngoài:
2.2.3 Các nguồn vốn khác:
3. Sử dụng vốn chưa hiệu quả hạn chế khả năng tạo lập thu hút vốn.
1
3.1 Thể hiện qua hệ số ICOR của Việt Nam
3.2 Thể hiện qua tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp( TFP):
3.3 Ảnh hưởng của quá trình sử dụng vốn đến tạo lập và thu hút vốn:
3.3.1 Tác động của việc sử dụng vốn hiệu quả đến khả năng tích lũy vốn và thu
hút vốn:
3.3.2 Sử dụng nguồn vốn hiện nay của Việt Nam chưa thật sự hiệu quả hạn chế
khả năng tạo lập và thu hút vốn:
PHẦN 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO MỐI QUAN HỆ CỦA TẠO LẬP, THU HÚT
VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ.
I. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010:
1. Mục tiêu và quan điểm phát triển kinh tế đến năm 2010:
1.1 Mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam đến 2010:
1.2 Quan điểm phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010:
2. Dự báo nhu cầu đầu tư và yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế
Việt Nam đến 2010:
II. Giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư:

1. Giải pháp chung:
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập vốn:
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư:
4. Giải pháp nâng cao sử dụng nguồn vốn đầu tư nhằm góp phần nâng cao
chất lượng tăng trưởng Việt nam đến 2010, tạo điều kiện tạo lập và thu hút vốn đầu
tư:
4.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư:
4.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước:
4.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn nước ngoài :
4.4 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động:
2
Lời mở đầu:
Một nền kinh tế để có thể tồn tại và phát triển thì phải có sự tăng trưởng. Theo nghĩa
chung nhất thì tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định ( thường là một năm). Tăng trưởng sẽ kéo theo sự phát triển của các yếu
tố khác. Một nền kinh tế muốn có tăng trưởng thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, một trong
những yếu tố quan trọng nhất là vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một trong những nhân tố đầu vào
của quá trình sản xuất cũng như mọi hoạt động trong nền kinh tế, nó có vai trò đặc biệt quan
trọng đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy yêu cầu hiểu rõ về vốn đầu tư, các nguồn vốn đầu tư
là vô cùng quan trọng. Một trong những đòi hỏi đó chính là việc nắm bắt rõ các quá trình
tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư, cũng như mối quan hệ giữa chúng. Nắm bắt được
yêu cầu đó nên nhóm chúng em chọn đề tài: “mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử
dụng vốn đầu tư. Lấy thực tế ở Việt nam để chứng minh.”
Trong quá trình hoàn thiện đề tài, chắc chắn sẽ có những thiếu sót do nhân tố khách
quan cũng như các nhân tố chủ quan không thể tránh khỏi. Và để hoàn thành đề tài này
chúng em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của: PGS-TS Từ Quang
Phương và TS Phạm Văn Hùng.
3
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠO LẬP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU


I. TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ:
1. Nguồn vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là một bộ phận cấu thành tổng vốn, là một trong những nhân tố đầu vào
của quá trình sản xuất cũng như mọi hoạt động trong nền kinh tế, xét theo nghĩa hẹp, vốn
đầu tư được xem như là khoản tích lũy, là phần phần thu nhập chua tiêu dùng. Xét theo
nghĩa rộng “vốn” ở đây bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả
quan hệ đã tích lũy của cá nhân, doanh nghiệp hay quốc gia. Vốn nói chung và vốn đầu tư
phát triển nói riêng có một số đặc trưng cơ bản như: (1) vốn đầu tư luôn gắn với quyền sở
hữu, thuộc quyền sở hữu của một chủ thể nhất định.(2) vốn đầu tư có chức năng sinh lời.
(3) vốn đầu tư phát triển chỉ thực sự có hiệu quả khi được tích tụ đến một mức độ nhất định.
(4) vốn đầu tư luôn có giá trị về mặt thời gian. (5) vốn đầu tư phát triển được thể hiện dưới
các hình thức khác nhau và đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Chính vì vậy, vốn có vai
trò rất quan trọng, là yếu tố cần thiết cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong hiện
tại cũng như trong tương lai. Bài học của những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã
khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố vốn đến phát triển kinh tế, đến sự nghiệp hiện đại
hóa đất nước. Vốn là điều kiện để ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ
tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, khai thác và sử
dụng hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế.
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm như sau: Vốn đầu tư là tiền tích lũy
của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân và tiền huy
động từ các nguồn lực khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm
duy trì tiềm lực sản xuất hiện có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh cũng
như các hoạt động sinh hoạt đời sống xã hội
2. Phân loại vốn đầu tư:
Vốn đầu tư được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau:
- Theo công dụng của các kết quả đầu tư: Vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư cho
sản xuất và phi sản xuất. Vốn đầu tư cho sản xuất là sồ tiền cần thiết để có thể thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm cho xã hội. Vốn đầu tư phi sản xuất là số
tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động khác cũng như các hoạt động có tính chất công ích,
như chăm sóc sức khỏe cộng đồng, y tế, giáo dục… Dù ở lĩnh vực nào sản xuất hay phi sản

xuất, kết quả do vốn đầu tư đem lại thông qua hoạt động đầu tư đều góp phần tạo ra tiềm
lực mới cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
- Theo mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế: vốn đầu tư có thể xem xét
theo cơ cấu trong nền kinh tế. Vốn đầu tư phân chia theo cơ cầu ngành kinh tế, vùng lãnh
thổ, theo các thành phần kinh tế … Khi nghiên cứu cơ cấu vốn đầu tư theo các tiêu thức này
có thể đánh giá được vai trò của đầu tư trong việc hình thành và chuyển dịnh cơ cấu kinh tế.
- Theo nguồn hình thành: Vốn đầu tư có thể phân thành vốn đầu tư trong nước và vốn
đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước bao gồm khoản tích lũy từ ngân sách, của doanh
nghiệp và tiền tiết kiệm của nhân dân.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội cũa mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho
các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng và an ninh, hỗ trợ cho các dự
án công cộng, hoặc chi cho công tác lập và thực hiện các dự án qui hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
4
Vốn của các doanh nghiệp, bao gồm vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các
doanh nghiệp tư nhân hay dân doanh. Các doanh nghiệp sử dụng vốn của mình để thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động khác được
pháp luật cho phép để phục vụ xã hội, cộng đồng.
Nguồn vốn tiết kiệm của nhân dân. Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Quy mô
nguồn vốn này phụ thuộc nhiều vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình, vào trình độ
phát triển của đất nước( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ
tiết kiệm thấp), tập quán tiêu dùng của dân cư, các chính sách của nhà nước như lãi suất huy
động tiền gửi, thuế thu nhập, các khoản đồng góp đối với xã hội.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nguồn vốn nước ngoài gồm vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài( FDI – Foreign Direct Investment) và vốn đầu tư gián tiếp( FPI –
Foreign Portfolio Investment).
Tóm lại dù phân chia theo tiêu thức nào thì xét cho cùng vốn đầu tư cũng có nguồn
gốc từ tiết kiệm. Theo J.M. Keynes – nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, trong cuốn “Lý

thuyết việc làm, lãi suất và tiền tệ”, trên góc độ nền kinh tế “tổng vốn đầu tư bằng tổng tiết
kiệm”. Ông viết: “ Xết về tổng thể, số lượng dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà chúng
ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần tăng thêm vào trang thiết bị sản xuất mà chúng
ta gọi là đầu tư”.
3.Tạo lập vốn đầu tư:
Tạo lập vốn đầu tư bao gồm các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, tâp
thể, doanh nghiệp, chính phủ, … các thành phần kinh tế . Các hoạt động này nhằm tạo ra
giá trị gia tăng cho nền kinh tế và từ đó hình thành nên nguồn tích lũy hay tiết kiệm.
Theo nghĩa chung nhất Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập sau khi tiêu dùng.
Vai trò của tạo lập vốn đầu tư:
Tạo lập vốn đầu tư có trò quan trọng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện
cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Tạo lập vốn đầu tư là nguồn hình thành nên tiết kiệm, Trong tác phẩm “của cải của
các dân tộc”( 1776), Adam Smith, một đại diện của trường phái kinh tế học cổ điển đã
khẳng định: “ Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm
để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không
có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Theo quan điểm của K. Max, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản
xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Hay nói cách khác nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự
gia tăng sản xuất và tích lũy của nền kinh tế.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” John
Maynard Keynes đã chứng minh được rằng đầu tư bằng tiết kiệm, và ông chỉ ra được rằng
đầu tư có tác động trực tiếp làm tăng tổng sản lượng quốc dân tức là có tác động trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế.
Các phương pháp tạo lập vốn đầu tư:
Đứng trên góc độ vĩ mô có thể tạo lập vốn đầu tư thông qua tổng sản phẩm quốc dân,
tổng sản phẩm quốc dân tăng sẽ là điều kiện trực tiếp để tăng tích lũy. Đây là kênh tạo lập
có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra tích lũy cho nền kinh tế. Sở dĩ nó có vai trò quan
trọng như vậy là vì nó tác động trực tiếp đến tích lũy của một quốc gia, tổng sản phẩm quốc

dân sau khi trừ đi tiêu dùng sẽ là phần tích lũy của nền kinh tế. Như vậy ta có thể tăng tích
lũy thông qua hai cách. Thứ nhất: với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân không đổi thì tích
lũy chỉ được tăng lên khi tiêu dùng giảm. Thứ hai: với điều kiện tổng sản phẩm quốc dân
5
thay đổi thì khi tổng sản phẩm quốc dân tăng lên thì tích lũy trong nền kinh tế sẽ tăng với
mức tiêu dùng cố định, hoặc tiêu dùng tăng nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng tích lũy.
Như vậy tạo lập qua tổng sản phẩm quốc dân sẽ tạo lập được lượng vốn lớn về mặt chất
cũng như lượng, vì thế nhiệm vụ đặt ra là nên phát huy vai trò của kênh tạo lập này để có
thể thực hiện được các mục tiêu cho đầu tư tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đứng trên góc độ vi mô có thể tạo lập vốn đầu tư thông qua các doanh nghiệp, các cá
nhân và hộ gia đình. Các nhân tố kinh tế này sẽ trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh và sẽ trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, tức là tích lũy của nền kinh
tế sẽ tăng lên. Thực tế ngày càng cho thấy vai trò của các nhân tố này ngày càng quan trọng
trong việc tạo lập vốn, các nhân tố này sẽ là điều kiện cơ bản và lâu dài cho việc tạo lập các
nguồn vốn một cách bền vững.
4. Thu hút vốn đầu tư:
Thu hút vốn đầu tư bao gồm các hoạt động, biện pháp và chính sách nhằm đưa
nguồn vốn từ tích lũy trong nền kinh tế sang đầu tư.
Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư:
Thu hút vốn đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, tuy nhiên việc thu hút vốn đầu tư không phải là dễ dàng mà nó còn phụ thuộc vào
một số nhân tố như sau
Thứ nhất:như chúng ta đã biết, đầu tư là hành động bỏ vốn ngày hôm nay để thu lại
lợi nhuận trong tương lai, việc bỏ vốn của nhà đầu tư sẽ phụ thuộc nhiều vào môi trường
đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan trọng. Theo nghĩa chung nhất
môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư. Có
nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế, môi trường đầu tư có
thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm.
Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng kỉ thuật phục vụ cho
sự phát triển kinh tế, gồm: hệ thống hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không,

cảng biển, hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng). Môi trường mềm bao gồm: Hệ thống
các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc biệt là các vấn
đề liên quan đến chế độ đối xử giải quyết các tranh chấp khiếu nại); Hệ tjoongs các dịch vụ
tài chính – ngân hàng, kế toán và kiểm toán …
Mọi hoạt động đầu tư suy ra cho cùng là để thu lợi nhuận, vì thế môi trường đầu tư
hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại
chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu tư của địa bàn được
đầu tư, điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng, mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính –
pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở cửa nền kinh tế, sự phát triển của
hệ thống thị trường… Các nhân tố trên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy để
nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư nhât thiết phải quan tâm xử lý đồng
bộ các yếu tố ảnh hưởng trên
Thứ hai: mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp dịch vụ
phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh, mức độ cạnh tranh của thị trường trong
nước cũng ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn đầu tư. Mức độ phát triển về quản lý kinh tế
vĩ mô thấp dẫn đến các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục
hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp, …là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng
hoảng. Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi
phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao. Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng
lao động, tài chính cũng là những yếu tố rất cần để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tính
6
cạnh tranh của các nước chủ nhà sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nhà
đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình.
Bên cạnh đó, môi trường luật pháp và chính sách đầu tư là một trong những điều
đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi lựa chọn thị trường đầu tư. Bởi quá trình đầu tư
liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài, nên cần một môi trường
pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một
cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bào
sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao.

Điều kiện để thu hút vốn đầu tư:
Thứ nhất, tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế.
Xét trong dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển
vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được
nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với cả vốn đầu tư trong nước
cũng như nước ngoài. Nó thể hiện nguyên tắc mang tính chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư:
Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Thứ nhất, với
năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế sẽ có khả năng gia
tăng. Khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy dộng được cải thiện. Thứ hai,
triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu
tư nước ngoài.
Thứ hai, đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Đây được coi là điều kiện tiên
quyết cho mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ
mô, chính trị xã hội và môi trường kinh doanh ổn định. Đối với vốn đầu tư nước ngoài còn
yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận vốn đầu tư
Thứ ba, xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô, để có thể huy động
các nguồn vốn cần có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ trên cơ sở tính toán
tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút và cung ứng vốn
Thu hút vốn đầu tư có vai trò như thế nào?
Cũng như tạo lập vốn đầu tư thu hút vốn đầu tư có vai trò quan trọng đến tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên tác động của nó cũng là gián tiếp, nó không trực tiếp tiến hành đầu
tư mà nó thu hút các nguồn tích lũy trong nền kinh tế tạo thành vốn đầu tư, vốn đầu tư là
yếu tố quan trọng cho việc thực hiện hoạt động đầu tư làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Nếu không có hoạt động thu hút vốn thì nguồn tích lũy trong nền kinh tế không được
đưa vào sử dụng, điều này dẫn đến tình trạng không có nguồn vốn đầu tư tái sản xuất xã hội
và tất yếu là nền kinh tế sẽ không tăng trưởng. Mặt khác nếu không có hoạt động thu hút
vốn thì việc tạo lập vốn đầu tư sẽ không còn ý nghĩa gì nữa, vì vậy thu hút vốn đầu tư là cơ
sở cho tạo lập và là điều kiện cho sử dụng vốn đầu tư.
Các công cụ thu hút vốn đầu tư

5. Sử dụng vốn đầu tư:
Sử dụng vốn đầu tư bao gồm các hoạt động phân bổ, quản lý và giám sát quá trình chuyển
biến của vốn từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất dưới dạng các kết quả đầu tư nhằm
phục vụ trực tiếp cho quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.
Vai trò của sử dụng vốn đầu tư:
Cơ chế phân bổ vốn, cơ chế quản lý và giám sát hoạt động đầu tư sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp và cơ bản đến hiệu quả đầu tư và chất lượng tăng trưởng của mỗi quốc gia. Cơ chế
phân bổ vốn hiểu quả sẽ giúp cho quá trình điều tiết vốn đến được đúng địa chỉ thực sự nhu
cầu sử dụng vốn, giúp nền kinh tế chuyển dịch vốn từ nơi dư thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử
dụng kém hiểu quả sang nơi hiệu quả hơn. Cơ chế quản lý công khai và minh bạch sẽ giúp
7
cho quá trình giám sát thực hiện đầu tư được thực hiện triệt để và từ đó sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là hiệu quả sử dụng một bộ phận nguồn lực đầu vào rất
quan trọng của nền kinh tế, là thước đo trình độ tổ chức quản lý và khai thác, sử dụng vốn
đầu tư phát triển vào các hoạt động kinh tế nhằm tối đa hóa lợi ích của chủ đầu tư và các lợi
ích kinh tế xã hội khác với chi phí thấp nhất. Hiệu quả đầu tư phản ánh mối quan hệ so sánh
giữa kết quả đạt được với tổng số vốn đầu tư phát triển đã được sử dụng để tạo ra kết quả
đó. Hiệu quả vốn đầu tư có thể được đo bằng các chỉ tiêu trực tiếp (ví dụ : GDP/VĐT ) và
các chỉ tiêu gián tiếp ( ví dụ : hệ số ICOR),hiệu quả tài chính và hiệu quả Kinh tế - xã hội.
Với những ý nghĩa trên, có thể thông qua chỉ tiêu hiểu quả sự dụng vốn đầu tư – bộ phận
nguồn lực đầu vào rất quan trọng để phát triển Kinh tế xã hội để đánh giá chất lượng tăng
trưởng kinh tế.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
i) Phương pháp phân tích hệ số Icor: Nhiều mô hình tăng trưởng kinh tế tập trung nghiên
cứu mối quan hệ giữa đầu tư (nhân tố đầu vào) với tăng trưởng kinh tế. Trong đó, mô hình
Horrod – Domar là một trong nhưng mô hình tươn đối điển hình. Trong mô hình này không
xem xét đến các yếu tố như lao dộng, tiến bộ công nghệ và các yếu tố phản anh chất lượng
tăng trưởng khác. Tuy nhiên trông qua việc phân tích mối quan hệ giữa vốn đầu tư và và

quy mô tăng trưởng cũng có thể gián tiếp đánh giá được chất lượng tăng trưởng của nền
kinh hay hiệu quả sự dụng vốn của một quốc gia.
G = ∆Y/Y = ∆Y/Y * ∆K/K = ∆Y/∆K*∆K/Y
G = 1/ICOR*I/Y
ICOR = I/∆Y
Trong đó G là tốc độ tăng trưởng kinh tế; ∆Y là mức gia tăng sản lượng; Y là quy mô
sản lượng; ∆K là mức gia tăng vốn đầu tư; K là tổng quy mô vốn đầu tư của nền kinh tế
ICOR phản ánh, để tăng thêm một đơn vị sản lượng cần tăng bao nhiêu đơn vị vốn đầu
tư. Tại mỗi quốc gia, trong một giai đoạn nhất định nếu các biến số khác không đổi, ICOR
gia tăng cho thấy: mỗi đơn vị sản lượng đầu ra cần nhiều vốn đầu tư hơn, do đó, hiệu quả
cận biên của một đơn vị vốn đã bị suy giảm. Ở một mức độ nhất định, điều này phản ánh
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm, chất lượng tăng trưởng có xu hướng đi xuống. Tuy nhiên
để đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn qua ICOR cần phải phân tích phối hợp với các chỉ
tiêu khác như: chỉ tiêu TFP, giá thành sản phẩm, …
ii) Phương pháp phân tích năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).
Để tính chỉ tiêu TFP có thể áp dụng phương pháp do tổ chức năng suất châu Á đưa
ra với công thức có dạng:
I
TFP
= I
Y
- (α.I
K
+ βI
L
)
Trong đó:
I
Y
là tốc độ gia tăng sản lượng

I
K
là tốc độ gia tăng của vốn
I
L
là tốc độ gia tăng của lao động
α, β là hệ số đóng góp của vốn và lao động đến tăng trưởng
Khi áp dụng công thức trên cần lưu ý là, do đặc điểm hạch toán của Việt Nam, thu
nhập lấy từ sổ hạch toán theo sổ sách hoặc có trong số liệu thống kê mới chỉ gồm phần thu
nhập chính của họ( ở đây gọi là thu nhập trực tiếp) còn một số khoản thu nhập dưới dạng
khác như tiền đóng góp bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp, đơn vị đảm nhận,
tiền mua sắm quần áo bảo hộ lao động … ( có thể gọi là các khoản thu nhập khác) thì
thường chưa được tính vào thu nhập. Thực tế đó làm cho các hệ số α, β tính theo số liệu
8
hiện có sẽ bị sai lệch ( β bị thu hẹp còn α bị cường điệu). Vì vậy, để phản ánh chính xác
mức độ đóng góp của lao động và vốn trong quá trình tạo ra kết quả sản xuất, hệ số β phải
được tính trên cơ sở thu nhập đầy đủ của người lao động ( bao gồm cả thu nhập trực tiếp và
thu nhập khác) theo công thức:
β = ( thu nhập đầy đủ của người lao động)/(giá trị gia tăng)
α = 1 – β
Trên thực tế, do chỉ có số liệu thu nhập trực tiếp nên không thể xác định thu nhập
đầy đủ bằng cách cộng thu nhập trực tiếp với thu nhập khác phải tính toán gián tiếp qua hệ
số điều chỉnh sau:
Thu nhập đầy đủ = Thu nhập trực tiếp x hệ số điều chỉnh
Hệ số điều chỉnh = Tỷ số giữa thu nhập đầy đủ và thu nhập khác được
tính toán trên phạm vi số liệu điều tra chuyên đề ở phạm vi hẹp vào một
năm nào đó rồi dùng cho nhiều năm
II. TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA VIỆC SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ ĐẾN CHẤT
LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG KINH TÊ:
1. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và do đó tác

động tích cực đến tăng trưởng:
Sử dụng hợp lý vốn đầu tư là việc sử dụng đúng mục đích, tiến độ và yêu cầu đầu tư,
được xem xét cả trên phương diện doanh nghiệp và nền kinh tế, liên quan đến mọi khâu
trong quá trình đầu tư, từ việc huy động, phân bổ vốn đến việc quản lý sử dụng. Quá trình
sử dụng vốn đầu tư liên quan trực tiếp đến các chính sách tập trung và phân bổ vốntrong
nền kinh tế. Các chính sách, cơ chế huy động và phân bổ vốn hợp lý không chỉ góp phần
làm gia tăng quy mô vốn trong nền kinh tế mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gia tăng
mức độ đóng góp của nhân tố vốn trong tốc độ tăng trưởng, do đó, nâng cao được chất
lượng tăng trưởng. Ngược lại, các chủ trương, chính sách đầu tư không hợp lý, năng lực
quản lý yếu kém có thể dẫn đến sự mất cân đối trong huy động các nguồn lực, hiệu quả và
mức độ đóng góp của các nguồn lực không tương xứng với tiềm năng, dẫn đến những tác
động tiêu cực trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra chất lượng tăng trưởng không cao. Chẳng
hạn, với chính sách bao cấp trong đầu tư( qua chế độ cấp phát vốn, tín dụng …) một mặt sẽ
tạo ra sự khan hiếm và lãng phí vốntrong một số đối tượng được bao cấp, phân bổ vốn
không hợp lý và dẫn đễ hiệu quả đầu tư không cao.
Chính sách đầu tư của một quốc gia, năng lực quản lý hoạt động đầu tư của các cấp.
các yếu tố của môi trường đầu tư và yếu tố thể chế trong nền kinh tế thị trường có tác động
mạnh đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và các nguồn lực khác và sau cùng tác động đến
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
2. Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến năng suất nhân tố tổng hợp và do
đó tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế:
Năng suất nhân tố tổng hợp ( Total Factor Productivity – TFP) là chỉ tiêu phản ánh
kết quả sản xuất do sử dụng hiệu quả nhân tố vốn và lao động( Các nhân tố hữa hình – được
xác định bằng số lượng), do tác động của các yếu tố vô hình như cải tiến quản lý, đổi mới
công nghệ. Hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ lao động … Năng suất nhân tố tổng hợp
cho biết mức độ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của các yếu tố đầu vào bao gồm yếu tố
vốn đầu tư, lao động và các yếu tố ngoài hai yếu tố này.
Sử dụng vốn đầu tư ( một nhân tố đầu vào) hiệu quả có ảnh hưởng đến mức tăng
giảm của TFP và do đó, đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tác động của việc sử dụng vốn
đầu tư dến chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp không chỉ gồm tác động trực tiếp mà còn có

sự tác động gián tiếp thông qua việc đầu tư vốn vào nhân tố lao động( một yếu tố đầu vào
9
hữu hình khác) và vào các yếu tố vô hình như nâng cao trình độ quản lý, cải thiện môi
trường thể chế … Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trực tiếp làm tăng năng suất
lao động và ảnh hưởng nhất định đến năng suất nhân tố tổng hợp do nâng cao trình độ tay
nghề, hợp lý hóa quá trình sản xuất, tổ chức lao động … Từ đó có tác động đến chất lượng
tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, TFP chỉ có thể tăng nhanh khi chất lượng nguồn nhân lực
gia tăng.
Sử dụng vốn đầu tư hợp lý nhằm gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp không chỉ phụ
thuộc vào quy mô vốn đầu tư vào giáo dục đào tạo để nâng cao chất lượng thể chất và tinh
thần của nguồn nhân lực mà còn liên quan chặt chẽ với việc tạo cơ hội bình đẳng giữa
những người lao động trông nền kinh tế. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới đối với 85
quốc gia trên phạm vi toàn thế giới cho thấy những quốc gia thuộc nhám thu đầu người cao
nhất là những quốc gia tạo được cơ hội giáo dục và đào tạo bình đẳng nhất. Hàn Quốc là
quốc gia tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ nhất về sự bình đẳng các cơ hội giáo dục trong
dân cư suốt 3 thập kỷ qua cũng là quốc gia đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục với quy mô
GDP đứng thứ 10 thế giới và đã chính thức được rút ra khỏi danh sách các nước đang phát
triển.
Để tăng năng suất nhân tố tổng hợp cần phải có những chính sách huy động tổng cái
lực trong nền kinh tế, tạo điều kiện phát huy tiềm lực và cơ hội đầu tư từ nhiều đối tượng và
thành phần kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy, các cơ hội đầu tư và sự phân bố bình đẳng
cơ hội đầu tư sẽ được phát huy trong điều kiện mở cửa hội nhập, tri thức phát triển, khoa
học công nghệ tiên tiến. Mở cửa hội nhập sẽ mở rộng cơ hội huy động nguồn lực và tạo
điều kiện phân bố, sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn. Công nghệ tiên tiến sẽ trực tiếp
tăng năng suất, cải tiến phương pháp sản xuất đạt hiệu quả cao và hơn hết nó tác động tích
cực đến việc gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp.
3. Tác động của của việc sử dụng vốn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH – HĐH:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại với nhau trong không gian và thời gian, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất

định, được thể hiện cả về mặt định tính và định lượng, phù hợp với mục tiêu đã xác định
của nền kinh tế. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý, hiệu quả theo cách đầu tư trọng tâm trọng điểm
trên cơ sở qui hoạch, kế hoạch đầu tư, xây dựng một cơ chế đầu tư hợp lý có tác dụng quan
trọng trong việc chuyển định, đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, vùng, đổi mới cơ cấu theo các
thành phần kinh tế, cơ cấu kih tế thành thị nông thôn … đồng thời góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cao. Nói cách khác, kết quả của hoạt động sử dụng vốn đầu hợp lý là sự thây
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phát triển toàn diện hơn và theo hướng
CNH, HĐH. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
4. Tác động của hoạt động sử dụng vốn đầu tư đến khả năng nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế được đánh giá qua năng
lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp và nền kinh tế tạo ra. Sử dụng vốn
đầu tư bất hợp lý, không hiệu quả, công tác qui hoạch, kế hoạch đầu tư còn nhiều yếu kém
dẫn đến chất lượng thấp, giá thành sản phẩm cao và năng lực cạnh tranh thấp. Trên góc độ
đầu tư, để nâng cao năng lực cạnh tranh, một trong các yếu tố then chốt có tính đột phá là
thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn và tăng cường tính cạnh tranh giã các nguồn vốn huy
động. Bản thân các nguồn vốn, một trong những nguồn lực cơ bản cho đầu tư, khi được đặt
trong môi trường cạnh tranh và có cơ chế huy động và phân bổ vốn theo tín hiệu của thị
10
trường thì hiệu quả đầu tư mới được chú trọng đúng mức, do đó chất lượng tăng trưởng mới
được đề cao.
Đặc tính cố hữu của nhiều nền kinh tế đang phát triển là thiếu vốn, thiếu kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, thiết bị và máy móc lạc hậu dẫn đến năng suất, chất lượng thấp và
giá thành cao. Công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư yếu kém, chưa xuất phát từ nhu cầu thị
trường, khả năng dự báo kém … Do hiệu quả và hiệu lực cảu quy hoạch dẫn đến tính kết
nối, sự liên kết giữa các ngành, các dự án trong quá trình sản xuất hạn chế. Sản phẩm sản
xuất ra bị ứ đọng gây lãng phí các nguồn lực xã hội. Nhiều hàng xuất khẩu là nông, lâm,
thủy sản năng lực cạnh tranh yếu do không có chiến lược đầu tư dài hạn … Tất cả đều là
những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh
tế.

5. Tác động của vốn đầu tư đến chất lượng và giá thành sản phẩm:
Chất lượng và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt chất của
tăng trưởng kinh tế. Chất lượng và giá thành sản phẩm lại chịu sự tác động lớn của hoạt
động tiết kiệm, chống lãng phí thất thoát vốn và việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Cơ chế huy động và phân bổ vốn đầu tư hiệu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng và giá thành sản phẩm sản xuất. Khi cơ chế huy động vốn được thực hiện theo
phương thức phi thị trường thì khả năng huy động các nguồn lực bị hạn chế, chất lượng
nguồn lực không đảm bảo, dẫn đến tình trạng khan hiếm giả tạo và sử dụng các nguồn lực
lãng phí. Do đó phí sử dụng vốn không được đánh giá đúng làm cho bản thân người sử
dụng vốn không quan tâm đến khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn sủ dụng. Đầy là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến chất lượng của các công trình xâu dựng không đảm bảo, sản phẩm
sản xuất ra chất lượng thấp. Sự lãng phí trong sủ dụng vốn sẽ dẫn đến giá thành của các sản
phẩm cao.
Có chế huy động và phân bổ vốn kém hiệu quả thường đi liền với chính sách bao cấp
vốn trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước cho đầu tư. Việc tồn tại cơ chế xin – cho thuê
hoặc mức độ thấp hơn là các chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho đầu tư dưới các hình thức khác
nhau là nguyên nhân dẫn đến tâm lý ỷ lại, không phát huy tiềm năng nội sinh của các chủ
thể đầu tư trong nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã thừa nhận, mức độ bao cấp cho đầu tư
càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng thấp. Khi các doanh nghiệp, các nhà đầu tư còn có
thể trông chờ được bao cấp, ưu đãi vốn cho đầu tư thì họ vẫn không nhiệt tình tham gia huy
động vốn trên thị trường, vì họ biết rằng mỗi đồng vốn huy động tại đây họ đều phải trả giá.
Nguồn vốn huy động không phải trả giá hoặc trả không đúng với giá trị của chúng sẽ dẫn
đến những thất thoát, lãng phí và đặc biệt là các chủ đầu tư không phải chủ sở hữu vốn sẽ
không quan tâm đến cải tiến, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế cả
về mặt số lượng lẫn chất lượng.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TẠO LẬP, THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ:
Một nền kinh tế muốn có tăng trưởng thì cần có vốn để đầu tư tái sản xuất xã hội hay
nói cách khác vốn là điều kiện quan trọng hàng đầu quyết định quy mô và tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Đối với một doanh nghiệp, hoạt động trong nền kinh tế thị trường tức là

luôn phải đối diện với sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ, và không phải là đối thủ nào
cũng dễ chơi. Do đó các doanh nghiệp luôn luôn phải làm mới mình tức là phải đầu tư vào
khoa học công nghệ, quy mô nhà xưởng, con người …, vì vậy yêu cầu về vốn là vô cùng
quan trọng đối với các doanh nghiệp, vốn là chìa khóa cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Trong vốn đầu tư, vấn đề tạo lập, thu hút và sử dụng vốn luôn là vấn đề trọng tâm
được nhà nước và các doanh nghiệp rất quan tâm. Giữa tạo lập, thu hút và sử dụng luôn tồn
11

×